Sử
Lược Việt Nam Thời Cận Đại 1920-2020 (Chương
4_2) Lê
Quế Lâm |
||||||
Hoạt
động của giới trí thức Tây
học yêu nước ở Nam Kỳ thuộc địa Ngày 18/2/1934 phái đoàn
Đảng CS Pháp do Gabriel Péri cầm đầu đến
Sàig̣n tiếp xúc với Nguyễn An Ninh. Với uy tín cá
nhân, Nguyễn An Ninh đă thuyết phục
được Gabriel Péri thành lập một Mặt
trận Tranh Đấu thứ hai, phối hợp
hoạt động các nhà cách mạng miền Nam, theo xu
hướng Đệ Tam, Đệ Tứ và Quốc
Gia. Với sự ủng hộ tài chánh của Đảng
CS Pháp. Nguyễn An Ninh cùng Nguyễn Văn Tạo,
Tạ Thu Thâu, Phan văn Chánh, Lê Văn Thử vận
động tái xuất bản báo La Lutte. Lúc bấy giờ trên
thế giới, hầu như các đảng CS theo xu hướng
Stalin đă được chỉ thị phải vu cáo,
chửi rủa, mạ lỵ cánh tả đối
lập theo xu hướng Trotsky. Nhưng tại Nam
Kỳ, Nguyễn An Ninh lại thành h́nh một liên minh
giữa những người CS theo xu hướng Stalin và
Trotsky. Đây là giai đoạn tái xuất bản báo
Tranh Đấu. Liên minh tả phái thỏa thuận không
đả động đến xu hướng Stalin hay
Trotsky. Các bài báo sẽ không đề tên tác giả,
tránh bàn đến xu hướng đối nghịch,
chỉ cùng nhau quảng bá cơ sở lư luận chung
của tư tường Karl Marx. Đây là đợt tái
xuất bản của tờ La Lutte bộ mới
(số 5) ngày 4/10/1934. (12) Hồ Hữu Tường
đă thuật lại buổi hội của Nguyễn
An Ninh khi có mặt đông đủ các anh em thuộc
Đệ Tam và Đệ Tứ. Nguyễn An Ninh mở
đầu: “Có một vị Mạnh thường quân
giao cho tôi một số tiền mọn, muốn ḿnh cho
ra lại báo La Lutte, với một lập trường
chính trị rất rộng răi. Bất cứ ai
chống đối bất công, áp bức của
chế độ thực dân và tệ đoan di sản
của quá khứ, không phân biệt chánh kiến cá nhân
và đường lối đảng phái đều có
thể tham gia vào. Điều kiện duy nhất là quay
mũi dùi chống đối phương chung, nên không
được trong phạm vi của tờ báo, chỉ
trích lẫn nhau…” (13) Trong buổi hội
kể trên, Nguyễn Văn Tạo tuyên bố đồng
ư, về sau có thêm Nguyễn Văn Nguyễn vừa măn
tù Côn Nôn về và Lê Văn Thử. Bên phái xu hướng
Trotsky có Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Chánh,
Hồ Hữu Tường. Nguyễn An Ninh có mời thêm
Trần Văn Thạch, Trịnh Hưng Ngẫu,
Trần Văn Luông. Đầu năm 1935
có cuộc bầu cử Hội đồng Quản
hạt (Conseil Colonial). Lúc bấy giờ việc tổ
chức bầu cửchia thành 5 vùng gọi là 5 quận
ở Nam Kỳ. Mỗi quận cử hai nghị viên chính
thức và 1 dự khuyết. V́ lư do không đủ tài
chánh, cán bộ và ứng cử viên, nên nhóm Tranh Đấu
chỉ đưa ra 2 liên danh ra tranh cử ở 2
quận thuộc miền Đông Nam Kỳ. Liên danh Lao
động quận 1 gồm có Phan Văn Hùm, Hồ
Hữu Tường và Nguyễn văn Nguyễn. Liên
danh Lao động quận 2 gồm có Nguyễn Văn
Tạo, Trần Văn Thạch và Dương Bạch
Mai. Cuộc bầu cử này diễn ra vào tháng 3/1935, nhóm
Tranh Đấu thất bại, không có ai đắc
cử. Đến tháng 5/1935, có cuộc bầu cử
Hội đồng Thành phố vào ngày 6 và 12. Hai đại
biểu xu hướng Trotsky: Tạ Thu Thâu và Trần Văn
Thạch cùng hai đại biểu xu hướng Stalin:
Nguyễn Văn tạo và Dương Bạch Mai đều
được bầu làm hội đồng thực
thụ. Nhóm Lập Hiến chỉ có một đại
biểu được đắc cử. Năm 1936, Mặt
trận B́nh dân (Front Populaire) ở Pháp, gồm đảng
Xă hội và Cộng sản chiến thắng trong
cuộc bầu cử ngày 3 tháng/5, dẫn đến
việc thành lập một chính phủ do lănh tụ
đảng Xă hội Léon Blum làm thủ tướng
chỉ bao gồm các bộ trưởng thuộc cánh
tả. Một làn sóng hy vọng mới đă tràn đến
Đông Dương. Nhóm Tranh Đấu do Nguyễn An
Ninh đề xướng, kêu gọi mọi tổ
chức triệu tập Đại Hội Đông Dương.
