Sir Winston Leonard Spencer Churchill (1874-1965) là một trong các
chính khách danh tiếng nhất trong Lịch Sử
Thế Giới và cũng là một bậc vĩ nhân
của nước Anh. Vào năm 1895, ông Winston Churchill
phục vụ quân đội Anh với cấp bậc
Trung Úy dưới thời đại của Nữ Hoàng
Victoria, ông về hưu vào năm 1964 khi làm Dân Biểu
trong triều đại của Nữ Hoàng Elizabeth II, cháu
4 đời của Nữ Hoàng Victoria. Ít
có người công dân nào phục vụ Tổ Quốc
Anh lâu như ông Churchill.
Sau khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, một ḿnh
nước Anh phải chịu đựng cuộc
chiến chống lại Đức Quốc Xă. Thủ Tướng
Churchill khi đó đă dùng lời nói, niềm tin và ḷng
can đảm cá nhân để thúc đẩy mọi người
dân nước Anh phải kiên nhẫn, chiến đấu
đến toàn thắng.
H́nh ảnh của ông là một nhân vật bệ
vệ, luôn luôn có điếu thuốc x́-gà trên
miệng và hai ngón tay giơ lên theo h́nh chữ V, tượng
trưng cho chữ Victory là chiến thắng, đă mang
lại niềm tin cho dân chúng nước Anh, dù cho khi ông
Churchill thăm viếng cảnh đổ nát gây nên
bởi oanh tạc cơ Đức Quốc Xă, hay khi ông
ra nước ngoài, vận động v́ chiến
thắng và ḥa b́nh. Ông Churchill đă từng tuyên
bố chỉ cống hiến cho dân tộc Anh "máu,
công sức khó nhọc, nước mắt và mồ hôi"
để giúp cho người dân nước Anh bảo
vệ được Tự Do của họ.
Không những là một nhân vật lịch sử,
một chính khách danh tiếng, Sir Winston Churchill c̣n là
một phóng viên chiến trường, một chiến
sĩ, một diễn giả, môt sử gia và một nhà
văn xuất sắc. Sir Winston Churchill đă quán
triệt được Ngôn Ngữ Anh, đă đọc
nhiều bài diễn văn và viết ra nhiều tác
phẩm bằng lời văn rơ ràng, trong sáng, hùng
hồn. Năm 1953, Giải Thưởng Nobel về Văn
Chương đă được trao tặng cho ông. 10
năm sau, 1963, Quốc Hội Hoa Kỳ cũng vinh danh
Sir Winston Churchill là Công Dân Danh Dự của Hiệp
Chủng Quốc.
1/ Thuở thiếu thời
của Winston Churchill.
Winston Leonard Spencer Churchill chào đời vào ngày 30 tháng
11 năm 1874 trong lâu đài Blenheim tại miền
Oxforshire, nước Anh. Winston là con trai lớn trong hai người
con trai của Lord Randolph Churchill (1849-1895) và bà Jennie Jerome
(1854-1921), một phụ nữ Hoa Kỳ nổi tiếng
về sắc đẹp. Lord Randolph là con trai thứ ba
của Hầu Tước thứ bẩy thuộc gịng
họ Marlborough. Vị Hầu Tước thứ
nhất là Sir John Churchill, một vị đại tướng
đă chiến thắng tại Bleinheim, nước Đức,
vào năm 1704 nên được phong chức Hầu Tước
Marlborough. Cha và mẹ của Winston đă gặp nhau
tại thành phố New York rồi thành hôn tại thành
phố Paris vào năm 1874.
Cũng giống như các con trẻ thuộc các gia
đ́nh quyền quư của nước Anh, Winston ít khi
được gặp cha mẹ: họ đang bận
rộn v́ nhiều công việc xă hội, chính trị,
bởi v́ Lord Randolph là thủ lănh của đảng
Bảo Thủ. Winston được giao cho một người
vú nuôi chăm sóc trong suốt thời kỳ thơ
ấu và tên của bà này là Everest. Winston vẫn thương
nhớ mẹ, và về sau đă ghi lại như sau: "mẹ
tôi sống xa tôi như Ngôi Sao buổi chiều. Tôi yêu
mẹ tôi lắm, nhưng luôn luôn từ xa".
Năm Winston được 6 tuổi, một người
em trai ra đời và được đặt tên là
John. Khoảng cách về tuổi tác đă khiến cho
hai anh em không thân mật với nhau. Cũng vào tuổi
này, Winston được dạy tập đọc,
tập làm toán, nhưng sở thích của cậu bé là
chơi với bộ đồ chơi gồm nhiều
người lính bằng ch́, cao khoảng 2 tới 3
inches, mặc quân phục và sơn màu sặc sỡ.
Với bộ đồ chơi này, Winston đă cùng
một người bạn tập dàn các thế
trận giả tưởng. Cậu bé Winston vào lúc này
cũng yêu thích đọc sách, nhưng lại ghét môn
Toán học.
Vào tuổi lên 7, Winston được gửi tới trường
Saint James, một trường nội trú chủ trương
kỷ luật rất nghiêm khắc, thường dùng
roi vọt để trừng phạt học sinh. Sau hơn
hai năm chịu đựng gian nan tại ngôi trường
này, nhờ lời năn nỉ của bà vú nuôi và
lời cố vấn của bác sĩ gia đ́nh, Winston
được chuyển về học tại một ngôi
trường nhỏ hơn, gần thị trấn
nghỉ mát Brighton. Ngôi trường này do hai bà giáo
đứng tuổi trông nom với kỷ luật
nhẹ nhàng hơn và tại nơi đây, Winston
được học về tiếng Pháp, Lịch
Sử và Văn Thơ. Nhà trường cũng dạy
cho học sinh về Kịch Nghệ và Winston cũng
ưa thích bộ môn này.
Sau ba năm vui sướng theo học trường
Brighton, Winston phải theo bậc trung học. Sir Randolph
đă nạp đơn cho con trai vào trường Harrow,
một cơ sở giáo dục danh tiếng không thua ǵ
Trường Eton. Muốn được nhận vào trường
này, học sinh phải vượt qua nhiều bài thi
tuyển. Winston đă không đủ điểm về
môn La Tinh nhưng v́ là con trai của Lord Randolph danh
tiếng nên vị hiệu trưởng đặc
biệt chấp nhận Winston vào trường. Vào ngày
nhập học, các học sinh xếp hàng theo thứ
tự điểm đậu, từ xuất sắc
xuống rất kém và cậu Winston đă cảm
thấy xấu hổ khi đi cuối cùng vào hội trường
trước các con mắt của những người
quen biết gia đ́nh.
Do kém về tiếng La Tinh, Winston được học
nhiều hơn về tiếng Anh với bà giáo Somerwell,
người đă dạy văn phạm và văn chương
khác hẳn với các giáo sư khác và đă khiến
cho Winston yêu thích ngôn ngữ Anh. Một thành tích
của cậu Winston là đă đọc thuộc ḷng
1,200 câu thơ trong cuốn thơ "Lays of Ancient
Rome" (các bài thơ kể về Đế Quốc La
Mă cổ) của nhà thơ và sử gia người Anh
tên là Thomas Macaulay.
