Sử
Lược Việt Nam Thời Cận Đại 1920-2020 (Chương
6_2) Lê
Quế Lâm |
Chương
sáu (tiếp) Từ
chia rẽ, đố kỵ,
tàn sát lẫn nhau đến Toàn quốc kháng chiến Hội
nghị Fontainebleau bế tắc. Trước lúc phái
đoàn Việt Nam sắp sửa về nước, do yêu
cầu của Hồ Chí Minh, bộ trưởng bộ
Pháp quốc hải ngoại Maurice Moutet đă cùng
Hồ Chí Minh kư một văn kiện ngoại giao
gọi là tạm ước (Modus vivendi) ngay trong đêm
14/9/ 1946 tại tư thất Moutet. Trong tạm ước
14/9/1946, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa
thừa nhận giá trị thỏa ước 6/3, công
nhận nước Cộng ḥa Nam Kỳ cho đến lúc
có cuộc trưng cầu dân ư tại đây. Trong lúc
chờ đợi, các lực lượng Việt Minh
tại Nam bộ phải tập trung vào những khu
vực được chỉ định để
giải giới chờ trưng cầu dân ư. (8) Hai
bên cùng thỏa thuận giữ thái độ thân
thiện cho đến tháng Giêng 1947 là thời hạn
cuối cùng, hai bên sẽ tái tục cuộc đàm phán
để kết thúc vấn đề Việt Nam
bằng một hiệp ước chính thức. (9) Những
người lănh đạo Mặt trận Việt Minh
ở Nam Bộ cũng như ở miền Bắc đều
không muốn giành độc lập cho đất nước
bằng con đường ḥa b́nh thương lượng
với Pháp mà phải đánh đổ chế độ
thực dân đế quốc theo đường
lối do lănh tụ Liên Xô Stalin vạch ra. V́ thế
từ hội nghị sơ bộ ở Đà Lạt
đến hội nghị chính thức ở Fontainebleau
phái đoàn VNDCCH luôn đ̣i hỏi Pháp phải trao
trả độc lập cho Việt Nam và thống
nhất đất nước ngay. Đ̣i hỏi
cứng rắn này nhằm làm tan vỡ đàm phán
để phát động chiến tranh. Hoài
bảo của Bác sĩ Thinh khi thành lập Chính phủ
Cộng ḥa Nam Kỳ Tự trị là để phối
hợp với Chính phủ VNDCCH của Hồ Chí Minh thương
thuyết với Pháp. Hai bên Việt Nam, một bên ôn ḥa,
một bên cứng rắn có thể duy tŕ được
sự đàm phán. Nếu đổ vỡ, chiến
tranh sẽ xảy ra. Cả
hai đều được Pháp thừa nhận là
những nước Cộng ḥa Tự do, cao hơn
mức tự trị mà bọn chúng dự trù năm trước.