Đảng CS Đông Dương cũng thay đổi
đường lối hoạt động, để phù
hợp với t́nh thế mới. Họ tạm thời
không c̣n nêu khẩu hiệu ‘đánh đổ đế
quốc” và “tịch thu ruộng đất của
địa chủ chia cho dân cày” được đề
ra trong “Mặt trận nhân dân Phản đế
Đông Dương”.Thay vào đó là Mặt
trận Dân chủ Đông Dương, để
đẩy mạnh phong trào đấu tranh đ̣i dân
chủ. Mặt trận vận động tổ
chức Đại hội Đông Dương để
đ̣i chính phủ B́nh Dân ở Pháp phải thi hành
những cải cách dân chủ và cải thiện đời
sống nhân dân. (14) Lúc bấy giờ nhóm
Lập Hiến cũng chủ trương liên kết
với nhóm cộng sản Đệ Tam và Đệ
Tứ thành lập Đại hội Đông Dương
nhằm thu thập nguyện vọng của dân chúng
để yêu cầu chính phủ Pháp ban bố những
quyền tự do dân chủ và cải thiện đời
sống của người dân bản xứ. Bác sĩ
Nguyễn Văn Thinh thành lập đảng Dân chủ
Nam kỳ. Việc thành lập những ủy ban hành
động chuẩn bị cho Đại hội Đông
Dương được phát động rầm
rộ khiến chính quyền thực dân hoảng
hốt và t́m cách đàn áp. Thống đốc Nam
Kỳ Georges Rivoal ra lịnh cấm các cuộc hội
họp và biểu t́nh trong địa phận thành
phố Sàig̣n-Chợlớn. Từ 21/9/1936 đến
đầu tháng 10/1936, các ông Trần Văn
Thạch, Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Văn
Tạo lần lượt vào tù. Tháng 4/1937 có cuộc
bầu cử mới vào Hội đồng thành phố
Sàig̣n-Chợlớn, Phan Văn Hùm đứng ra chủ
tọa cuộc vận động tranh cử ở
rạp hát Thành Xương ngày 21/4. Sự hợp tác
cuối cùng của hai xu hướng Đệ Tam và
Đệ Tam đă giúp họ chiến thắng vẽ
vang.Tạ Thu Thâu đắc cử với 765 phiếu,
Nguyễn Văn Tạo được 735 phiếu và Dương
Bạch Mai được 715 phiếu. Chính quyền
thực dân không thể chịu đựng được
cuộc thử thách mới này. Qua tháng 5/1937 họ
đă bắt Thâu và Tạo, sau đó là Nguyễn An
Ninh bị giam ở khám lớn Sàig̣n với
tội danh “âm mưu lật đổ chánh quyền”
trong các bài báo đăng trên tờ Tranh Đấu.