Trong thời gian bốn năm rưỡi theo học
tại trường Harrow, Winston phải chọn 1 trong 3
ngành dành cho con cháu của các gia đ́nh quư tộc,
đó là Luật Pháp (để theo đuổi chính
trị), Tôn Giáo (để làm nghề tu sĩ) hay Quân
Đội (sau này trở thành sĩ quan), c̣n các ngành
học chuyên môn khác như Y Khoa, Khoa Học, Thương
Mại… được coi là chỉ thích hợp
với các trẻ em của giới trung lưu. Nhân
một hôm nh́n thấy con trai đang bày chiến
trận với các người lính bằng ch́, Lord
Randolph cho rằng việc gia nhập quân đội thích
hợp với các đứa trẻ có trí thông minh
bị giới hạn và hợp với sở thích
của Winston.
Năm
1893 vào tuổi 18, Winston Churchill theo học Học
Viện Quân Sự Hoàng Gia (the Royal Military College) tại
Sandhurst. Đây là trường Vơ Bị có danh tiếng
giống như trường West Point tại Hoa Kỳ.
Tại trường Sandhurst, kỷ luật rất
chặt chẽ, việc học dài và nghiêm minh, ngoài các
môn học căn bản các sinh viên được
học về Luật Pháp, Chiến Thuật và phép
vẽ bản đồ. Trong dịp này, Winston bắt
đầu làm quen với môn Lịch Sử Thế
Giới, Lịch Sử Quân Sự cùng các câu chuyện
về những cuộc chiến tranh đă qua. Winston
Churchill cũng bị ám ảnh bởi các trận đánh
của Tướng Napoléon. Trước mùa Giáng Sinh năm
1894, Winston Churchill tốt nghiệp Học Viện Quân
Sự Sandhurst với hạng 8 trong số 150 tân sĩ
quan. Hơn một tháng sau khi Winston ra trường, Lord
Randolph đă qua đời vào ngày 24-1-1985 thọ 47
tuổi.
2/ Quân nhân và phóng
viên.

Chirchill trong quân phục sĩ quan năm
1895
|
|
Vào
tháng 3 năm 1895, Winston Churchill rời khỏi Học
Viện Quân Sự với cấp bậc Trung Úy và mong
được biết tới các cuộc mạo
hiểm, các cuộc chiến. Vào thời kỳ đó,
chỉ có tại xứ Cuba cuộc nổi loạn
của người dân địa phương chống
lại chính quyền cai trị Tây Ban Nha. Hơn 80,000 lính
Tây Ban Nha đă được gửi qua xứ Cuba
để dùng vào công tác b́nh định. Luật
lệ của sĩ quan người Anh là phải
phục vụ quân đội trong 7 tháng. Winston Churchill
muốn dùng 5 tháng nghỉ ngơi để đi Cuba làm
quan sát viên. Ông đă thương lượng với
nhật báo The Daily Graphic, tờ báo hàng đầu
của thành phố London, để viết các bài tường
thuật về chiến cuộc.
Do sự giúp đỡ của vị Đại Sứ
Anh và với sự vận động của gia đ́nh,
Winston Churchill được cấp giấy phép rồi
cùng một người bạn sĩ quan tên là Reginald
Barnes xuống tàu qua New York vào mùa thu năm 1895. Họ
tới thành phố Havana, Cuba, vào tháng 11 năm đó.
Người Cuba vào thời bấy giờ đă dùng
chiến thuật du kích để đánh lén quân đội
Tây Ban Nha và khi đi quan sát các mặt trận, Winston
Churchill đă bị bắn hụt nhiều lần. Trước
t́nh h́nh lực lượng nổi dậy không thể
thắng nổi cuộc chiến, ông Churchill đă tiên
đoán rằng người Tây Ban Nha cũng gặp t́nh
trạng tương tự. Cuối cùng vào năm 1898,
Hoa Kỳ đă đánh thắng người Tây Ban Nha,
giúp cho xứ Cuba giành được độc
lập.
Sau khi trở về từ xứ Cuba, Winston Churchill
phục vụ một trung đoàn Anh đóng tại
Ấn Độ. Vào thời kỳ đó, Ấn Độ
là một thuộc địa của nước Anh và
nhiều đoàn quân Anh đồn trú trên xứ Ấn
Độ để bảo vệ các cơ sở chính
quyền và thương mại. Đời sống quân
nhân tại Ấn Độ của một sĩ quan như
Winston Churchill đă không gặp vất vả và nguy
hiểm. Từ 6 giờ sáng là thời gian tập dượt,
kéo dài 1 giờ 30, sau đó là giờ ăn điểm
tâm. Từ 9 tới 12 giờ trưa là giờ hành chánh,
các sĩ quan lo đọc và viết các văn thư.
Kế tới là bữa ăn trưa kéo dài 1 giờ 30
phút rồi tới giấc ngủ trưa, cho tới 5
giờ chiều bắt đầu thời gian giải trí,
gồm chơi "polo" hay các thứ khác. Winston
Churchill bắt đầu yêu thích chơi polo từ lúc
này.
Vào thời gian rảnh rỗi này, Winston Churchill bắt
đầu đọc các sách do mẹ gửi qua từ
nước Anh: các tác phẩm viết về các nhà
triết học người Hy Lạp như Socrates,
Plato, Aristotle, các công tŕnh khoa học của Charles Darwin,
các sách về kinh tế của Adam Smith và Thomas Malthus,
nhưng ông ưa thích nhất bộ sách lịch sử
"Suy Tàn và Sụp Đổ của Đế
Quốc La Mă" của Edward Gibbon.
Từ năm 1897 tại từng phần của xứ
Ấn Độ, đă có vài cuộc nổi dậy
chống lại người Anh. Vào mùa hè năm đó,
bộ lạc Pathan thuộc miền tây bắc đă
cầm súng vùng lên. Winston Churchill được vị
chỉ huy đoàn quân thứ 4 Hussars là Sir Bindon Blood
nhận làm phóng viên chiến trường. Người
Ấn Độ được trang bị nghèo nàn, làm
sao thắng được đội quân Anh hùng
hậu. Sau chiến thắng này, Winston Churchill đă có
đủ kinh nghiệm và tài liệu để viết
ra cuốn sách đầu tiên với tên là "Câu
chuyện của lực lượng dă chiến
Malakand" (the Story of the Malakand Field Force), mô tả
về thành tích của Sir Bindon.
Cuốn sách do Winston Churchil viết ra, do nhiều đặc
tính xuất sắc, đă khiến cho các nhân vật
cao cấp trong chính quyền Anh tại London phải chú
ư. Trong một lần đi về phép, Winston Churchill
được mời gặp Thủ Tướng Anh là
Lord Salisbury và ông này đă hứa sẽ giúp đỡ
Churchill khi cần.
Vào mùa hè năm 1898, một đoàn quân Anh khác đang
hoạt động tại xứ Sudan thuộc châu Phi,
để dẹp cuộc nổi dậy địa phương
có tên là Whirling Dervishes. Winston Churchill yêu cầu Thủ
Tướng Anh cho ông được theo đoàn quân Anh
do Lord Earl Kitchener chỉ huy, nhưng Lord Kitchener v́ không
ưa lời nói bộc trực của Churchill nên đă
không chấp nhận ông vào ban tham mưu.
Trong trận đánh Omdurman, Winston Churchill đi trong đội
kỵ binh cuối cùng và bị quân Dervishes phục kích,
giáp chiến. Trong lần giao tranh này, ông đă phải
dùng gươm và súng bắn hạ kẻ địch
trong tầm tay, rồi sau đó kết quả là
cuốn sách "Trận Chiến Gịng Sông" (the River
War) được xuất bản, mang lại danh
vọng cho Churchill là một nhà văn có tài và một
nhà mạo hiểm.