Điều đó cho thấy Pháp đă phần nào nhượng
bộ, v́ đó là đ̣i hỏi của Mỹ, nước
đang giúp Anh, Pháp và Tây Âu tái thiết với kế
hoạch Marshall. Cả hai đều đấu tranh cho
nền độc lập và thống nhất quốc
gia. Vấn đề cấp thiết đối với
những người làm chính trị thức thời là
phải duy tŕ đàm phán để tránh đỗ máu
v́ chiến tranh. Đó
là con đường khôn khéo bất bạo động
của Thánh Gandhi được Nerhu thực hiện
ở Ấn Độ, nhờ đó đất nước
này giành được độc lập hoàn toàn sau ba
năm thương thảo với Anh (1945-1948). Phần
đất năm tỉnh ở Pondichery của Ấn
nguyên là thuộc địa của Pháp, sau 1945
được tự trị và cuối cùng thống
nhất vào Ấn khi nước này giành được
độc lập. Bác
sĩ Thinh là người hiền lành, trong quyển
Histoire d’Une Paix Manquée, trang 231, Sainteny thừa nhận ông
Thinh là một người yêu nước, lúc đầu
hợp tác với Bùi Quang Chiêu thành lập đảng
Lập hiến năm 1919. Đến năm 1937 trong phong
trào Dân chủ Đông Dương, ông cùng bác sĩ
Trần Văn Đôn thành lập Đảng Dân
chủ Đông Dương. Những nhân vật này
đều là những người Việt yêu nước
có uy tín lớn trong chính giới ở Paris. Pháp sẳn
sàng trao trả độc lập cho Việt Nam thông qua
những người hấp thụ văn hóa Pháp có thái
độ ôn ḥa. Nhưng việc này sẽ làm hỏng
mưu đồ của CSVN, nên Hồ Chí Minh ở
miền Bắc và Trần Văn Giàu ở miền Nam
đều chớp thời cơ cướp được
chính quyền hồi tháng 8/1945, và ra tay sát hại
nhiều trí thức Tây học có khuynh hướng ôn ḥa. Cộng
ḥa Nam Kỳ là một thực thể chính trị
của lịch sử, góp phần tích cực trong
cuộc đấu tranh giành độc lập bằng
đường lối ôn ḥa. Bác sĩ Thinh đă hành
xử theo phương châm người xưa “Gặp
thời thế thế thời phải thế” v́
lợi ích đất nước. Nhưng Cộng
sản lên án ông làm tay sai cho Pháp, trong khi nhóm người
Pháp quá khích trong Hội đồng Tư vấn Nam
Kỳ chỉ trích ông c̣n “vương vấn
với quốc gia Việt Nam” (Lê Trọng Quát, “Cuộc
chiến thứ nhất 1945-1954”, Tr. 273) Ngoài ra phe
Quốc gia lẫn Cộng sản c̣n có định
kiến, cho ông có đầu óc kỳ thị, gán
cho ông nhỡn hiệu phân ly, địa phương
cục bộ v́ chủ trương thành lập Nam
Kỳ Quốc. Trường
hợp điển h́nh cho thấy dân Nam Kỳ có
kỳ thị hay không? Năm 1948 ông Vũ Quốc Thúc
gởi đơn xin Thủ tướng Nguyễn Văn
Xuân cho ông được sang Pháp du học để hoàn
tất học vị tiến sĩ. Ông Xuân hứa
sẽ t́m cách giúp ông Thúc được toại
nguyện. Sáu tháng sau, thủ tướng cử
ông làm Công cán ủy viên trong Văn pḥng Thủ tướng
Quốc gia Lâm thời ở Paris. Ông cùng vợ
sang Paris, ông được chính phủ trả lương
để có điều kiện tiếp tục việc
ăn học. Năm 1952 dưới thời Thủ tướng
Trần Văn Hữu ông được chính phủ
Quốc gia cấp phương tiện để trở
về nước sau khi ông đậu bằng Tiến sĩ
Luật và Thạc sĩ Kinh tế. Vấn
đề phân biệt Nam Bắc là do hoàn cảnh
lịch sử tạo ra, xuất phát từ thời
Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài gần 250 năm
(1558-1802). Đất nước thống nhất sau
chiến tranh của chúa Nguyễn Ánh, đất đai
phương Nam lại trù phú. Những điểm này
khiến một số người trong giới cựu
thần của vua Lê, chúa Trịnh ở đất
Bắc và cả Tây Sơn ở miền Trung, không ít th́
nhiều có mặc cảm đối với dân miền
Nam. Đất nước thống nhất chỉ kéo
dài 60 năm, đất Nam Kỳ lại rơi vào tay Pháp.
