Sử
Lược Việt Nam Thời Cận Đại 1920-2020 (Chương
6_1) Lê
Quế Lâm |
Chương
sáu Từ
chia rẽ, đố kỵ, tàn
sát lẫn nhau đến Toàn quốc kháng chiến Khi
Thế chiến II bùng nổ, Trung Hoa Dân Quốc là
trụ cột của lực lượng Đồng
Minh chống phát xít Nhật, đặt bản doanh
ở Hoa Nam (Côn Minh). Lúc bấy giờ các lực lượng
Cách mạng Việt Nam kể cả Việt Minh và
Hồ Chí Minh đều đến đây tranh thủ
ảnh hưởng của Đồng Minh để giành
độc lập cho đất nước khi Nhật
bại trận. Vô h́nh trung, Việt Nam bị ảnh hưởng
trở lại với Trung Hoa. Sáu
mươi năm trước (1884) Pháp và triều đ́nh
Măn Thanh đă kư Hiệp ước Thiên Tân: Trung Hoa cam
kết rút quân khỏi Bắc Kỳ và tôn trọng
những thỏa ước kư kết giữa Pháp và
triều đ́nh Việt Nam. Tháng 6 năm sau cũng
tại Thiên Tân, một hiệp ước thứ hai
được kư kết: Trung Hoa nh́n nhận sự
đô hộ của Pháp ở Việt Nam. Từ đây
Việt Nam chấm dứt hoàn toàn ảnh huởng
của Trung Hoa về mặt chính trị. Chiếc
ấn An Nam Quốc Vương do vua Càn Long nhà Thanh
cấp cho vua Gia Long đă bị hủy bỏ. Năm
1889, Pháp đại diện Việt Nam kư với
triều đỉnh Măn Thanh hiệp ước về biên
giới và lănh hải trong đó Việt Nam chiếm 62%
c̣n Trung Hoa chiếm 38% diện tích Vịnh Bắc
Bộ. Mặt
trận thứ hai của Đồng Minh chống
Nhật ở Đông Nam Châu Á đặt bản doanh
ở Singapore do Quân đội Hoàng gia Anh đảm trách.
Do đó tại Hội nghị Potsdam (Đức) nhóm
họp từ ngày 27/7 đến 2/8/1945, lănh tụ các nước
Đồng Minh quyết định sau khi Nhật đầu
hàng: Quân đội Trung Hoa Dân Quốc vào Việt Nam
giải giới Nhật ở phía Bắc Vĩ tuyến
16, Quân đội Anh vào giải giới Nhật ở
phía Nam. Cũng như ở Triều Tiên, Hồng quân Liên
Xô giải giới Nhật ở phía bắc Vĩ
tuyến 38, phía nam do quân Mỹ phụ trách. Thực
chất của việc giải giới Nhật, là để
5 cường quốc Đồng Minh thắng trận:
Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô và Trung Hoa Dân Quốc chia cắt
ảnh hưởng ở Việt Nam và Triều Tiên. Lúc
bấy giờ Pháp không có đủ lực lượng
ở đây, nên nhờ quân đội Hoàng gia Anh đảm
trách. Chính
phủ Liên hiệp Quốc Cộng ở Miền
Bắc: Giữa
tháng 9/1945,18 vạn quân Tưởng Giới Thạch
(Trung Hoa Dân Quốc) dưới sự điều động
của tướng Lư Hán, Chu Phát Thành và Tiêu Văn
sang giải giới quân Nhật ở Bắc vĩ
tuyến 16. Việc giải giới chỉ là lư do chính
thức bên ngoài, thực sự Tiêu Văn và các tướng
lănh của Tưởng Giới Thạch c̣n được
mật lịnh giúp những nhà cách mạng Việt Nam
xây dựng một chính quyền quốc gia thân Trùng Khánh.