Trong khi Tạ Thu Thâu và Nguyễn An Ninh bị giam, Phan Văn
Hùm đảm đang công việc ở báo Tranh Đấu
cùng với Trần Văn Thạch và Phan Văn Chánh. Từ tháng
6/1937 Nguyễn Văn Tạo và những người theo
xu huớng Stalin Đệ Tam, chấp hành chỉ
thị của Liên Sô, chấm dứt hợp tác với
Đệ Tứ, rút lui khỏi báo La Lutte. Báo này
trở thành cơ quan ngôn luận riêng của nhóm Đệ
Tứ. C̣n phái Đệ Tam phát hành báo Le Peuple (Dân chúng). Sự
ly khai trong nhóm Tranh Đấu bắt đầu khi Marcel
Gitton phụ trách Phân bộ thuộc địa của
Đảng CS Pháp gởi thư đề ngày 19/5/1937
khuyến cáo phái Đệ Tam ở Sàig̣n: “Chúng tôi
xét rằng không thể nào tiếp tục hợp tác
giữa Đảng và những người xu hướng
Trotsky. Theo các chỉ thị chúng tôi đă nhận
được để truyền lại các đồng
chí về thái độ đối với những người
xu hướng Trotsky ở Đông Dương”. (15) Trong báo Prada (Sự
Thật) ngày 14/2/1937, Stalin chỉ trích những người
theo xu hướng Trotsky là “những kẻ đầu
trâu mặt ngựa, những tên sẳn sàng gây tội
ác”. Nguyễn Ái Quốc tiếp lời Stalin đả
kích Đệ Tứ Việt Nam: “Đối với
bọn Tờ-rốt-Kưt không thể có một thỏa
hiệp nhân nhượng nào. Phải dùng mọi cách
lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát
xít, phải tiêu diệt chúng…Bọn Tờ-Rốt-Kưt
không chỉ là kẻ thù của chủ nghĩa cộng
sản, mà c̣n là kẻ thù của dân chủ. Đó là
bọn phản bội và mật thám tồi tệ
nhất…” (16) Ngày 29/5/1937 phe Đệ
Tam ở Sàig̣n liền tung ra báo L’Avant Garde” (Tiền
Phong) tố cáo: “Những người xu hướng
Đệ Tứ Quốc Tế là “anh em sinh đôi
với chủ nghĩa phát xít”. Họ tiết
lộ trong diễn văn đọc trước hội
nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng
CS Liên Sô ngày 3/3/1937 “đồng chí Stalin của chúng
ta đă nhận xét rằng chủ nghĩa Trotsky không c̣n
là một trào lưu chính trị trong giai cấp thợ
thuyền nữa như bảy tám năm về trước.
Chủ nghĩa Trotsky là bạn đồng minh, là tay sai
của chủ nghĩa phát xít”. Có việc trớ trêu
là người thủy thủ Pháp phụ trách việc
chuyển thư đă nhầm lẫn các tên Tạo và
Thâu nên đưa nhằm bức thư của Gitton cho
Thâu thay v́ đưa cho Tạo là thủ lănh phe Đệ
Tam! Bức thư của Gitton đă được phanh
phui trên báo Tranh Đấu ngày 29 tháng 8, 1937. Phái Đệ
Tam đă tức giận buộc tội những người
Đệ Tứ đă đánh cấp thư tín bí
mật của họ “đă trở nên một
bọn lính kín tầm thường”. (17) Ngày 17/3/1938 Léon Blum
trở lại chính quyền nhưng chỉ tồn
tại trong ba tuần, Édouard Deladier lănh tụ Đảng
Xă hội Cấp tiến (Parti Radical – Socialiste) thay
thế làm thủ tướng Pháp (10/4/1938), kết thúc
sự hiện diện của Mặt trận B́nh Dân. Phái
Đệ Tam ở Sàig̣n đổi tên tờ L’Avant
Garde (Tiền Phong) thành Le Peuple (Dân chúng) và xuất
bản bằng chữ quốc ngữ. do sắc luật
Daladier ngày 30/8/1938 cho phép báo chí quốc ngữ
được phát hành không cần xin phép trước.
Từ ngày 9/10/1938 tờ La Lutte cũng bắt đầu
xuất bản với hai thứ tiếng Pháp và
quốc ngữ là Tranh Đấu. Tháng 4/1939 có cuộc
bầu cử Hội đồng Quản hạt, lần
này hai nhóm Đệ Tam và Đệ Tam trở thành
đối thủ trong cuộc tranh cử. Một
dịp để nhận định thái độ
của người dân Nam Kỳ đối với hai
chủ trương của Đệ Tam và Đệ
Tứ. Trong cuộc bầu cử này. Liên danh (sổ)
Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch
đắc cử trong khi sổ “Mặt trận Dân
chủ” của Nguyễn Văn Tạo và Dương
Bạch Mai thất bại v́ cử tri cho họ đă
“đi theo chánh quyền”. Cuối tháng 8/1939, Đức kư hiệp ước
bất tương xâm với Liên Xô, sau đó Hitler xua
quân vào Ba Lan. Anh và Pháp tuyên chiến với Đức.
Thế chiến II bắt đầu bùng nổ. Ngày
25/9/1939 Đảng CS Pháp bị cấm hoạt động
v́ lư do Stalin đă kư hiệp ước với Hitler, mà
Đảng CS Pháp th́ lúc nào cũng hoạt động
theo chỉ thị của Liên Sô. Ngày 28/9/1939 hưởng ứng lịnh cấm
ở Pháp, toàn quyền Đông Dương Georges
Catroux ra sắc lịnh “cấm lưu hành
mọi tài liệu tuyên bá nhằm tuyên truyền
những khẩu hiệu của Đệ Tam
Quốc tế và của những tổ chức có liên
quan đến nó”. Các báo có xu hướng Đệ
Tứ và Đệ Tam đều bị cấm. Phan Văn
Hùm, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Số,
Hồ Hữu Tường …đều bị bắt. Ngày 15/10/1939 Nguyễn An Ninh bị bắt, bị
kết án 5 năm khổ sai và bị đày ra Côn Đảo.