Nơi đây là đất thuộc địa, trường
dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp được
mở rộng khắp nơi. Pháp lại ra lịnh cưỡng
bách con em các gia đ́nh khá giả phải đi học
chữ Pháp, c̣n những gia đ́nh nghèo được
cấp học bổng. V́ thế dân trí miền Nam phát
triển cao, nhiều người tốt nghiệp khoa
bảng ở Pháp; thành phố Sàig̣n nổi tiếng
khắp cỏi Đông Á là Ḥn ngọc Viễn Đông, khiến
một số người có quyền thế ở đất
Bắc và Trung Kỳ cảm thấy thua sút, sanh ḷng ganh
tỵ, t́m cách chê bai. Thử
t́m hiểu người xưa nhận xét dân Nam Kỳ
như thế nào, cũng như quan sát cách sanh hoạt
của họ, có thể thấy dân Nam Kỳ có kỳ
thị hay không? Trong quyển “Gia Định Thành Thông
Chí” viết vào khoảng 1820, Trịnh Hoài Đức
ghi nhận: “Vùng Gia Định nước Việt
Nam đất đai rộng, lương thực
nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa sống xa hoa,
ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người
tứ xứ, nhà nào tục ấy…Gia Định có
vị trí nam phương dương minh, nên con người
khí tiết trung dung, trọng nghĩa khinh tài”. Ngoài
ra, sự sống chung với người Tàu và Miên
khiến người Nam Kỳ học được tính
hiếu khách của hai sắc dân này. Theo giáo sư Lâm
Văn Bé “Bản chất hiếu khách c̣n là nhu
cầu sinh tồn của con người lưu dân
tại vùng đất mới. Trước những
khắc nghiệt của thiên nhiên, của bất
trắc, lưu dân cần sống có nhau, tương
trợ nhau. Khi mới gặp nhau, dù chưa quen biết
bao giờ, dân miền Nam đều cơm nước
trà rượu như đă là người bà con
ruột thịt. Tánh hiếu khách hào phóng của dân
Nam Kỳ là do sự trù phú, mầu mỡ của
ruộng vườn và tài nguyên dễ kiếm, làm chơi
mà ăn thiệt”. Nhà
văn Sơn Nam trong quyển “Cá tính của miền
Nam” (trang 106) lư giải bản tánh hiếu khách
của họ xuất phát từ nếp sanh hoạt
của Thiên Địa Hội - Tổ chức
“phản Thanh phục Minh” mà người Minh Hương
mang đến miền Nam Việt Nam: “Ăn cơm nhà
lo việc ngoài đường, sống chết nhờ
anh em, tận t́nh giúp đỡ bạn. Trút cả tâm
sự với bạn kết nghĩa th́ không có ǵ đáng
ngại, đă là bè bạn với nhau rồi làm sao có
chuyện phản bội. Gặp chuyện bất b́nh
hoặc như bạn nào bị kẻ khác ăn
hiếp th́ nổi nóng, trả thù cho bạn vô điều
kiện, đó là đạo nghĩa giang hồ, là
điệu nghệ anh em kết nghĩa, tứ hải
giai huynh đệ”. (10) Sau
thời Nam Kỳ thuộc địa chuyển sang
Cộng ḥa Nam Kỳ là một bước tiến
của lịch sử, vừa góp phần trong cuộc
đấu tranh giành độc lập bằng đường
lối ôn ḥa, tránh thảm họa chiến tranh. Nhưng
phe Quốc gia lẫn Cộng sản đều công kích
bác sĩ NguyễnVăn Thinh chủ trương phân ly,
lập Nam Kỳ Quốc, chia rẽ dân tộc khiến
ông uất ức, không ai hiểu được
thiện ư của ḿnh, nên treo cổ quyên sinh để
minh oan. Nổi
bất hạnh bắt đầu đổ lên đầu
dân tộc v́ hận thù, chia rẽ, đố kỵ.
Yếu tố nhân ḥa bắt đầu sứt mẽ.