Lúc bấy giờ có hai lực lượng Cách mạng
Việt Nam được Trung Hoa Quốc dân Đảng
ủng hộ là Việt Nam Cách mạng Đồng minh
Hội (Việt Cách) của Nguyễn Hải Thần và
Trương Bội Công đang trên đường
về nước theo ngă Quảng Đông, và lực lượng
Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc)
của Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam
về nước theo ngă Vân Nam. Hai lực lượng
vũ trang này tiến vào miền Bắc chậm mất
21 ngày, nghĩa là sau khi Việt Minh đă tạm
thời đặt xong hệ thống chính quyền các
cấp ở đây. Đến
địa đầu Việt Nam, Nguyễn Hải
Thần lên tiếng phản đối Việt Minh thành
lập chính phủ lâm thời, thực hiện
đường lối độc tài, phản bội
những điều cam kết ở hội nghị
Liễu Châu 1943. Ông yêu cầu Việt Minh mở
rộng chính phủ lâm thời cho tất cả các
đảng phái đă âm thầm đấu tranh cho
độc lập đất nước được
tham gia chính phủ Liên hiệp Quốc gia. Trước
sự việc đă rồi, Tiêu Văn đề
nghị Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ lâm
thời, dành nhiều bộ và chức vụ cho
Việt Quốc và Việt Cách. Tiêu Văn c̣n yêu
cầu Việt Minh giao nộp vũ khí, báo cáo tổ
chức và quân số các lực lượng vũ trang,
song ông Hồ Chí Minh khôn khéo phân tán lực lượng,
thay danh xưng "Giải phóng Quân" thành
"Vệ quốc Đoàn". Nhờ
"Quỹ độc lập" ủng hộ chính
phủ Việt Minh và "tuần lễ vàng" quyên góp
của nhân dân được 20 triệu đồng và
370 kg vàng, Hồ Chí Minh dùng số vàng bạc châu báu này
mua chuộc sự "trung lập" của bọn tướng
lănh Trung Hoa. Hồ Chí Minh thường chủ động
đến viếng thăm, quà biếu và dành nhiều
ưu đăi cho chúng, chẳng hạn như lính Tàu
được đổi tiền Trung Hoa lấy
tiền Đông Dương. Một đồng quan kim
ở Liễu Châu hay Nam Ninh chỉ bằng 1/6 đồng
bạc Đông Dương, nay được đổi
không hạn chế theo giá l đồng quan kim tương
đương 1,50 đồng Đông Dương. (1) Phủ Toàn quyền
Đông Dương được Hồ Chí Minh dành cho
Lư Hán và trong số tặng vật mà ông lo lót cho tên
tướng này có cả bộ bàn hút thuốc
phiện bằng vàng. Không những tướng lănh
Trung Hoa được Hồ Chí Minh mua chuộc mà
cả những tên chỉ huy cấp thấp cũng
được ông tiếp. Vơ Nguyên Giáp thuật
lại rằng có khi một tên liên trưởng (tương
đương Đại đội trưởng) cũng
đến nài nỉ gặp ông Hồ v́ một
việc riêng "hắn muốn bán một vài trăm
khẩu súng". (2) Nhà sử
học Bernard Fall nhận xét vấn nạn này: “Quân
đội Tưởng, v́ tính hám danh lợi và tầm
nh́n ngắn, đă lo liệu để Cộng sản
nắm chính quyền càng thuận lợi và hoàn hảo
càng tốt. Số tiền Việt Minh thu được
trong Tuần lễ vàng ở miền Bắc Việt Nam
được dùng để mua bán vũ khí của quân
Tưởng. Việc đó hoàn toàn thành công và cung
cấp cho quân đội Nhân dân Việt Nam non trẻ
3.000 súng trường, 50 súng trường tự động,