Tạ Thu Thâu cũng bị bắt ngày 16/4/1940 và bị đày
ra Côn Đảo. Sự đắc cử của ba người
Đệ Tứ được vào Hội đồng
Quản hạt đều bị hủy ngày 23/10/1940. Ngày
6/11/1939 Đảng CS Đông Dương bỏ
khầu hiệu”Mặt trân Dân chủ” và thay
bằng “Mặt trận Thống nhất các dân
tộc Đông dương chống Đế
quốc”.(18) Đầu
năm 1940 nước Pháp đă bị Đức
chiếm đóng, quân Nhật đổ bộ vào Đông
Dương, lợi dụng thời cơ này, Xứ
ủy Nam Kỳ do Vơ Văn Tần làm bí thư
chuẩn bị kế hoạch Nam Kỳ khởi nghĩa.Trung
ương đảng Cộng sản Đông Dương
nhận định điều kiện khởi nghĩa
chưa chín muồi, nên cử Phan Đăng Lưu vào
Nam đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ tạm hoăn
cuộc khởi nghĩa, nhưng vừa đến Sàig̣n,
cuộc khởi nghĩa đă bùng nổ trong đêm 22
rạng sáng ngày 23/11/1940, Phan Đăng Lưu bị Pháp
bắt cùng với Tạ Uyên bí thư xứ ủy Nam
Kỳ thay Vơ Văn Tần đă bị Pháp bắt
hồi cuối tháng 7 cùng với Nguyễn Thị Minh
Khai, khi kế hoạch khởi nghĩa bị Pháp khám phá.
Nam Kỳ khởi nghĩa thất bại, các cán bộ
lănh đạo đảng Cộng sản Đông Dương
như Nguyễn Văn Cừ Tổng bí thư và các
ủy viên trung ương Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu,
Vơ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Tạ Uyên…bị
tử h́nh. Trước
đó, Nguyễn An Ninh v́ nhiệt t́nh yêu nước, dùng
ng̣i bút đấu tranh với Pháp nên việc ngồi tù
vào khám xảy ra thường xuyên. Ngày 5/10/1939 ông
bị Pháp bắt lần thứ 5 với án tù 5 năm,
bị đày ra Côn Đảo. Điều đau đớn
là Nguyễn An Ninh tận ḷng ủng hộ cộng
sản, nhưng v́ không thuộc giai cấp công nhân, nên
không gia nhập đảng cộng sản. V́ lẽ
đó, trong lao tù ở Côn Đảo bị Pháp đày
đọa tàn nhẫn, đói khát cực khổ vô cùng,
nhưng ông không được những bạn tù
cộng sản đùm bọc an ủi, trái lại c̣n t́m
mọi cách cô lập và ám hại. Ông qua đời ngày
14/8/1943. Sau đây là lời của Lê Tấn Thông
một tù nhân Côn Đảo với Nguyễn An Ninh
được nhà văn An Khê ghi lại trong sách
tựa đề “Từ khám lớn đến Côn
Đảo”: “Ông
Ninh ở tù bị bọn cộng sản cô lập, không
cho ai nói chuyện với ông, giúp đỡ ông một
việc cỏn con nào. Ông Ninh bị thủng, phải
nằm khám nhà thương. Chúng không cho thuốc,
lại giả làm tù mới ở đất liền ra
phao đồn vợ ông không c̣n phụng dưỡng
cha ông nữa. Ông Ninh rất có hiếu với cha, nghe
kể thế rất đau buồn. Chúng lại bảo
bệnh ông muốn cho mau khỏi, nên ăn gan con vích
sống hay uống máu vích th́ chóng khỏi. Chúng
đưa vích và máu vích cho ông, ông dùng xong th́ mất.