Nhờ đă có danh tiếng, Winston Churchill chọn con
đường chính trị nên nạp đơn xin
phục vụ đảng Bảo Thủ, là đảng
phái của cha ḿnh khi trước và được
chỉ định nói chuyện trước câu lạc
bộ của đảng Bảo Thủ tại tỉnh
Bath. Sau buổi nói chuyện đó, nhà b́nh luận
của tờ báo Daily Mail đă phải khen ngợi
Winston Churchill và một tờ báo khác lại tiên đoán
ông có thể trở thành "một lănh tụ b́nh dân,
một nhà báo danh tiếng hay một nhà sáng lập ra
một cơ sở quảng cáo".
Buổi nói chuyện của Winston Churchill là bước
đầu trong sự nghiệp chính trị của ông.
Nước Anh vào thời kỳ này cũng theo đuổi
thể chế dân chủ nhưng Quốc Hội Anh
gồm hai Viện. Viện Dân Biểu được
gọi tên là The British House of Commons, tương
đương với Hạ Viện Hoa Kỳ, c̣n Thượng
Viện được gọi là The House of Lord, ít có
quyền hành hơn, gồm các nhân vật nhận lănh
chức tước theo thừa kế hay do chỉ định
bởi nhà Vua hoặc Nữ Hoàng.
Nước Anh không có Tổng Thống, quyền hành pháp
thuộc về Thủ Tướng, là nhân vật
của Viện Dân Biểu, được bầu ra
từ đảng chiếm đa số ghế. Vào mùa hè
năm 1899, có hai ghế Dân Biểu trống thuộc thành
phố kỹ nghệ Oldham ở mạn tây bắc.
Đảng Bảo Thủ đă chọn Winston Churchill làm
một ứng viên. Sau cuộc bỏ phiếu, Winston
Churchill đă gặp thất bại dù rằng ông có
danh tiếng và đă vận động tranh cử tích
cực. Nhưng ông không nản ḷng về kinh nghiệm
ban đầu này.
Winston Churchill là một con người nhiều tham
vọng và nghị lực. Sau lần thất bại
đầu tiên về tranh cử, ông trù liệu dấn
thân vào các công tác khác. Hai cuốn sách của ông đă
được xuất bản và thuộc loại bán
chạy nhất, nên đă mang về cho ông một
lợi tức vào khoảng 50,000 bảng Anh. Đây là
một món tiền lớn đối với thời
bấy giờ. Vào năm 1899, Churchill xin ra khỏi quân
đội Anh để chuẩn bị một chuyến
mạo hiểm khác.
Vào thời đó, một trận chiến khác đang
diễn ra tại xứ Nam Phi thuộc châu Phi. Đây là
một miền đất do người Anh và người
Ḥa Lan xâm chiếm. Người Ḥa Lan, được
gọi là người Boers hay Dutch Afrikaaneers, đă
tới miền cực nam của châu Phi vào đầu
thế kỷ 16 để t́m tự do tôn giáo và
một đời sống mới, đồng thời
với nhóm người Pilgrims từ nước Anh dùng
tàu thuyền qua Bắc Mỹ. Người Anh đặt
chân lên châu Phi trễ hơn, bắt đầu bằng
một thuộc địa tại Cape Town. Khởi đầu
do Sir Cecil Rhodes, người Anh đă t́m thấy trong
đất đai của xứ Nam Phi có rất nhiều
vàng và kim cương.
Tại xứ Nam Phi này, hai sắc dân Ḥa Lan và Anh đă
không ḥa hợp được với nhau. Vào năm
1881, người Boers, hay sắc dân gốc Ḥa Lan,
nắm giữ được chính quyền trong khi người
Anh làm chủ nhiều nhà máy và nhiều tiền đồn
đóng quân. Trong thập niên 1890, người Anh
bắt đầu phản đối chính quyền địa
phương v́ họ bị đánh thuế mà không có
đại diện và tranh chấp đă diễn ra,
giống như tại miền Bắc Mỹ. Tới năm
1899, quân đội của người Boers đă bao vây
các trại quân Anh đồn trú tại hai thành phố
Mafeking và Ladysmith.
Cuộc xung đột tại xứ Nam Phi đă làm cho
Winston Churchill chú ư. Winston xin được chân phóng viên
chiến trường của tờ báo The London Daily Mail
và vào ngày 11-10-1899, ông xuống tàu đi Nam Phi. Vào
cuối tháng 10 năm đó, Winston cập bến Cape
Town th́ trận chiến đang diễn ra tại
Ladysmith, cách đó 700 dậm về phía tây bắc.
Phải mất nhiều ngày dùng xe lửa và đi xe,
Winston tới được thành phố Durban hiện do
người Anh chiếm đóng.
Ngày 14-11 năm đó, một chuyến xe lửa bọc
thép chạy từ Durban tới Ladysmith do Đại Úy
John Haldane chỉ huy. Viên đại úy này đă mời
nhà báo danh tiếng là Churchill cùng đi nhưng không
may, đoàn tàu đă lọt vào ổ phục kích
của người Boers. Đại úy Haldane, Churchill và
toàn thể đội quân Anh đều bị bắt
rồi bị giải về Pretoria, thủ phủ
của người Boers, cách đó 300 dậm về phía
bắc. Tất cả 6 sĩ quan và các người
hầu bị nhốt trong một ngôi trường
học có hàng rào kẽm gai, c̣n gần 2,000 binh lính Anh
bị giữ trong một doanh trại gần đó.
Như vậy, vào ngày sinh nhật thứ 21, Winston
Churchill là một tù binh chiến tranh. Cùng với đại
úy Haldane và hai người khác, Winston Churchill bàn kế
hoạch vượt ngục. Vào nửa đêm ngày 11 tháng
12, Winston đă trèo được ra ngoài hàng rào nhưng
các người kia không ra được, nên ông đành
phải trốn đi một ḿnh. Ông đă đi trong
đêm tối, nhẩy lên một chiếc xe lửa. Do
mạo hiểm và gặp may mắn trên đường
lẩn trốn, Winston được một người
Anh định cư tại xứ Nam Phi giúp đỡ nên
tới được thị trấn Laurenco Marques, là
thủ đô của thuộc địa Bồ Đào
Nha, cách xa Pretoria 300 dậm.
|
Chirchill ở Hạ Viện, năm 1900
|
Winston
Churchill đă ở lại Nam Phi trong nhiều tháng để
tường thuật về cuộc chiến tranh với
người Boers, về việc giải vây hai thành
phố Mafeking và Ladysmith. Các bài viết của ông đă
hấp dẫn độc giả tại nước Anh và
cả tại Hoa Kỳ rồi sau này được
xuất bản thành sách, thuộc loại bán chạy
nhất, có tên là "Từ London tới Ladysmith".
Winston Churchill trở về nước Anh vào tháng 7-1900
và được đón mừng như một vị
anh hùng. Danh tiếng của Churchill được
nhiều người biết tới nên đảng
Bảo Thủ Anh lại yêu cầu ông ra tranh cử
tại thành phố Oldham, nơi mà trước kia ông
đă gặp thất bại. Trong cuộc vận động
kỳ này, đảng Cấp Tiến (the Liberals) đă
t́m cách dèm pha ông nhưng chiến thuật của
họ đă không có kết quả. Ngày 1-10-1900, Winston
Churchill được bầu vào Quốc Hội Anh.
3/ Hoạt động chính
trị và lập gia đ́nh.