600 tiểu liên, và 100 súng cối do Mỹ sản
xuất - cộng thêm nguồn cung cấp đáng kể
của Pháp và Nhật để lại: 31.000 súng trường,
700 vũ khí tự động, 36 khẩu pháo và 18 xe tăng”. V́
hưởng sự đút lót của Hồ Chí Minh mà Lư
Hán quên đi lời khuyến cáo của Pháp và Mỹ
yêu cầu hắn giải giới ngay lực lượng
vũ trang của Việt Minh. Được biết sau
khi rời Việt Nam, Lư Hán được cử
tạm thay bố vợ là tướng Long Vân làm
tỉnh trưởng Vân Nam. Nơi đây, năm 1949, quân
Mao Trạch Đông đă tiến vào thủ phủ Côn
Minh như chỗ không người, Lư Hán bị
cầm tù măi đến cuối thập niên 1970 mới
được phóng thích. Để
thực hiện sự thỏa hiệp Quốc Cộng mà
hai bên đă kư kết theo sự dàn xếp của Tiêu
Văn, ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông
Dương tuyên bố tự giải tán với các lư
do được nêu ra như sau: -
V́ t́nh h́nh quốc tế và v́ t́nh h́nh trong nước
trong giai đoạn đấu tranh quyết liệt
để củng cố nền độc lập nước
nhà. -
V́ giai đoạn này cần liên hiệp tất cả
đảng phái không phân biệt giai cấp, tôn
trọng ư chí giải phóng dân tộc của quốc dân
Việt Nam. -
Thực hiện ư chí đoàn kết toàn dân thành
một khối không phân biệt giai cấp và đảng
phái của quốc dân Việt Nam, đặt quyền
lợi của tổ quốc lên trên quyền lợi
của Đảng và giai cấp. Thực
sự Đảng Cộng sản Đông Dương
chỉ tạm thời rút vào hoạt động bí
mật và cải danh thành Hội nghiên cứu chủ
nghĩa Mác Lê ở Đông Dương. (3) Đây
là hành động khôn khéo của Hồ Chí Minh v́ ông
biết rằng nhân dân Việt Nam không tán thành
đường lối đấu tranh giai cấp trong
giai đoạn nước nhà vừa độc
lập. Năm 1944, khi Quốc tế Cộng sản
tự giải tán, những người Việt Minh
chủ trương tờ Tiền Phong đă lên
tiếng kêu gọi trong số báo số 5: "Chúng tôi
hy vọng Đảng Cộng sản Đông Dương
thuận theo trào lưu, lấy việc giải phóng dân
tộc làm trọng, làm cần hơn hết, bỏ chính
sách hoạt động cũ mà bắt tay với các
đảng phái cách mạng chân chính để cùng nhau
tranh lấy độc lập cho quốc gia". (4) Do
đề nghị của Tiêu Văn, ngày 19/11/1945 ba
lực lượng Việt Minh, Việt Cách và Việt
Quốc đồng ư chấm dứt xung đột thành
lập Chính phủ thống nhất quốc gia,
thống nhất quân đội và tổ chức
tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Hai
tuần sau, dựa vào lư do sắp đến ngày
tổng tuyển cử, Việt Minh tuyên bố không
cần cải tổ chính phủ. Việt Cách và
Việt Quốc lên tiếng đả kích chính phủ
không giữ đúng cam kết, họ đ̣i hủy
bỏ thỏa hiệp ngày 19/ 11/ l945 và hô hào dân chúng
tẩy chay tổng tuyển cử. Một lần
nữa Tiêu Văn đứng ra dàn xếp đưa
đến việc h́nh thành chính phủ Liên hiệp Lâm
thời ngày 1/1/l946 với Hồ Chí Minh Chủ tịch,
Nguyễn Hải Thần Phó chủ tịch, hai bộ