Bọn cộng sản vỗ tay reo mừng: “Nguyễn
An Ninh tham ăn mà chết”, Bọn cộng sản quái
ác c̣n chôn sắp ông, úp mặt xuống đất…” (19) Trong
tác phẩm “Nguyễn An Ninh: Dấu ấn để
lại”, tác giả Lê Minh Quốc ghi lại sự
kiện bi thảm: “Rognorn, người lính Pháp gác
cổng trại giam, đă kêu rú lên khi thấy trong
chiếc bao bố là xác ông Ninh được bó trong
manh chiếu. Rognorn chạy nhanh đến xin chúa đảo Côn
Đảo Tisseyer một cái ḥm, nhưng chẳng
được ǵ ngoài lời chửi rủa. Bà
Charlotte Printanière, vợ của giám đốc Sở
điện của đảo, trước đây cùng
học chung với ông Ninh, đến ngỏ ư muốn
đóng một quan tài cho ông, nhưng cũng bị chúa
đảo từ chối. V́ vậy, chiếc xe ḅ
chở xác Nguyễn An Ninh cứ như thế, lại
tiếp tục lộc cộc đi qua những con
đường gập ghềnh để đến khu
mộ Hàng Keo. Thấy quần áo ông quá cũ nát,
một người tù đă lấy chiếc áo c̣n khá
lành lặn của ḿnh để thay. Và họ đă t́m
thấy trong túi áo ông một bài thơ viết
nghệch ngoạc như sau:
Hai
năm sau cái chết đau thương của đứa
con Việt Nam yêu nước Nguyễn An Ninh, cuộc
đấu tranh giành độc lập cho đất nước
bắt đầu diễn ra trong bối cảnh vô cùng
thuận lợi khi Thế chiến II vừa chấm
dứt (Tháng 8/1945). Trong khi tiến hành chiến tranh,
tổng thống Hoa Kỳ Franklin. Roosevelt luôn khuyến cáo
hai đồng minh thân cận Anh, Pháp phải thay đổi
chính sách thuộc địa, v́ đó là mầm móng
của chiến tranh và là nhược điểm
của các nước Tây phương. Ông nói “Đă
đến lúc các chính phủ phải nghe lời nói
của các dân tộc thuộc địa, nếu chúng
ta cứ mặc t́nh để hàng triệu con người
lại rơi vào chế độ nô lệ thuộc
địa trá h́nh, th́ một cuộc chiến khác
sẽ xảy ra”. (21) Do
đó Anh, Pháp quyết định, sau khi thu hồi các
thuộc địa, họ sẽ thương lượng
với những người bản xứ và trao trả
độc lập cho các thuộc địa để
duy tŕ ảnh hưởng của ḿnh. Đầu năm
1945, Pháp trở thành một trụ cột của 5 cường
quốc Đồng minh thắng trận, De Gaulle thủ
tướng chính phủ Lâm thời Pháp đưa ra tuyên
ngôn 24/3 hứa sẽ cho các nước Đông Dương
được tự trị trong khối Liên Hiệp Pháp. Một
việc đau ḷng là Bùi Quang Chiêu là người
từng đ̣i Pháp chấp nhận các nước Đông
Dương được tự trị “Pour le Dominion
Indochinois”, đă bị cộng sản thủ tiêu trong
Cách mạng tháng 8/1945. Từ năm 1939, ông đă ngưng
hoạt động hoạt động, rút lui về dưỡng
già…Nhưng đến tháng 9/1945 khi Pháp vừa trở
lại Nam Kỳ ông bị Việt Minh Cộng sản
kết tội “Việt gian”, bắt tại Chợ
Đệm gần Phú Lâm ngày 29/9/1945 cùng vợ và 4 con,
đem đi thủ tiêu mất xác, trong đó cô gái út
mới 16 tuổi. (22) Con
gái của ông là Henriette Bùi Quang Chiêu (1906-2012) thoát
khỏi cảnh toàn gia bị tru di, có lẽ v́ bà không
hoạt động chính trị, chồng bà lại gia
nhập Việt Minh. Bà là bác sĩ gốc Việt đầu
tiên ngành sản phụ khoa, tốt nghiệp Đại
học Y khoa Paris năm 1934. Trở về nước, bà
làm Trưởng khoa Hộ sinh cho một bịnh
biện Sản khoa ở Chợlớn, kết hôn
với Vương Quang Nhường một luật sư
nổi tiếng lúc bấy giờ vốn là bạn
của thân phụ bà. Cuộc hôn nhân gượng ép do
sự sắp xếp của người cha chỉ kéo dài
hai năm, sau đó bà sống chung với người
bạn đời cùng du học, cùng quê hương
Bến Tre là Nguyễn Ngọc Bích, con Giáo tông Cao Đài
hệ phái Bến Tre nguyên là một Đốc phủ