Vào khoảng đầu thế kỷ 20, các đại
biểu Quốc Hội không được trả lương,
họ phải sống bằng các nguồn lợi
tức khác. V́ đă được coi là một anh hùng
trong trận chiến với người Boers, Winston
Churchill được mời đi các nơi diễn
thuyết và tại mỗi địa điểm, ông
được trả từ 500 tới 1,000 bảng Anh.
Mỗi tuần lễ, Winston Churchill đă nói trước
khán giả 4 hay 5 lần và những người nghe
đă hoan hô, cổ vơ ông như đối với các
nhà vô địch thể thao.
Winston
Churchill gặp một người Mỹ là thiếu tá
Pond. Ông này thu xếp một chuyến đi để
Churchill qua Hoa Kỳ và Canada. Vào tháng 12 năm 1900, Winston
Churchill xuống tàu qua Bắc Mỹ để tŕnh bày
trước thính giả Hoa Kỳ về những kinh
nghiệm chiến tranh của ông. Churchill được
thiếu tá Pond giới thiệu là "một vị anh
hùng trong 5 trận chiến, một tác giả của 6
cuốn sách và là thủ tướng tương lai
của nước Anh".
Nhưng điều làm ông cảm động nhất là
lời giới thiệu trong buổi diễn thuyết
tại thành phố New York bởi Đại Văn Hào
danh tiếng Mark Twain, tác giả các cuốn truyện
kể về Tom Sawyers và Huckleberry Finn, mà độc
giả Hoa Kỳ ai cũng biết đến. Đại
Văn Hào Mark Twain đă nói rằng ông Winston Churchill
"có cha người Anh và mẹ người Hoa
Kỳ khiến cho ông là một người hoàn toàn".
Khi viếng thăm thủ đô Washington, Winston Churchill cũng
được gặp Tổng Thống McKinley và Phó
Tổng Thống Theodore Roosevelt.
Tại thành phố New York, Winston c̣n gặp một người
quen cũ, hiện nay là một chính trị gia hàng đầu:
ông Bourke Cochran. Cochran gốc người Ái Nhĩ Lan,
được giáo dục tại Pháp, di cư qua Hoa
Kỳ lúc c̣n trẻ. Ông là một luật sư thành công,
một nhân vật có uy tín và một diễn giả
hữu hạng. Cochran đă giúp đỡ và đối
xử với Winston Churchill như một người
con, đă chỉ dạy cho Churchill các bí quyết
của tài hùng biện. Về chính trị, ông Cochran là
một nhà cấp tiến, chủ trương tự do
mậu dịch giữa các quốc gia và chính quyền
phải giúp đỡ dân nghèo. Ông Cochran cũng cho
rằng chính quyền Anh đối xử với người
Boers tại Nam Phi là sai lầm và sắc dân Ái Nhĩ
Lan đứng về phía các người Boers. Tư tưởng
của ông Bourke Cochran đă ảnh hưởng tới
Winston Churchill về sau này.
Vào ngày 22-1-1901, Nữ Hoàng Victoria qua đời sau khi
đă trị v́ 64 năm, lâu nhất trong lịch
sử vương quyền của thế giới.
Vị Vua mới của nước Anh là Edward VII kêu
gọi Quốc Hội họp vào giữa tháng 2. Ngày 2
tháng này là ngày An Táng của Nữ Hoàng và cũng là
ngày Winston Churchill xuống tàu từ hải cảng
Boston để trở về nước Anh. Ngày 14-2,
lần đầu tiên Churchill tham dự Quốc Hội
Anh, ông đă lên tiếng trên diễn đàn Quốc
Hội, yêu cầu cách đối xử tử tế
đối với người Boers tại Nam Phi. Lời
nói của Churchill đă được cả hai đảng
Bảo Thủ và Cấp Tiến cũng như giới báo
chí Anh khen ngợi mặc dù Winston Churchill không đồng
ư với đường lối của đảng
Bảo Thủ.
Winston Churchill xuất thân từ giai cấp quư tộc
của nước Anh nhưng ông lại lo lắng
về các điều kiện làm việc và gia cư
của giới công nhân, của giới dân nghèo. Ông cũng
nhớ lại người mẹ nuôi khi trước, bà
Everest, nay đă già và loại người này không
được chính quyền giúp đỡ khi tuổi
cao không cho phép họ làm việc như trước kia.
V́ vậy, ông hô hào lập nên quỹ an sinh xă hội.
Thời gian bị cầm tù ngắn hạn tại
Pretoria cũng làm cho Winston Churchill suy nghĩ về t́nh
trạng nhà tù và ông t́m kiếm các đạo luật
cải thiện các nhà giam. Vào tháng 3 năm 1904, Winston
Churchill chỉ trích chính quyền Anh, cho rằng họ
phí phạn ngân quỹ khi đ̣i hỏi chi tiêu
nhiều hơn về Lục Quân và để phản
đối bài diễn văn của ông, Thủ Tướng
Anh thời đó và vài nhân vật đă bước ra
khỏi pḥng họp của Quốc Hội. Một tháng
sau, ông lại ủng hộ quyền của công nhân
được thành lập nghiệp đoàn, khiến
cho các báo chí của phe bảo thủ gọi ông là
"cấp tiến" (radical). Winston Churchill luôn luôn lên
tiếng bênh vực cho những ǵ ông tin là có lợi
cho đất nước Anh.
Tới
ngày 31-5-1904, trong pḥng họp Quốc Hội, Winston
Churchill đă bỏ chỗ ngồi bên phe Bảo
Thủ để qua phía Cấp Tiến, ngồi
cạnh ông David Lloyd George. Tới năm sau, Winston
Churchill đắc cử Dân Biểu từ thành phố
Manchester, một nơi đa số người dân
thuộc đảng Bảo Thủ. Vào năm này, đảng
Cấp Tiến thắng lớn trong cuộc bầu
cử và Tân Thủ Tướng là Sir Henry Campbell
Bannerman đă mời Winston Churchill giữ một chân
trong Nội Các: Thứ Trưởng Bộ Thuộc
Địa. Nhưng khi ông Thủ Tướng bất
ngờ qua đời, Herbert Asquith trở nên Thủ Tướng
và Lloyd George trở thành Bộ Trưởng Ngân
Khố, th́ Winston Churchill được thăng chức
lên làm Bộ Trưởng Thương Mại. Tới lúc
này, bởi v́ Winston Churchill đă thay đổi từ
đảng Bảo Thủ sang đảng Cấp
Tiến, nên theo nội quy, ông phải tranh cử
lại và kỳ này, ông đă đắc cử dễ
dàng tại thành phố Dundee, thuộc xứ Tô Cách Lan.
|
Clementine Hozier
|
Trong
cuộc vận động tranh cử tại thành
phố Dundee, Winston Churchill đă gặp cô Clementine
Hozier, một thiếu nữ thuộc gia đ́nh Tô Cách
Lan thượng lưu nhưng không giàu có, nên phải
làm nghề dạy trẻ. Vào lúc này, Winston 33 tuổi và
cô Clementine 23, vóc người cao, có sắc đẹp và
bệ vệ. Họ t́m thấy ở nhau nhiều điều
hợp ư, không phải chỉ về các quan điểm
chính trị.