Kinh tế và Vệ sinh giao cho Việt Cách và Việt
Quốc. Sau
đó do sự thỏa thuận giữa Hồ Chí Minh và
Tiêu Văn, chính phủ Liên hiệp thành lập thêm hai
bộ Quốc pḥng và Nội vụ giao cho những người
trung lập đảm trách. Phan Anh giữ chức
bộ trưởng Quốc pḥng và cụ Huỳnh Thúc
Kháng được triệu thỉnh từ Huế ra
giữ chức bộ trưởng Nội vụ. Lúc
đầu cụ Huỳnh Thúc Kháng khăng khăng
từ chối v́ lo ngại t́nh trạng đảng
tranh hiện thời. Theo ư cụ "th́ Việt Minh
và Việt Cách đều tranh đấu cho dân, các
vị lănh đạo đều là người yêu nước
đă bôn ba hải ngoại, giờ phút này phải
đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết,
phải đoàn kết lại không nên v́ chuyện
đảng phái mà xâu xé lẫn nhau". (5) Ngày
2/3/1946, Quốc dân Đại hội tức Quốc
hội khai mạc gồm 300 đại biểu Việt
Minh, 50 đại biểu Việt Quốc và 20 đại
biểu Việt Cách. Chính phủ Liên hiệp tŕnh
diện Quốc hội với Hồ Chí Minh chủ
tịch, Nguyễn Hải Thần phó chủ tịch. Các
bộ Ngoại giao, Kinh tế, Xă hội và Canh nông giao
cho Việt Cách và Việt Quốc. Các bộ Tài chánh,
Giao thông, Tư pháp và Giáo dục giao cho Việt Minh. Thành
phần Chính phủ Liên hiệp: -
Chủ tịch: Hồ Chí Minh. Phó
Chủ tịch: Nguyễn Hải Thần (Việt Cách). Bộ
trưởng Nội vụ: Huỳnh Thúc Kháng (không
đảng phái). Bộ
trưởng Quốc pḥng: Phan Anh (không đảng phái). Bộ
trưởng Ngoại giao: Nguyễn Tường Tam
(Việt Quốc). Bộ
trưởng Tư pháp: Vũ Đ́nh Ḥe (Việt Minh). Bộ
trưởng Giáo dục: Đặng Thái Mai (Việt
Minh). Bộ
trưởng Tài chánh: Lê Văn Hiến (Việt Minh). Bộ
trưởng Công chánh: Trần Đặng Khoa (Việt
Minh). Bộ
trưởng Kinh tế: Chu Bá Phượng (Việt
Quốc). Bộ
trưởng Y tế + Xă hội: Trường Đ́nh
Thi (Việt Cách). Bộ
trưởng Canh nông: Bồ Xuân Luật (Việt Cách). Sau
một ngày nhóm họp để thông qua bản văn
lập hiến và tấn phong chính phủ, Quốc
hội giao quyền lại cho Ủy ban Thường
trực Quốc hội do chính phủ đề cử
gồm 15 ủy viên do Nguyễn Văn Tố làm chủ
tịch. Pháp
trở lại Miền Bắc: Đàm
phán Pháp - Việt Minh thất bại, chiến tranh bùng
nổ Trong
lúc Pháp tiến hành việc tái lập chủ quyền
ở Nam bộ, th́ tại trụ sở Liên Hiệp
Quốc, Bộ trưởng bộ Pháp Quốc Hải
ngoại Marius Moutet gặp đại diện chính
phủ Tưởng Giới Thạch thảo luận
vấn đề các nhượng địa mà
triều đ́nh Măn Thanh đă giao cho Pháp. Hai
bên thỏa thuận một sự trao đổi
quyền lợi đưa đến hiệp ước
Pháp Hoa được đại sứ Pháp Jacques Meyrier
và Bộ trưởng ngoại Trung Hoa Wang Shijie kư
tại Trùng Khánh ngày 28/2/1946. Theo hiệp ước này,
chính phủ Pháp đồng ư trả lại cho Trung Hoa
các tô giới Thượng Hải, Thiên Tân, Quảng
Đông, Hán Khẩu và đất mướn Quảng
Châu Loan; bán lại đường xe lửa Vân Nam; và
chấp nhận Hải Pḥng là hải cảng tự do,
hàng Trung quốc được miễn thuế quan.