Chỉ hơn một tháng sau ngày Bác sĩ Thinh quyên sinh
(10/11/1946) Hồ Chí Minh kêu gọi Toàn quốc kháng
chiến (20/12/1946) khởi đầu 35 năm chiến
tranh, xuất phát từ sự mất đoàn kết v́
mối bất đồng về đường lối
đấu tranh giành độc lập. Trong thời gian
đó, những người đồng chí hướng
với Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh như nhà báo
Nguyễn Phan Long, tướng Nguyễn Văn Xuân,
Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm…tiếp
tục con đường đấu tranh giành độc
lập, thống nhất đất nước. Hồ
Chí Minh giành được chính quyền và đứng
ra thương thuyết với Pháp là phù hợp
với chủ trương của các nước Đồng
minh thắng trận. Trong khi các lănh tụ phe Quốc
gia với lập trường cứng rắn
“thắng hay chết, chớ nhất định không
điều đ́nh”, lên án Việt Minh phản bội
dân tộc. Hồ Chí Minh khôn ngoan, khi thương
thuyết với Pháp, ông dựa vào lập trường
của phe Quốc gia, đ̣i Pháp phải thừa
nhận Việt Nam độc lập và thống
nhất ngay, nhằm chứng tỏ ông không phải là
người phản bội dân tộc. Pháp
chưa thể đáp ứng tức khắc đ̣i
hỏi của VNDCCH, ông Hồ liền phát động
chiến tranh. Ḷng yêu nước cuồng nhiệt
của phe Quốc gia đă giúp Hồ Chí Minh thực
hiện con đường của Quốc tế
Cộng sản: giương ngọn cờ chống
thực dân đế quốc, phát động phong trào
giải phóng dân tộc sau Thế chiến II. Phe
Quốc gia trở thành kẻ tử thù của Cộng
sản. Mối hận thù Quốc Cộng ngày càng phát
triển, rất nhiều người Quốc gia và nhóm
Đệ tứ tranh đấu đă bị Cộng
sản sát hại ngay trong những năm đầu kháng
chiến, khiến dân tộc chia rẽ nặng nề
trong 75 năm qua và c̣n di hại lâu dài đến ngày hôm
nay. Cuộc
đấu tranh ngoại giao với Pháp bất thành là
do sự chia rẽ của các đảng phái đă
đứng ra lănh đạo đất nước lúc
bấy giờ. Sau Thế chiến II, chính giới Pháp
vốn đă thiển cận trong việc trao trả
độc lập cho các thuộc địa, họ
lại càng ngoan cố hơn khi thương thuyết
vấn đề này với những người
bản xứ luôn chia rẻ đố kỵ nhau. Trước
lúc đàm phán, thay v́ đoàn kết nội bộ
để ủng hộ mặt trận ngoại giao, các
đảng phái lại công kích nặng lời với
nhau. Không những sự xung đột diễn ra
giữa cộng sản và các đảng phái có khuynh hướng
quốc gia mà chính các đảng phái quốc gia cũng
thiếu sự đoàn kết và thành thật hợp tác
với nhau. Một tác giả Tây phương nghiên
cứu về nội t́nh Việt Nam hồi năm 1945
đă nhận xét rằng thành phần lănh đạo các
đảng phái quốc gia th́ yếu kém bất
lực, lại có "truyền thống hục hặc
với nhau". (11) Điều
này cũng được Nguyễn Mạnh Côn, một
nhân chứng đă từng hợp tác với Việt
Minh chiến đấu chống thực dân Pháp trong giai
đoan 1945-54 ghi nhận trong hồi kư lịch sử
của ông: "Những lănh tụ quốc gia trong cùng
một mặt trận mà không bao giờ thành thật
với nhau đă nhiều lần làm cho cả mặt
trận điên đảo". Ông đơn cử
thí dụ hồi cuối năm 1945, Việt Minh lo