Vào ngày 12-9-1908, họ làm lễ cưới tại
Westminster Abbey, ngôi giáo đường danh tiếng
nhất của thành phố London và bà Clementine luôn luôn
đứng cạnh chồng trong những giờ phút khó
khăn nhất. Họ đă sống hạnh phúc bên
nhau trong các năm trước Thế Chiến Thứ
Nhất với hai đứa con chào đời: Diana sinh
năm 1910 và Randolph năm 1912. Gia đ́nh Churchill này có
người con thứ ba là Sarah vài tháng sau khi Thế
Chiến bùng nổ, rồi Marigold là người con gái
thứ tư chào đời vào năm 1918 và cuối cùng
là cô gái Mary sinh năm 1922.
Kể từ năm 1908 tới khi Thế Chiến
Thứ Nhất bùng nổ, Winston Churchill đă nắm
giữ nhiều chức vụ cao trong chính quyền Anh,
ông luôn luôn t́m các đạo luật tăng lương
cho công nhân và giảm thời gian làm việc, nhưng
đây là giai đoạn căng thẳng tại châu Âu.
Nước Đức vào lúc này đang tăng cường
lực lượng quân sự. Các đạo quân Đức
đang đe dọa miền Bắc Phi và Kênh Đào
Suez, khi đó dưới quyền kiểm soát của nước
Anh.
Vào năm 1911, tàu chiến Đức đă biểu dương
sức mạnh tại Morocco và hai chính phủ Pháp và
Anh phải lên tiếng phản đối. Tại nước
Anh, một số nhân vật cao cấp hô hào nên tăng
cường ngân quỹ cho quân lực và giảm
bớt việc trợ giúp dân nghèo. Hoàn
cảnh này đă làm cho Winston Churchill bối rối.
Tới năm 1913, khi ông Herbert Asquith trở nên Thủ Tướng,
Winston Churchill được mời giữ Bộ Trưởng
Hải Quân. Từ nay, ông Churchill có cơ hội thi hành
các quyền lực dành cho ḿnh.
4/ Winston Churchill và Thế Chiến Thứ Nhất.
Vào cuối thế kỷ 19, nước Đức trước
kia gồm nhiều vương quốc, đă được
thống nhất thành một quốc gia hùng mạnh
đặt dưới quyền cai trị của Hoàng
Đế Wilhelm II. Giống như nước Anh và nước
Pháp, nước Đức cũng sở hữu
nhiều miền đất thuộc địa tại
châu Phi và châu Á, trong khi đó người Đức
đang lo tăng cường sức mạnh quân sự.
Nước Đức đă liên kết với Đế
Quốc Áo-Hung, với vài quốc gia tại miền
Balkan và với nước Thổ Nhĩ Kỳ. Đối
nghịch với khối quân sự này là liên minh các nước
Anh, Pháp, Nga và Ư.
Trước đe dọa của chiến tranh, Winston
Churchill phải lo lắng cải tiến ngành Hải Quân.
Ông đi xem xét từng chiến hạm, đề
nghị cải tiến loại tàu chiến dùng than thành
loại dùng dầu nhờ vậy các tàu chiến có
thể nhận tiếp liệu trên mặt biển. Các
đại pháo đặt trên tàu chiến cũng
được thay từ loại 13 inches sang loại 15
inches có tầm bắn xa hơn và sức công phá
mạnh hơn. Winston Churchill cũng t́m cách cải
thiện đời sống của các binh sĩ trên tàu,
ra lệnh cho họ tập dượt để sẵn
sàng ứng phó khi cuộc chiến diễn ra. Vào năm
1912, Winston Churchill đă tiên liệu vai tṛ quan trọng
của máy bay trong các cuộc chiến tương lai, nên
ông đă cho thành lập một ngành Không Quân trong
Bộ Hải Quân "để bảo vệ các
hải cảng và tàu dầu của nước Anh".
Ngày 18-6-1914 tại Sarajevo thuộc xứ Serbia, ngày nay là
Nam Tư, một thanh niên 17 tuổi đă ám sát ông Hoàng
Ferdinand Charles và bà vợ Katharine. Biến cố này
đă gây nên Thế Chiến Thứ Nhất. Do sự
việc kể trên, nước Áo tuyên chiến với
xứ Serbia. Xứ Serbia này được nước
Nga bảo vệ cùng với đồng minh của Nga là
nước Pháp. Nước Đức là kẻ thù
của nước Pháp và là đồng minh của nước
Áo, bèn tuyên chiến với hai nước Nga và Pháp
trong khi đó, nước Anh cũng chống lại nước
Đức.
Khi quân đội Đức tràn qua nước Bỉ
trung lập để tiến đánh sang nước Pháp,
quân đội Anh đă được chuẩn bị
sẵn sàng. Winston Churchill do tiên liệu cuộc
chiến, nên đă chuẩn bị Hải Quân Anh và ông
đă tiên đoán quân Đức sẽ đánh bại
quân Pháp tại gịng sông Meuse thuộc phía đông, và
rồi người Đức sẽ thất bại
tại gịng sông Marne. Các lời tiên đoán của
Winston Churchill đă rất chính xác, nhưng ông Churchill
không phải là không gặp thất bại.
Khi quân đội Đức tràn vào thành phố Antwerp
của nước Bỉ, ông Churchill đă đích thân
dẫn một toán lính thủy Anh tới Antwerp để
ngăn chặn quân Đức và ông đă mặc
bộ quân phục Đề Đốc Anh lộng
lẫy, trông giống như đi đại hội hơn
là ra chiến trường và kết quả là đoàn
quân Anh và ông Churchill đă đại bại, phải
bỏ chạy về hải cảng Dunkirk của nước
Pháp. Các báo chí Anh và các người chống đối
ông Churchill đă chỉ trích sự thất bại này,
gọi đoàn quân Anh là "Đoàn Xiếc
Antwerp".
Ông Churchill c̣n chịu trách nhiệm về một
thảm cảnh chiến tranh nặng nề hơn. Trong
cuộc Thế Chiến Thứ Nhất, nước
Thổ Nhĩ Kỳ đă đứng về phe Đức
bằng cách tấn công nước Hy Lạp. Khi đó
người Thổ đang kiểm soát eo biển
Dardanelles, gần thành phố Constantinople (ngày nay gọi
là Istanbul). Bởi v́ Dardanelles là cửa ngơ dẫn vào
Biển Đen (the Black Sea) và nước Nga, nên muốn
cho các đồ tiếp liệu quân sự được
chở tới nước Nga, các nước đồng
minh Anh Pháp phải tấn công Thổ Nhĩ Kỳ.
Tư lệnh của lực lượng Anh thời
đó là Lord Kitchener đề nghị một chiến lược
hành quân tấn công vào Dardanelles trong khi các chuyên viên quân
sự Anh cho rằng việc đánh bại quân Thổ
và tăng cường cho nước Nga sẽ làm cho
chiến cuộc mau chấm dứt. Winston Churchill nghiên
cứu kế hoạch oanh tạc phối hợp với
việc đổ bộ lên bờ biển. Thế nhưng,
cuộc oanh tạc của Hải Quân Anh tuy kéo dài,
đă không tiêu diệt được quân Thổ Nhĩ
Kỳ cố thủ tại Dardanelles, trong khi quân tăng
cường Đức được gửi tới.
Trên bờ biển của bán đảo Gallipoli, đoàn
quân Thổ với vơ khí tối tân, nằm trong các công
sự pḥng thủ kiên cố, đă tàn sát hàng ngàn
binh lính đổ bộ người Anh và người
Úc trong 9 tháng trường của năm 1915. Winston
Churchill đă nhận lănh trách nhiệm về thảm
bại này.