Để đổi lại, quân đội Pháp sẽ
thay thế quân đội Trung Hoa ở bắc Vĩ
tuyến 16. Đầu
tháng 3/ 1946, Jean Sainteny được Cao ủy D'Argenlieu
ủy nhiệm làm đại diện chính phủ
Cộng ḥa Pháp đến Hà Nội thảo luận
với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
về việc thay thế quân đội Trung Hoa tại
đây và tương lai chính trị Việt Nam. Các lănh
tụ Việt Cách và Việt Quốc kịch liệt
phản đối Việt Minh đàm phán với Pháp,
họ đ̣i hỏi "thắng hay là chết,
chớ nhất định không điều đ́nh". Cuối
cùng chính phủ Liên hiệp chấp nhận để
Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh kư Hiệp ước
sơ bộ (Accords preliminaires) ngày 6/3/1946 với Sainteny và
tướng Salan trước sự chứng kiến
của đại diện Bộ Tư lệnh Quân đội
Trung Hoa, Lănh sự quán Anh và Phái bộ Hoa Kỳ. Nội
dung hai bên thảo luận 3 khoản sau: -
Khoản thứ nhất: Pháp công nhận nước
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là một nước
tự do có chính phủ, nghị viện, quân đội
và tài chính riêng và là một thành phần của Liên
bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp.
Riêng Nam bộ tạm thời do Pháp quản lư để
chờ cuộc trưng cầu dân ư của dân chúng Nam
bộ, Pháp hứa sẽ thừa nhận những
quyết định của cuộc trưng cầu dân
ư này. -
Khoản thứ hai: Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng ḥa phải lấy t́nh thân thiện mà đón
tiếp quân đội Pháp, chiếu theo thỏa
hiệp quốc tế vào thay quân đội Trung Hoa. -
Khoản thứ ba: Sau khi hai bên đă kư, th́ phải thi
hành ngay những điều đă quy định và
mỗi bên phải t́m cách đ́nh chỉ các cuộc
xung đột. Quân đội hai bên ở nguyên tại
chỗ, tạo không khí ḥa hảo để mở
cuộc thương thuyết theo tinh thần thân
thiện và chân thật. Cuộc thương thuyết
sẽ bàn về: *
Việc ngoại giao của nước Việt Nam
với các nước ngoài. *
Quyền của Pháp trong tương lai ở Đông Dương. *
Những quyền lợi kinh tế và văn hóa của
Pháp ở VN. Theo
tinh thần hiệp ước trên th́ lúc bấy
giờ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân
chủ Cộng ḥa là kể từ Trung bộ trở ra
mà thôi, c̣n Nam bộ th́ đợi sau khi có kết
quả của cuộc trưng cầu dân ư th́ mới
quyết định được. (6) Ba
tháng sau, Hiệp ước sơ bộ được
Moutet tŕnh lên chính phủ Pháp, hiệp ước
được Paris chính thức phê chuẩn. Ngày
13/3/1946, hai bên Pháp Hoa thỏa thuận việc thay quân,
những đội quân đầu tiên thuộc Sư
đoàn cơ giới Pháp dưới sự chỉ huy
của tướng Leclerc đổ bộ lên Hải pḥng.
Để bày tỏ sự hợp tác với Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, Leclerc đề
nghị quân đội hai nước tổ chức
một cuộc diễn binh chung nhân dịp này. Sau
khi kư Hiệp ước sơ bộ, do đề
nghị của Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Tường Tam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cử Vĩnh Thụy (tức cựu hoàng Bảo Đại)
đứng đầu Đoàn Cố vấn quốc gia,
đại diện chính phủ đi thăm Trùng Khánh
để thắt chặt thêm t́nh hữu nghị hai nước
Việt Hoa. Ngày
27/3/ 1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Liên
Việt) ra đời. Hội do Huỳnh Thúc Kháng và Tôn
Đức Thắng chỉ đạo, quy tụ các
đảng Việt Cách, Việt Quốc, Mặt