ngại việc tổ chức bầu cử Quốc
hội không xong nên điều đ́nh với mặt
trận Quốc gia sẽ dành cho họ 70 ghế đại
biểu, trong đó 50 cho Việt Quốc và 20 cho
Việt Cách. Mặt trận Quốc gia họp bàn và
đồng thanh không nhận. Nhưng sau đó các lănh
tụ Việt Quốc đột nhiên và tự ư riêng
nhận 50 ghế. Nguyễn Hải Thần lại
bị phe Bồ Xuân Luật theo Việt Minh nại danh
nghĩa là ủy viên thường vụ của
Việt Cách đ̣i chia 10 ghế, rốt cuộc các
đảng phái khác trong Đồng minh Hội chỉ c̣n
10 ghế. Hai tháng sau, Mặt trận Quốc gia
chống đối việc kư Hiệp ước sơ
bộ với Pháp. Nguyễn Hải Thần từ
chức Phó Chủ tịch chính phủ liên hiệp
để phản đối Việt Minh trong khi Vũ
Hồng Khanh lại hăng hái cùng Hồ Chí Minh kư vào
thỏa hiệp ấy. (12) Chính
sự yếu kém của các đảng phái quốc gia
đă tiếp tay Hồ Chí Minh thực hiện điều
mà người cộng sản gọi là chủ trương
"ḥa để tiến" (13) nhằm
loại bỏ những người quốc gia yêu nước
để giành độc quyền lănh đạo dân
tộc nhằm lèo lái nhân dân đi theo con đường
do họ vạch ra. Năm 1945, họ Hồ ve vuốt
bọn tướng lănh Trung Hoa, giải tán đảng
Cộng sản Đông Dương, thành lập chính
phủ Liên hiệp Quốc Cộng, để hợp pháp
hóa vai tṛ lănh đạo chính quyền của đảng
Cộng sản. Đến
khi Pháp trở lại miền Bắc, Hồ Chí Minh
bắt tay thương lượng với Pháp và mượn
Pháp thanh toán những người quốc gia. Hồ Chí
Minh đă nói với Sainteny: "Pháp sẽ chịu
nhiều thiệt tḥi hơn nếu phải thương
lượng với các phe phái quốc gia". Ông
cho rằng người quốc gia lúc nào cũng đ̣i
hỏi rất nhiều trong khi Việt Minh chỉ có
những đ̣i hỏi vừa phải. (14) Khi
cuộc thương lượng với Pháp tan vỡ,
Hồ Chí Minh khẩn khoản yêu cầu Moutet kư
bản tạm ước để tránh tiếng
cuộc đàm phán thất bại đưa đến
sự tan ră trong mối bang giao Việt Pháp. Ông đă nài
nỉ Moutet: "Xin đừng để tôi về
tay không như thế này. Xin hăy vũ trang cho tôi để
tôi chống lại những kẻ đang muốn qua
mặt tôi. Quư vị sẽ không phải hối
tiếc ǵ v́ đă giúp tôi như thế". (15) Khi
kư tạm ước 14/9, hai bên Pháp Việt Minh đều
có dụng ư hoăn binh. Họ cố duy tŕ mối liên
hệ chỉ nhằm để chuẩn bị mưu
đồ riêng tư của họ: một bên chuẩn
bị tái chiếm Đông Dương, một bên
chuẩn bị phát động cuộc kháng chiến. Dù
mưu đồ khác nhau nhưng hai bên lại có chung
một mục tiêu là ra tay tiêu diệt những người
quốc gia. Việt Minh cố giữ mối giao tiếp
với Pháp để người Pháp khỏi thương
thuyết với những người quốc gia, và
nhờ Pháp tiêu diệt các lực lượng quốc
gia đối kháng. Sau này khi phát động cuộc kháng
chiến chống Pháp th́ họ có chính nghĩa hơn và
lại độc quyền lănh đạo toàn dân. Pháp
th́ thừa nhận chính phủ Việt Minh để
nhờ Việt Minh ra tay thanh toán các đối thủ
quốc gia, Sau này khi chiến tranh bùng nổ, họ dùng
chiêu bài chống cộng sản có chính nghĩa hơn
là chiến đấu để tiêu diệt những người
yêu nước tranh đấu cho nền độc
lập quốc gia. Trước