Để tránh cho đảng Cấp Tiến (the Liberal
Party) không bị sụp đổ, các nhà lănh đạo
đảng này đă mời đảng Bảo Thủ
tham gia chính quyền nhưng đảng Bảo Thủ
đă ra điều kiện là ông Churchill phải
bị gạt ra khỏi Nội Các mới. Vào tháng 11 năm
1915, Winston Churchill từ chức trong cảnh cay đắng
nhưng ông vẫn c̣n là một Dân Biểu trong
Quốc Hội. Trong thời gian thất vọng này,
Winston Churchill t́m an ủi bên gia đ́nh và ông đă khám
phá ra một hoạt động tiêu khiển mới,
đó là bộ môn Hội Họa.
|
Churchill,
năm 1916
|
Thế
Chiến Thứ Nhất vẫn tiếp diễn. Không bên
nào thắng thế. Hàng triệu người lính
của hai phe Đức-Áo và đồng minh Anh-Pháp
đă sống trong các chiến hào, trong các hầm
hố, bên trên có các bao cát và dây kẽm gai chằng
chịt. Tháng 11 năm 1915, Winston Churchill t́nh nguyện
tham chiến với cấp bậc Thiếu Tá, phục
vụ tại mặt trận của nước Pháp và
ông đă nhiều lần thoát hiểm. Churchill đă mô
tả cuộc chiến là "tàn bạo và dữ
tợn".
Sau 6 tháng ngoài trận tuyến, Winston Churchill xin từ
chức và trở về London bởi v́ tiểu đoàn
của ông được sát nhập với một
đơn vị khác và ông không c̣n nắm quyền
chỉ huy nữa, đồng thời Lloyd George và vài chính
khách khác cũng cho rằng ông Churchill hữu ích hơn
trong chính quyền. Từ các kinh nghiệm ngoài mặt
trận, Winston Churchill đă viết ra các bài chỉ trích
các chiến lược của quân đội Anh và ông
cũng đề nghị nên phát triển loại
"xe tăng" (the tank) để bảo vệ
mạng sống của các binh sĩ. Thực ra, ông
Churchill không phải là người phát minh ra xe tăng,
nhưng ông đă đề nghị cách dùng dây xích
để xe tăng leo qua được các hầm
hố, vượt qua các hàng rào kẽm gai và được
dùng như một thứ pháo đài di chuyển của
bộ binh.
Vào tháng 4-1917, Hoa Kỳ tham chiến bên cạnh phe Đồng
Minh, sự kiện này đă làm gia tăng cơ hội
chiến thắng. Cũng vào thời gian này, David Lloyd
George đă thay thế ông Herbert Asquith làm Thủ Tướng
và các nhà lănh đạo đảng Cấp Tiến
đề nghị Winston Churchill lănh chức Bộ Trưởng
Đạn Dược (minister of munitions) và với
nhiệm vụ này, ông Churchill sẽ làm việc gần
gũi với ông Bernard Baruch, vị bộ trưởng
tương tự của Hoa Kỳ. Trong thời gian này,
do các việc làm cần mẫn và tốt đẹp,
cộng tác với lực lượng quân sự
Mỹ, ông Winston Churchill được ân thưởng
"Bội Tinh Phục Vụ Đặc Biệt"
(the Distinguished Service Cross) của Hoa Kỳ, do Tướng
John Pershing, Tham Mưu Trưởng Quân Đội Hoa
Kỳ, trao tặng.
Việc tham chiến của lực lượng quân
sự Hoa Kỳ chống lại quân đội Đức
đă có kết quả, mặc dù quân Đức đă
dùng tới vơ khí hơi ngạt, gây tử vong khủng
khiếp cho phe đồng minh. Ngày 11-11-1918, nước Đức thua trận.
5/ Winston Churchill sau Thế
Chiến Thứ Nhất.
Sau khi chiến tranh chấm dứt, Winston Churchill cùng
một số người khác nhận lănh trách
nhiệm mang hàng triệu binh lính từ mặt trận
trở về đời sống dân sự. Ông cũng
giúp các đạo quân đồng minh trú đóng
tại các nước Đức, Thổ Nhĩ Kỳ và
tại miền Trung Đông xây dựng lại từ các
đổ nát do chiến tranh.
Một vấn đề khác đă làm bận tâm Winston
Churchill là "vấn đề Ái Nhĩ Lan". Xứ
sở này đang bị phân hóa. Đa số người
dân Ái Nhĩ Lan theo đạo Catholic đang đ̣i
hỏi một quốc gia độc lập nhưng các
người theo đạo Tin Lành thuộc 5 hạt phía
bắc, được gọi là Miền Ulster, lại
muốn địa phương của họ tiếp
tục là một phần của nước Anh. Để
giữ cho "sân sau của nước Anh"
được ổn định, Winston Churchill đă giúp
công vào thỏa ước nhờ đó xứ Ái Nhĩ
Lan không bị xáo trộn trong thời kỳ Thế
Chiến Thứ Nhất, dù cho có xẩy ra một
cuộc nổi loạn của các người Catholic vào
năm 1916.
Vào năm 1920, là Bộ Trưởng Thuộc Địa,
ông Churchill đă t́m cách thương thảo với ông
Michael Collins, một người cương quyết
bảo vệ chủ trương Catholic. Lúc đầu,
hai người đă coi nhau như kẻ thù nhưng
dần dần, họ đă trở thành hai người
bạn. Churchill và Collins đồng ư về một
thỏa ước chuyển xứ Ái Nhĩ Lan thành
một miền đất có một phần độc
lập, giống như hai xứ Canada và Australia và
nền độc lập của xứ Ái Nhĩ Lan
đă trở thành sự thực vào năm 1923 trong khi
cho tới ngày nay, tại miền Ulster vẫn c̣n các
xung đột giữa hai sắc dân Tin Lành đa
số, và Catholic thiểu số.
Winston Churchilll cũng giữ một vai tṛ quan trọng
trong các chính sách được thi hành tại miền
Trung Đông. Đây là một miền đất do người
Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát trong nhiều thế
kỷ. Đây cũng là cái nôi của ba tôn giáo
lớn: đạo Thiên Chúa, đạo Hồi và đạo
Do Thái. Trước khi Thế Chiến Thứ Nhất
kết thúc, nước Anh đă hứa hẹn sẽ
giúp đỡ các quốc gia Ả Rập, kể cả
Ai Cập, giành lại độc lập từ tay người
Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng một điều rắc
rối khác đồng thời cũng xẩy ra: vào năm
1917, chính quyền Anh đă công bố "Bản Tuyên
Cáo Balfour", hứa hẹn xây dựng tại Palestine
một xứ sở dành cho người Do Thái. Người
ủng hộ mạnh mẽ nhất chính sách này là ông
Winston Churchill. Ông Churchill tin tưởng rằng sắc
dân Do Thái đă bị lưu lạc trong gần 2,000 năm,
nên cần có một mảnh đất quê hương
và ông cũng tin rằng quốc gia Do Thái trên miền
đất chiến lược này sẽ là một
lợi điểm quân sự cho nước Anh.
Năm 1921, Winston Churchill và một số viên chức cao
cấp của chính quyền Anh đă tạo dựng nên
các quốc gia Iraq và Trans-Jordan cắt ra từ lănh
thổ cũ của đế quốc Thổ Nhĩ
Kỳ. Hai nhân vật hoàng gia Ả Rập, gịng họ
Feisals, được người Anh đặt lên ngai
vàng và ông Churchill hy vọng rằng cách xếp đặt
này sẽ làm vừa ḷng người dân Ả Rập
đồng thời cũng sẽ cho phép lập nên
một quốc gia Do Thái mà không gây ra xung đột.