trận Việt Minh và các tầng lớp nhân dân chưa
gia nhập các đảng phái, nhằm tạo sự
đoàn kết toàn dân yểm trợ cuộc đàm phán
với Pháp. Để
tiến tới một hiệp định chính thức
và toàn bộ, hai phái đoàn Việt Pháp đă gặp
nhau ở hội nghị trù bị Đà Lạt từ
19/4 đến 11/5/1946. Phái đoàn Việt Nam do Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam
cầm đầu gồm các nhân vật Quốc
Cộng như Hoàng Xuân Hăn, Hồ Hữu Tường,
Trần Văn Tuyên, Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên
Giáp...Trưởng đoàn Pháp là Nghị sĩ Max André. Khi
đi vào thảo luận, hai bên bất đồng ư
kiến ở nhiều vấn đề mà then chốt là
vấn đề độc lập và thống nhất
Việt Nam. Vấn đề càng căng thẳng thêm
khi Cao ủy D'Argenlieu công nhận Nam kỳ thuộc
địa là một nước Cộng ḥa tự
trị. Đứng đầu chính phủ này là bác sĩ
Nguyễn Văn Thinh, thủ lănh Đảng Nam Kỳ,
hậu thân của Đảng Dân Chủ do luật sư
Trịnh Đ́nh Thảo thành lập năm l936. Nước
Cộng ḥa Nam kỳ cũng được Pháp thừa
nhận là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông
Dương thuộc khối Liên Hiệp Pháp, cũng có
nghị viện, quân đội và tài chính riêng tương
tự như nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Cuộc
đàm phán không đi đến kết quả v́ thái
độ trịch thượng của Cao ủy
D'Argenlieu, y muốn tỏ ra là người đứng
đầu Liên bang Đông Dương, đứng ra
chủ tọa cuộc họp giữa phái đoàn
Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và phái đoàn Nam
Kỳ để thảo luận việc thống
nhất Việt Nam. D'Argenlieu áp đặt nhiều điều
kiện không thể chấp nhận được
khiến phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa
phải công khai phản đối trước hội
nghị "Chính phủ Pháp do những người
đại diện tại Việt Nam thiếu thành
thật nên phái đoàn Việt Nam không thể tiếp
tục thảo luận". Cuộc đàm
phán sau đó được chuyển sang Pháp để
khai thông các trở ngại. Tám
tháng trước đây khi Pháp vừa trở lại
Nam Kỳ thuộc địa, họ đă tiếp xúc ngay với
nhóm Cộng sản trong Lâm ủy Hành chánh Nam
Bộ. Cuộc thương thảo chỉ diễn
ra trong thời gian ngắn rồi tan vỡ đưa
đến chiến tranh, Nam Bộ kháng chiến. Nay Pháp
trở lại miền Bắc kư Hiệp ước sơ
bộ với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
ḥa vào ngày 6/3/1946. Nhưng ba ngày trước đó Thường
vụ Trung ương Đảng CS Đông Dương
(mặc dù tuyên bố đă giải tán) ra chỉ
thị ngày 3/3/1946: “Điều cốt tử là trong
khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không ngừng
nghỉ một phút công việc sửa soạn sẳn sàng
kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu và
nhất định không để cho việc đàm phán
với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến
của toàn dân ta” (7) Cộng
Ḥa Nam Kỳ Tự trị ra đời Trong
thời gian phái đoàn VNDCCH và Pháp gặp nhau tại
hội nghị trù bị Đà Lạt, đích thân
Bác sĩ Thinh thuộc Hội đồng Tư vấn
Nam Kỳ đă có mặt bên ngoài hội nghị để
nghe ngóng tin tức. Ông thấy lập trường
đôi bên hoàn toàn cách biệt. Phía VNDCCH đ̣i độc
lập thống nhất ngay c̣n Pháp th́ tŕ hoăn, v́ đây
là vấn đề lớn phải được
giải quyết ở cấp cao bên Paris, nên hội
nghị phải chuyển sang Fontainebleau. Cả hai bên