lúc đàm phán với Pháp, nội bộ các phe phái
Việt Nam đă chia rẽ, đến khi cuộc đàm
phán tiếp diễn họ lại càng sát phạt nhau
một mất một c̣n. Ngay khi quân đội Tưởng
Giới Thạch vừa rút khỏi miền Bắc (15 tháng
6 năm 1946), lực lượng Việt Minh bắt
đầu khủng bố các đảng phái đối
lập. Vơ Nguyên Giáp thực hiện chiến dịch
truy quét các các đảng phái đối lập thân
Trung Hoa như Việt Quốc, Việt Cách, Đại
Việt, những người Trotskist, các lực lượng
chính trị Công giáo thân Pháp. Ngày
19/6/1946 báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt
Minh đăng bài xă luận kịch liệt chỉ trích
“bọn phản động phá hoại Hiệp ước
Sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3”. Vơ Nguyên Giáp
dùng lực lượng công an và quân đội do
Việt Minh kiểm soát, được Pháp cung cấp
vũ khí để thực hiện chiến dịch này. (16) Nguyễn
Hải Thần và các lănh tụ Việt Cách âm thầm
rút lui, Nguyễn Tường Tam và những lănh tụ
Đại Việt Dân chính cũng lên đường
sang Trung Quốc trong khi lực lượng Việt Nam
Quốc dân Đảng rút về các chiến khu, lâm vào
t́nh trạng lưỡng đầu thọ địch:
vừa chống Pháp vừa chống Việt Minh và đi
dần đến chỗ tan ră. Tháng
7/1946, công an Việt Minh tấn công trụ sở
của Việt Nam Quốc dân Đảng ở phố
Minh Khai, Ôn Như Hầu và ṭa soạn báo Việt Nam -cơ
quan ngôn luận của Việt Nam Quốc dân Đảng.
Hai bên chiến đấu quyết liệt, nhà văn Khái
Hưng chủ nhiệm báo Việt Nam bị bắt và
sau đó bị thủ tiêu. Tại trụ sở
Việt Nam Quốc dân Đảng ở đường
Ôn Như Hầu, công an Việt Minh khám phá nhiều
dụng cụ làm bạc giả, các dụng cụ tra
tấn và dấu vết máu loang lổ trên tường.
Theo công an Việt Minh, th́ Quốc dân Đảng đă
bắt cóc nhiều cán bộ Việt Minh về đây
hành hạ và thủ tiêu. Nhiều nguồn dư
luận cho rằng Việt Minh đă ngụy tạo thêm
để Vơ Nguyên Giáp mời cụ Huỳnh Thúc Kháng
lúc đó là quyền Chủ tịch chính phủ
(thời gian Hồ Chí Minh c̣n ở Pháp) đến quan
sát. Quá tức giận, cụ Huỳnh kư quyết định
giải tán Việt Nam Quốc dân Đảng. Ngày
28/10/1946, Quốc hội họp khóa hai chỉ c̣n
một số đại biểu Việt Minh, các đại
biểu Việt Cách và Việt Quốc đều
vắng mặt, cụ Huỳnh Thúc Kháng chán nản xin
rút lui. Nội bộ Việt Nam càng chia rẽ, thái
độ của Pháp càng quyết liệt. Chính phủ
Liên hiệp ở Việt Nam tan vỡ th́ cuộc đàm
phán ở Paris đi vào bế tắc, mối giao
tiếp hai bên Việt Pháp mỗi ngày thêm nặng
nề. Về đến Cam Ranh, Hồ Chí Minh đă
bị D'Argenlieu trách cứ về vấn đề Nam
bộ. Y phản đối việc thành lập Ủy
ban Hành chánh Kháng chiến Nam bộ là không phù hợp
với tinh thần bản Tạm ước 14/9 và yêu
cầu ông Hồ Chí Minh phải đích thân ra lịnh
ngưng ngay các cuộc tấn công vũ trang ở Nam
bộ. Đàm
phán Pháp & Hồ Chí Minh tan vở, chiến tranh bùng
nổ Xung
đột quân sự bắt đầu diễn ra ở
Hải Pḥng. Đầu tháng 11/1946 quân Pháp tiến
chiếm cơ quan hải quan ở cảng Hải Pḥng.