Trong khi các chính sách kể trên đang được
thi hành th́ tại gia đ́nh, ông Churchill đă gặp
phải hai điều bất hạnh. Tháng 6 năm
đó, bà mẹ của ông bị ngă và qua đời
rồi tới tháng 8, đứa con gái trẻ nhất,
Marigold mới 3 tuổi, đă chết một cách
bất ngờ. Hai tin buồn này đă khiến cho ông bà
Churchill hủy bỏ tất cả các hoạt động
công cộng và lui về sống ẩn dật tại
miền Tô Cách Lan. Winston Churchill đă t́m quên trong
bộ môn Hội Họa.
Năm 1922, các điều kiện không ổn định
tại nước Anh đă khiến cho đảng
Cấp Tiến phải tổ chức một cuộc
bầu cử mới. Trong kỳ này, Winston Churchill ra
tranh chức Dân Biểu Cấp Tiến tại thành
phố Dundee, nhưng bệnh đau ruột dư đă
không cho phép ông vận động tích cực. Ông
Churchill đă bị thất cử và đây là lần
đầu tiên trong 20 năm, ông trở về với
cuộc sống gia đ́nh.
Tháng 11 năm 1922, Winston Churchill mua một lâu đài
nhỏ tại Chartwell, thuộc miền Kent. Cũng chính
tại nơi cư ngụ mới này, ông Churchill
bắt đầu một chương tŕnh biên khảo
lớn, đó là Bộ Sách Lịch Sử Thế
Chiến Thứ Nhất, gồm 6 cuốn với nhan
đề là "Cuộc Khủng Hoảng Thế
Giới" (The World Crisis). Ông Churchill đă làm việc
hàng giờ với nhiều người thư kư thay phiên
nhau đánh máy các bản thảo. Trong hai năm bận
rộn với công việc viết sử, Winston Churchill
vẫn chú ư tới các hoạt động chính
trị. Năm 1923, ông Churchill lại bị thất
cử tại địa điểm West Leicester rồi
sau đó, do không được đảng Bảo
Thủ ủng hộ, Winston Churchill đă khởi đầu
một đảng phái mới có tên là đảng
Hiến Pháp (the Constitutionalists) và ông Churchill ra tranh
cử với tư cách độc lập.
Việc tạo ra một đảng phái thứ ba là
điều trái ngược với các truyền
thống cũ của nước Anh và đă theo
nền nếp của nền chính trị Hoa Kỳ. Ông
Winston Churchill đă vận động tranh cử trên
chiếc xe ngựa có gắn loa phóng thanh, tại
một xă hội gồm những người quư
tộc và những người lao động, ông đă
được sự giúp đỡ của các phụ
nữ giàu có, các nhà thể thao và các diễn viên danh
tiếng, họ đă đóng góp bằng nhiều
thời giờ và công sức. Thế nhưng, mặc dù
các hào hứng trong cách vận động, ông Churchill
vẫn bị thất cử, chỉ thua 43 phiếu.
Tinh thần tranh cử và phương cách vận động
của Winston Churchill đă khiến cho Lord Arthur Balfour
phải chú ư và ủng hộ ông Churchill. Vị cựu
Thủ Tướng Anh này đă phải thuyết
phục các nhân vật then chốt trong đảng
Bảo Thủ hăy tha thứ cho Winston Churchill về
những lần thay đổi đảng tịch và dành
cho ông Churchill nơi tranh cử là thành phố Epping,
một địa phương mà đảng Bảo
Thủ thường thắng phiếu. Hơn nữa,
vị Thủ Tướng mới là ông Stanley Baldwin
lại mời Winston Churchill giữ một chức
vụ trong Nội Các: Bộ Trưởng Tài Chính (the
Chancellorship). Đây là chức vụ quan trọng
thứ hai trong Nội Các nước Anh, chỉ đứng
sau Thủ Tướng, với quyền hạn tương
đương với Chủ Tịch Tối Cao Pháp
Viện, Bộ Trưởng Ngân Khố và Chủ
Tịch Quỹ Dự Trữ Liên Bang của Hoa Kỳ.
Như vậy vào tuổi 50, Winston Churchill đă đảm
nhiệm chức vụ quan trọng mà gần 40 năm
về trước, cha của ông đă nắm giữ.
Là Bộ Trưởng Tài Chính, Winston Churchill phải trù
liệu các ngân sách của chính phủ, quyết định
các ngân khoản phải tiêu và các loại thuế
phải thu. Công việc này thực ra không thích hợp
với tài năng của ông Churchill. Hơn nữa,
thập niên 1920 không phải là giai đoạn tốt
đẹp về tài chính cho nước Anh. Thế
Chiến Thứ Nhất đă làm yếu đi nền
kinh tế và nền kỹ nghệ. Thời kỳ khó khăn
đă khiến cho ông Churchill trở thành mục tiêu
bị chỉ trích. Các người cấp tiến đă
gọi ông là kẻ phản bội, ông c̣n bị gán
cho danh hiệu "kẻ thù của giới lao động".
Dù thế, vào năm 1925, ông Winston Churchill đă vận
động thành công việc thông qua một đạo
luật về An Sinh Xă Hội nhờ đó hơn
một triệu người nghèo nhận được
trợ giúp của chính quyền.
Vào năm 1926, khi ông Churchill đang giữ chức
vụ, một cuộc tổng đ́nh công đă
diễn ra trên toàn nước Anh với sự tham
dự của các thợ mỏ, công nhân hỏa xa và công
nhân nhà máy, tài xế xe tải và các phóng viên báo chí…
Năm 1929, cuộc đại khủng hoảng kinh
tế trên toàn thế giới đă ảnh hưởng
tới nước Anh. Sau cuộc bầu cử, đảng
Lao Động (the Labor Party) thắng phiếu và Ramsay
MacDonald trở nên Thủ Tướng lần thứ hai.
Winston Churchill không c̣n nằm trong Nội Các nữa dù
cho ông vẫn giữ ghế Dân Biểu Quốc Hội.
Tương lai chính trị của Winston Churchill vào lúc này
rất u tối.
6/ Winston Churchill trước
Thế Chiến Thứ Hai.
Trong thời gian 10 năm từ 1929 tới 1939, cuộc
Đại Khủng Hoảng Kinh Tế đă làm cho người
dân tại nhiều quốc gia gặp cảnh đói
khổ, thiếu thốn. Tại nước Đức,
Hitler và đảng Quốc Xă lên nắm chính quyền
trong khi về phía châu Á, nước Nhật Bản
đang tăng cường quân sự và bành trướng
ảnh hưởng sang các quốc gia khác. Tại nước
Anh, hai đảng Bảo Thủ và Cấp Tiến đă
cộng tác với nhau trong một chính phủ liên
hiệp nhưng họ có các chính sách khác với
chủ trương của Winston Churchill. Chính vào
thời gian bị gạt ra khỏi chính trường này,
ông Churchill đă cùng với người con trai tên là
Jack, người em trai Randolph và con trai của ông này,
cả bốn người cùng du lịch qua xứ Canada,
sau đó qua thăm tiểu bang California của Hoa
Kỳ. Tại Hollywood, Winston Churchill đă làm quen
với nhiều ngôi sao điện ảnh danh tiếng,
đặc biệt nhất là Charlie Chaplin. Ông Churchill cũng
gặp ông William Randolph Hearst, chủ nhân của
nhiều tờ báo lớn xuất bản tại Hoa
Kỳ.