sứ thanh liêm, đức độ. Ông Bích tốt
nghiệp kỹ sư cầu cống từ trường
nổi tiếng bậc nhất xứ Pháp “École
Polytechnique” là người quốc gia yêu nước
đă gia nhập Việt Minh kháng chiến chống Pháp
từ những ngày đầu, được cử làm
Khu bộ phó Khu 9. Năm
1946 Nguyễn Ngọc Bích bị Pháp bắt ở Sóc Trăng
bị kết án tử h́nh. Nhờ sự can thiệp
của các bạn học ở École Polytechnique, ông
được tha nhưng phải rời khỏi VN. Bà
Henriette Bùi theo chồng, hiến biệt thự số 28
đường Testard (nay là Vơ Văn Tần) vốn là
Bảo sanh viện do bà lập ra năm 1940, làm trường
Đại học Y khoa đầu tiên tại Sàig̣n. Bà
sống ở Pháp một thời gian rồi trở
về quê hương, mở bịnh viện tư
ở đường Richaud (nay là Nguyễn Đ́nh
Chiểu), sau đó sang Nhật học về châm
cứu để “hỗ trợ những mặt mà Tây
y c̣n yếu”. Năm 1971, bà rời quê hương
trở lại Pháp mở pḥng mạch và chết
tại Paris năm 2012. C̣n
chồng bà, Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích khi
trở lại Pháp ông theo học Đại học Y
khoa đậu bằng bác sĩ. Nhưng không hành
nghề này mà trở thành giáo sư dạy môn Vật
Lư tại trường đại học này. Khi bị
trục xuất về Pháp, Nguyễn Ngọc Bích có người
em út tên Nguyễn Ngọc Nhựt đă tốt
nghiệp Kỹ sư cầu cống ở École
Polytechnique. Nhựt có vợ đầm, con một gia
đ́nh rất có thế lực, danh tiếng ở Pháp,
nhưng v́ t́nh yêu nước, ông đă nối chí anh
trở về quê hương tham gia kháng chiến. Ông
bị Pháp bắt tại rạch Cái Bèo, Đồng Tháp
Mười cùng với Nguyễn Văn Khảm, cả
hai là Phó chủ tịch “Cao Đài Cứu quốc 12
phái Hiệp Nhứt”, ủy viên Ủy ban hành chánh kháng
chiến Nam Bộ. Chủ tịch là Luật sư
Phạm Văn Bạch, Phó chủ tịch là Cao
Triều Phát đạo trưởng Cao Đài Minh Chơn
Đạo, chủ tịch Cao Đài Hiệp nhứt. Trước
ngày Nguyễn Ngọc Nhựt bị bắt, cơ quan
bảo vệ Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ
đă có tin “ngày mai quân Pháp sẽ mở trận càn
vào Cái Bèo. Có thể chúng sẽ nhảy dù, chụp
xuống cơ quan Nam bộ bắt sống cơ quan
đầu năo của ta”. Ngay tức khắc, cơ quan
đă có kế hoạch di tản bằng cách phân tán
lực lượng. Cụ Cao Triều Phát đă
được hộ tống ra đi an toàn trên
chiếc ghe tam bản, xuyên qua cánh đồng Lúa Ma
trong đêm tối, đi về Cái Mác, Cao Lănh. Hôm
ấy cơ quan chỉ c̣n Nhựt và Khảm, họ
thấy cơ quan vắng lặng như tờ. (23) Có
nguồn tin cho rằng Nhựt và Khảm sở dĩ
bị Pháp bắt cũng như Nguyễn Ngọc Bích
bị Pháp bắt hai năm trước là âm mưu
của Việt Minh nhằm ly gián Giáo Tông Nguyễn
Ngọc Tương với Pháp? Họ kỳ vọng Giáo
Tông v́ thương con, sẽ can thiệp xin Pháp phóng thích,
nhờ đó mấy trăm ngàn tín đồ Cao Đài
Giáo phái Chỉnh Đạo Bến Tre sẽ không c̣n
chống Pháp nữa. Nhưng họ sẽ bị
Việt Minh gán là Việt gian! V́ sự an nguy của tín
đồ, Giáo Tông đành làm ngơ không cứu con. Mùa
Thu năm 1946 đứa con dâu Henriette Bùi, vợ
Nguyễn Ngọc Bích quỳ dưới chân ông với
lời khần cầu thống thiết “Đức Giáo
Tông, papa ơi, hăy cứu lấy chồng con”, nhưng
ông cương quyết không can thiệp. Rồi 2 năm
sau đến lượt đứa con dâu út Clodine,
vợ Nguyễn Ngọc Nhựt, một cô đầm
mặc áo dài VN để tỏ ḷng tôn kính gia tộc
nhà chồng, đến quỳ dưới chân cha
chồng cầu khẩn: Papa, xin papa hăy cứu chồng
con. Xin papa hăy đi cùng con đến Sở mật thám.