Vệ quốc quân Việt Minh phản công, Pháp gởi
tối thư yêu cầu chính quyền Việt Minh
phải rút khỏi Hải Pḥng. Ngày
23/11/1946, quân đội hai bên đă nổ súng ở
cảng Hải Pḥng. Chướng ngại vật
dựng lên đầy đường phố, một
đai tá Pháp đă tử thương khi làm công tác
dọn dẹp. Bộ đội Việt Minh tập trung
ở khu phố Trung hoa, Pháp yêu cầu triệt thoái nhưng
không kết quả, họ liền tấn công bằng
đại bác vào thành phố Hải Pḥng làm hàng ngàn
người thương vong. Ngày
29/11 Vơ Nguyên Giáp đến tiếp xúc với tướng
Molière -Tư lịnh quân đội Pháp ở Bắc
Việt. Viên tướng này nói thẳng lập trường
của Pháp là họ phải kiểm soát Hải Pḥng cùng
các vùng phụ cận và quốc lộ số 5 Hà
Nội - Hải Pḥng cũng như các trục lộ
nối liền các đồn trú quân của Pháp.
Việt Minh không chấp nhận các đ̣i hỏi
của Pháp, họ rút khỏi Hải Pḥng và chuẩn
bị chiến tranh. Ngày
15/12/l946, Hồ Chí Minh gởi thông điệp cho lănh
tụ Đảng Xă hội Pháp Léon Blum vừa
được bổ nhiệm làm thủ tướng Pháp
yêu cầu hành động gấp để cứu văn
t́nh thế. Người bạn thân hữu mà Hồ Chí
Minh đặt nhiều hy vọng đă làm ngơ trước
lời yêu cầu của ông. Lúc bấy giờ các lănh
tụ cánh tả Pháp bao gồm Đảng Xă hội và
Đảng Cộng sản đều hy vọng sẽ
giành được chính quyền thông qua các cuộc
tổng tuyển cử tháng 11/ 1946 nên họ cố tránh
làm mất ḷng cử tri, từ bỏ sự ủng
hộ đối với cuộc đấu tranh đ̣i
độc lập của các nước thuộc địa. Cuộc
xung đột lan tràn đến Hà Nội, ngày 18/12 Pháp
gởi tối hậu thư yêu cầu Việt Minh
phải giao sở Công an cho họ, đến ngày 20 là
hết hạn. Quân tự vệ Việt Minh mở
cuộc tấn công quân Pháp trong đêm 19/12/1946. Hôm sau
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến. “Chúng
ta muốn ḥa b́nh, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng
lấn tới, v́ chúng quyết tâm cướp nước
ta một lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất
cả, chứ không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ..Bất kỳ
đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người
trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.