đều cố t́nh tŕ hoăn để chuẩn bị
chiến tranh. Để
tránh thảm họa cho đất nước, cuối
tháng 5/1946, Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh dựa vào Tuyên
ngôn 24/3 (1945) của De Gaulle: Pháp cho Nam Kỳ và các
nước Đông Dương được tự
trị, ông thành lập Chính phủ Cộng ḥa Nam
Kỳ Tự trị. Thành phần chính phủ Cộng ḥa
Nam Kỳ gồm có; -
Thủ tướng kiêm bộ trưởng Nội
vụ: Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh - Phó
thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ Quân
đội: Đại tá Nguyễn Văn Xuân -
Bộ trưởng Tư pháp: Trần Văn Tỷ -
Bộ trưởng Y tế: Bác sĩ Khương
Hữu Long -
Bộ trưởng Tài chánh: Nguyễn Thành Lập -
Bộ trưởng Công Nông: Ung Bảo Toàn -
Bộ trưởng Giáo dục: Nguyễn Thành Giung -
Bộ trưởng An ninh: Nguyễn Văn Tâm -
Thứ trưởng Công an Đô thành Sàig̣n-Chợlớn:
Nguyễn Tấn Cường -
Cố vấn: Hồ Biểu Chánh. Ngày
31/5/1946, phái đoàn Việt Nam lên đường đi
dự hội nghị Fontainebleau gồm có Phạm Văn
Đồng, Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Tạ Quang Bửu,
Trịnh Quang Bính, Nguyễn Tấn Di Trọng, Nguyễn
Mạnh Hà...Đáng lẽ bộ trưởng Ngoại
giao Nguyễn Tường Tam cầm đầu phái đoàn,
nhưng đến ngày lên đường ông cáo
bệnh và xin từ chức. Phạm Văn Đồng
được cử thay thế. Ngoài phái đoàn chính
thức kể trên, ông Hồ Chí Minh cũng sang Paris tham
dự cuộc đàm phán thể theo lời mời
của thủ tướng Pháp Felix Gouin. Phái
đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng ḥatố cáo Pháp
vi phạm hiệp ước sơ bộ 6/3 khi thành
lập nước Cộng ḥa Nam kỳ. Pháp đưa
ra những hiệp ước mà triều đ́nh
Huế đă kư kết, cho rằng Nam kỳ là
thuộc địa của Pháp nên họ có quyền xây
dựng một thể chế phù hợp với
nguyện vọng người dân địa phương.
Pháp cam kết sẽ tổ chức cuộc trưng
cầu dân ư theo tinh thần Hiệp ước sơ
bộ để người dân Nam bộ quyết định
muốn tự trị hay muốn thống nhất vào lănh
thổ Việt Nam. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
lập luận rằng mục đích của cuộc trưng
cầu dân ư ghi trong Hiệp định sơ bộ không
phải để hỏi chủ quyền Nam bộ
thuộc về đâu v́ Việt Nam đă có ba kỳ mà
cuộc bỏ phiếu chỉ để hỏi nhân dân
Nam bộ có muốn giữ giới hạn
"kỳ" hay không trong khuôn khổ nước
Việt Nam thống nhất. Cuộc
đàm phán v́ thế đi vào bế tắc, một
phần do chính phủ Pháp dựa vào sức
mạnh chỉ muốn công nhận Việt Nam là
một nước tự do thân hữu với Pháp. Sau
đó từng bước trao trả dần chủ
quyền độc lập cho Việt Nam như họ
đă thực hiện đối với 5 tỉnh
thuộc địa của họ ở Ấn Độ.
Sự nhượng bộ quá sớm ở Đông Dương
sẽ nguy hai đến ảnh hưởng của Pháp
ở các thuộc địa c̣n lại. Mặt khác là
do thái độ cứng rắn của Hồ Chí Minh
xuất phát từ sự nhận định chủ
quan. Ông hy vọng t́nh h́nh nội chính Pháp sẽ có
thay đổi lớn sau cuộc tổng tuyển cử
tháng 11/1946. Lúc bấy giờ, đảng Cộng
sản Pháp là đảng mạnh nhất trong Quốc
hội và hiện có 4 đảng viên tham gia chính
phủ. V́ thế rất có thể Pháp sẽ thừa
nhận Đông Dương độc lập và kư
một bản hiệp ước thân thiện để
giữ thể diện với quốc tế và cứu văn
quyền lợi kinh tế Pháp ở Đông Dương. (C̣n
tiếp) Lê
Quế Lâm |