Chỉ có papa mới cứu được anh ấy!
Đức Giáo Tông cũng dửng dưng. Đến
ngày mùng 5 tháng 5 năm Tân Măo (1951) được hung
tin Nguyễn Ngọc Nhựt bị đưa vào
quản thúc ở nhà thương điên Biên Ḥa, Đức
Giáo Tông bắt đầu tuyệt thực, tịnh
khẩu, giam ḿnh trong tịnh thất cho đến ngày
viên tịch 10 ngày sau (Đêm 14 rạng 15 tháng 5 năm
Tân Măo 1951). Trong
Lời Giới Thiệu quyển sách viết về
cuộc đời của Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương
(1882-1951), cựu Thủ tưóng Vơ Văn Kiệt đă
viết:“Thời kỳ đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp, tôi có dịp gặp Nguyễn
Ngọc Bích tronh chiến khu. Khi đó ông Ngọc Bích là
Khu bộ phó khu 9, một “dân Tây” đẹp
trai và đặc biệt nhiệt t́nh. Tôi không
được gặp Nguyễn Ngọc Nhựt –nhưng
được nhiều người nói về ông. Sau này,
tôi có dịp tiếp xúc với một số người
thuộc lớp trí thức nổi tiếng trong cuộc
kháng chiến chống Pháp như bác sĩ Nguyễn
Thiện Thành, bác sĩ Trương Công Trung, kỹ sư
Ngô Tấn Nhơn…tôi được biết rơ hơn
về Nguyễn Ngọc Nhựt và gia đ́nh danh
tiếng của ông. Có thể nói gia đ́nh ông
Nguyễn Ngọc Tương là một điển h́nh
cho tầng lớp quan lại, địa chủ, tôn giáo
trí thức “dân Tây” yêu nước của Nam Bộ
thời đó…Đọc “Đêm trắng của
Đức Giáo Tông” tôi thấy các nhà văn không
kể lớn hay trẻ nếu có Tâm đều
có thể t́m ra những giá trị lịch sử, làm nên
những tác phẩm có giá trị. Tôi mong rằng
sẽ có thêm nhiều nhà văn với nhiều tác
phẩm về những nhân vật lịch sử,
những trí thức lớn tiêu biểu cho những giá
trị và phẩm chất Việt Nam”. Vơ Văn
Kiệt ngày 5/5/2001 (24) Yêu
nước phục vụ đất nước là
truyền thống, trở thành bản chất của dân
tộc. Khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược
Nam Kỳ, các sĩ phu Trương Công Định,
Thủ khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Phan Tôn, Phan Liêm…đă
khởi nghĩa chống Pháp. Trước sức
mạnh của thực dân, các thế hệ kế
tiếp, theo trào lưu mới t́m đường sang Pháp
hấp thụ kiến thức Tây phương để
canh tân đất nước. Đến năm 1945 Pháp
trở lại Nam Kỳ, giới trí thức Tây học
dù được Pháp đào tạo song v́ ḷng yêu nước
đă tham gia kháng chiến chống Pháp như các sĩ
phu Nho học ngày trước. Điều bất
hạnh của dân tộc, trong khi giới trí thức Tây
học mang kiến thức từ Pháp về phục
vụ quê hương, lại có một chủ
thuyết ngoại lai du nhập vào nước ta lấy
hận thù, giai cấp đấu tranh làm đường
hướng chỉ đạo. Từ đó tạo ra mâu
thuẫn giữa cộng sản và quốc gia với thành
phần trí thức tiểu tư sản và tư
sản. Khi Thế chiến II vừa chấm dứt, Cách
mạng tháng Tám nổ ra, những người cộng
sản ra tay tàn sát những phần tử đối
lập, mở đầu một tấn thảm kịch
đau thương, huynh đệ tương tàn
tiếp theo là 3 cuộc chiến tranh lớn kéo dài
gần nửa thế kỷ. Theo
thi hào Nguyễn Du“Thác là thể phách c̣n là tinh anh”.
Khi chết, xác thân trở về với cát bụi, nhưng
anh linh những người chết v́ quốc gia, v́ dân
tộc sẽ luôn quanh quẩn bên những đối tượng
mà họ đă tận hiến cả cuộc đời.
Đó là non sông đất nước, là đồng bào
chủng tộc. Ở bên kia thế giới, họ
vẫn tiếp tục pḥ hộ đồng bào đất
nước như hoài bảo lúc c̣n tại thế.
Những anh linh đó trở thành biểu tượng
thiêng liêng rất khó định nghĩa mà người
đời thường gọi là hồn thiêng sông núi,
là tiền nhân. Những
trí thức quốc gia yêu nước v́ bất
đồng chính kiến với người cộng
sản, phần lớn đă bị bức tử.