Hễ là người Việt Nam th́ phải đứng
lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có
súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm
th́ dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng
phải ra sức chống thực dân Pháp để
cứu nước. Hởi anh em binh sĩ, tự vệ,
dân quân! Giờ cứu quốc đă đến. Ta
phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để
giữ ǵn đất nước. Dù phải gian khổ
kháng chiến, nhưng với một ḷng kiên quyết
hy sinh, thắng lợi nhất định về dân
tộc ta”. Trước
khi phát động toàn quốc kháng chiến, các
yếu nhân trong chính phủ và quân chính qui Việt Minh
đă rút ra ngoài cả rồi, chỉ có các đội
quân tự vệ ở lại Hà Nội để đánh
phá và bắt người Pháp và những người
theo Pháp. Quân tự vệ Việt Minh bám trụ ở
thủ đô tiếp tục chống Pháp đến
cuối tháng 2/1947 mới rút lui. Theo
cựu Thủ tướng Trần Trọng Kim th́
chiến lược của Việt Minh lúc bấy
giờ là rút ra ngoài, dùng phương cách du kích và tiêu
thổ, nghĩa là đốt phá hết sạch
những nhà cửa dinh thự, chỉ để lại
đám đất không. Chủ trương tiêu thổ
của Việt Minh có hai mục đích: một là gây
cản trở cho quân Pháp, đi đến đâu
bọn chúng cũng không có chỗ cư trú, thuận
lợi cho du kích hoạt động. Hai là làm cho dân cư
trong các thành thị mất cả nhà cửa cơ
nghiệp, rồi đói khổ điêu đứng,
chỉ có theo Cộng sản là sống mà không theo th́
chết. (17) Mọi
nỗ lực nhằm giải quyết vấn đề
Việt Nam bằng con đường thương
thuyết ḥa b́nh theo tinh thần Hiến chương Liên
Hiệp Quốc vừa được công bố, đă
hoàn toàn sụp đổ. Ngày
22/12/1946, trong diễn văn đọc trước
quốc hội, Thủ tướng Léon Blum loan báo
chiến tranh Việt Nam đă thực sự bùng
nổ. Ông cho biết mục tiêu của nước Pháp
trong cuộc chiến này là nhằm tái lập an ninh
trật tự ở Đông Dương và sau đó
sẽ bàn đến việc tổ chức một nước
Việt Nam tự trị tự do. Giữa tháng Giêng
1947, Đài phát thanh của Việt Minh lên tiếng cho
biết họ đă quyết định từ chối
thương thuyết với Pháp và hạ lịnh
tổng động viên để kháng chiến
chống Pháp. (18) Lê
Quế Lâm Chú
thích 1. Đoàn
Thêm, “Những ngày chưa quên”, Nam Chi Tùng thư
xuất bản, Sàig̣n, Tr.68 2.
Vơ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không bao
giờ quên”, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1975 3.
Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
“Đề cương bài giảng lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam”, Hà Nội,
1985, Tr.42 4. Trường
Chinh, “Cách mạng Dân tộc, Dân chủ, Nhân dân
Việt Nam”, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1975, Tr. 278 5.
Vơ Nguyen Giap, “Unforgettable Days”, Foreign Languages Pub.
House, Hanoi, 1975, P.86 6.
Trần Trọng Kim, “Một Cơn Gió Bụi”,
Nxb Vinh Sơn, Sàig̣n, 1969, Tr.123-126 7.
Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
Sđd, Tr.163-64 8.
Cao Văn Luận, “Bên ḍng lịch sử - Hồi kư
1940-1965”, Nxb Sống Mới, Sàig̣n, Tr.125 9.
Trần Trọng Kim, Sđd, Tr. 158 10.
Lâm Văn Bé, “Nam Kỳ Lục Tỉnh: Đất nước
& Con người”, Đặc san Xuân 2006, Tây Ninh
mến yêu. 11.
Robert Sprey, “War in the Shadow: Vol II, Doubleday & Co, New York,
1975, P. 677 12.
Nguyễn Kiên Trung, “Đem tâm t́nh viết lịch
sử”, Nxb Nguyễn Đ́nh Vượng, Sàig̣n, Tr.
70-71 13.
Hồ Chí Minh, “V́ độc lập tự do, v́
chủ nghĩa xă hội”, Nxb Sự Thật, Hà
Nội, 1970, Tr.104 14.
Jean Sainteny, “Histoire d’une Paix manquée”, Amoit Dumont,
Paris, 1953, P.57 + 209. 15.
Jean Sainteny, “Au Vietnam: Face à Ho Chi Minh”, Ed́tions Seghers,
Paris, 1970, P.106 16.
Cecil B. Currey, “Victor at Any Cost” (Chiến thắng
bằng mọi giá), Nxb Thế giới, 2013, Tr. 196-197 17.
Trần Trọng Kim, Sđd, Tr.160 18,
Cao Văn Luận, Sđd, Tr. 140 |