Họ mất nhưng tên tuổi và sự cống
hiến của họ cho quốc gia dân tộc vẫn c̣n
lưu lại trong lịch sử. Nhờ
hồn thiêng sông núi độ tŕ, sau biến cố
30/4/1975 Liên Hiệp Quốc đă thành lập cơ quan
Cao ủy Tị nạn giúp cả triệu người
Việt được định cư ở hải
ngoại, đa số là các nước Tây phương
tân tiến. Nhờ đó, các thế hệ thanh niên
thực hiện hoài bảo của ba cụ Phan (Thanh
Giản, Bội Châu và Chu Trinh) sẽ góp phần canh tân
đất nước khi dân tộc được
tự do, đất nước được tự
chủ, đồng bào được quyền tự
quyết vận mạng dân tộc. Lê
Quế Lâm Chú
thích: 1. Tuyển
tập Phan Giang Sang 1, Y học và Đời sống,
Sydney, 2007, Tr. 392-3 2. Mai
Thái Lĩnh (Đà Lạt), Độc lập và tự
do theo cách nh́n của Phan Châu Trinh, Báo Việt Luận
Úc Châu, thứ Sáu 14/11/2008 (Trích Phan Bội Châu Toàn
Tập, Nxb Thuận Hóa, 001, tập 6, tr.159) 3.
Quân sử III: Quân dân Việt Nam chống Tây xâm
(!847-1945) Trung tâm Ấn loát/Bộ Tổng Tham mưu/QLVNCH,
Sàig̣n, 1971, Tr. 334 4.
Trần Gia Phụng, Án tích Cộng sản Việt Nam
(In lần thứ hai) Nxb Non Nước, Toronto, Canada, 2001,
Tr.100 (Dẫn chứng từ quyển “Sàig̣n 300 năm
cũ” tác giả Nguyễn Cúc, Tiếng Sông Hương,
Dallas, 1999, Tr. 259 5-6. Sơn Nam, Cá tính miền Nam, Nhà
xuất bản Trẻ, 1997, tr. 117-119). 7.
Nguyễn An Ninh và tiếng chuông thức tỉnh đồng
bào, Báo Quân Đội Nhân Dân ngày 03/9/2019. 8.
Trần Ngươn Phiêu, Những ngày qua, Nxb Hải Mă,
Texas, 2005, Tr.141-2. 9.
Trần Gia Phụng, Án tích Cộng sản Việt Nam
(In lần thứ hai), Sđd. Tr.100 (trích dẫn Huỳnh
Kim Khánh, Vietnamese Communism 1925-1945, Cornell University Press, NY,
1989, Tr.37) 10.
Lê Minh Quốc, Dấu ấn để lại, Nxb Văn
học, 1997, Tr.167 11-13.
Trần Ngươn Phiêu, Phan Văn Hùm - Thân thế
& Sự nghiệp, Nxb Hải Mă, Texas, 2003, Tr.53, 106, 58
(Trích dẫn Hồ Hữu Tường, Hồi kư, 41 Năm
làm báo, Nxb Đông Nam Á, Paris, Tr.91) 14.
Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương,
Bốn mươi lăm năm hoạt động
của Đảng Lao động Việt Nam (In lần
thứ ba), Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1975, Tr.24-25 15-16. Trần
Ngươn Phiêu, Phan Văn Hùm, Sđd, 70 + 78. (Trích
dẫn Hồ Chí Minh toàn tập, Tập II, Nxb Sự
Thật, Hà Nội, 1980) 17-18.
Trần Ngươn Phiêu, Phan Văn Hùm, Sđd, 70-71 +
80-82. 19.
Trần Gia Phụng, Án tích Cộng sản Việt Nam:
Những cuộc thủ tiêu chính trị, Nxb Non Nước,
Toronto, Canada, 2001, Tr. 99-100 (Trích từ sách “Lịch
sử báo chí Việt Nam”, tác giả Đặng Văn
Nhâm, Nxb Việt Nam Văn Hiến, California, 1999, Tr.194) 20.
Lê Minh Quốc, Sđd, Tr. 325 21.
James Mac Gregor Burns, Roosevelt: The Soldier of Freedom 1940-1945,
Weidenfeld & Nicolsom, London, 1971, P.379 21.
Trần Gia Phụng, Sđd, Tr. 73 (Trích dẫn; Nguyễn
Cúc, Sài G̣n 300 năm cũ, Nxb Tiếng Sông Hương,
Dallas, 1999, Tr.257-8 |
||||||