Trong thời gian lưu lại California và theo lời khuyên
của vài người bạn, Winston Churchill đă
bỏ tiền ra mua một số cổ phần
chứng khoán. Tới tháng 10-1929, thị trường
chứng khoán mất giá. Nhiều người tại
Hoa Kỳ đă tự sát v́ bị mất hết tài
sản. Ông Churchill cũng bị thiệt hại
nặng và ông đă t́m cách kiếm tiền lại
bằng cách viết nốt các cuốn sách c̣n dang
dở.
Vào năm 1931, hai cuốn sách của Winston Churchill
được xuất bản, đó là cuốn
cuối cùng trong Bộ Sách Lịch Sử Thế
Chiến Thứ Nhất và cuốn thứ hai có tên là
"Các năm đầu của tôi" (My Early Years). Cũng
giống như các sách xuất bản trước kia, các
tác phẩm của Winston Churchill đă được bán
rất chạy v́ rất phổ biến. Winston Churchill c̣n
bắt đầu viết bộ sách bốn cuốn
về lịch sử của các dân tộc nói tiếng
Anh. Ông cũng kư hợp đồng với một nhà
xuất bản lớn để viết về tiểu
sử của tổ tiên của ông, ông John Randolph,
Hầu Tước miền Marlborough. Ngoài ra, Winston
Churchill c̣n có nhiều bài viết gửi cho các nhật
báo và tạp chí, và qua những bài viết này, ông thường
vạch ra những yếu kém của chính quyền,
của các nhà lănh đạo đảng tại nước
Anh.
Vào thời gian này tại châu Âu, Hitler bắt đầu
t́m cách tăng cường quân lực. Đối
với vấn đề này, chính quyền Anh đă
đề nghị mọi quốc gia cùng tài giảm binh
lực và đă có lần, Thủ Tướng Anh Ramsay
MacDonald đă cắt giảm binh lực Anh để làm
gương. Trước những tham vọng của
Hitler, ông Churchill luôn luôn đặt vấn đề
cảnh giác và ông đă báo động về việc
Đức Quốc Xă xây dựng Không Quân trong khi Không
Lực Hoàng Gia Anh c̣n quá yếu kém. Lời tiên đoán
của Winston Churchill đă thành sự thực khi Không
Quân Đức oanh tạc các thành phố tại Tây Ban
Nha trong cuộc nội chiến xẩy ra vào năm 1937.
Trước các lời cảnh cáo, chống đối
chính phủ Anh của Winston Churchill, trước các người
ủng hộ ông Churchill, trước các đe dọa
từ nước ngoài, phe chống đối ông
Churchill đă gọi phe Churchill là một thứ chính
phủ bí mật, c̣n trong bóng tối. Nhưng ông Winston
Churchill đă nhận được sự ủng
hộ của Lord Beaverbrook, chủ nhân của nhật báo
lớn nhất nước Anh, của Ralph Wigram, một
sĩ quan Anh đă từng theo dơi đà tiến bộ
của Không Quân Đức. Một nhân vật khác
đă giúp đỡ Winston Churchill là Thiếu Tá Desmond
Morton, đă thu lượm các tin tức về cách tăng
cường và chuẩn bị kỹ nghệ và quân
sự của Đức Quốc Xă, đồng thời
chỉ huy trưởng Không Quân Torr Anderson cũng thông
báo cho Winston Churchill về t́nh trạng yếu kém
của Không Quân Hoàng Gia Anh R.A.F.
Với các tài liệu chính xác và phương cách
thận trọng, các lời cảnh tỉnh của
Winston Churchill chưa gây được tiếng vang.
Tới năm 1937, Hitler sát nhập nước Áo vào nước
Đức rồi vào đầu năm 1938, Hitler đ̣i
hỏi độc lập giành cho miền Sudeten tách ra
khỏi nước Tiệp Khắc. T́nh h́nh chính
trị tại châu Âu càng trở nên căng thẳng v́
các tham vọng của Hitler.
Ngài
được chọn lựa giữa chiến tranh và
sự mất danh dự. Ngài đă chọn sự
mất danh dự và Ngài sẽ gặp chiến tranh. (You
were given the choice between war and dishonor. You chose dishonor and you
will have war).
-- Chirchill nói với thủ tướng Chaimberlain
Tháng
9-1938, Thủ Tướng mới của nước Anh là
ông Neville Chamberlain đă bay qua Munich để gặp
mặt Hitler nhưng sau đó, đành phải công
nhận nhiều đ̣i hỏi của Hitler. Khi ông
Thủ Tướng Chamberlain về tới phi trường
London, ông đă vẫy chào đám đông bằng
một bản thỏa ước kư với nhà độc
tài Quốc Xă và ông hô lớn "Ḥa B́nh trong thời
đại của chúng ta" (Peace in our time). Trái
lại, Winston Churchill đă coi thỏa ước này là
một bản đầu hàng. Trước Quốc
Hội Anh, Winston Churchill đă nói với ông Chamberlain:
"Ngài được chọn lựa giữa chiến
tranh và sự mất danh dự. Ngài đă chọn
sự mất danh dự và Ngài sẽ gặp chiến
tranh" (You were given the choice between war and dishonor. You chose
dishonor and you will have war).
7/ Winston Churchill và Thế
Chiến Thứ Hai.
Sau khi quân đội Đức Quốc Xă đă
chiếm trọn xứ Tiệp Khắc, người dân
nước Anh mới nhận ra những điều
cảnh cáo của Winston Churchill là đúng. Dân chúng và
nhiều tờ báo đă yêu cầu ông Churchill trở
lại chính quyền nhưng Thủ Tướng
Chamberlain vẫn c̣n tin tưởng rằng nhà độc
tài Hitler đă được măn nguyện. Sau đó,
Hitler lại đ̣i hỏi hải cảng Danzig của nước
Ba Lan (ngày nay là Gdansk) phải được trả
về cho nước Đức. Tháng 7 năm 1939, nước
Đức và nước Nga vốn là hai kẻ thù,
đă kư một hiệp ước ḥa hoăn. Ngày 8-8-1939,
Winston Churchill nói trên đài phát thanh hướng về
Hoa Kỳ, nhắc nhở cho người Mỹ nhớ
lại 25 năm về trước, vào năm 1914, quân
đội Đức đă xâm lăng nước
Bỉ và ngày nay, chiến tranh sẽ xẩy ra. Sự
việc này khiến cho Thủ Tướng Chamberlain
phải kư một hiệp ước bảo vệ
xứ Ba Lan nếu nơi này bị tấn công.
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, quân đội Đức
Quốc Xă tiến vào Ba Lan. Không quân Đức đă
oanh tạc các thành phố trước khi thiết giáp
Đức xông đến. Trong hai ngày, Thủ Tướng
Chamberlain kêu gào quân Đức ngừng lại, nhưng
vô hiệu quả. Ngày 3-9-1939, hai nước Anh và Pháp
tuyên chiến với Đức và Ư.
Tới thời điểm này, dân chúng Anh đ̣i
hỏi Winston Churchill trở về chính quyền. Vị
anh hùng Churchill khi trước, nay được bổ
nhiệm làm Bộ Trưởng Hải Quân (the First Lord
of the Admiralty). Điện tín được đánh
đi tới các con tàu chiến Anh như sau: "Winnie
đă trở về". Winnie là tên gọi thân mật
của Winston Churchill. Các con tàu Hải Quân Anh đều
treo cờ, chào mừng sự trở về ngành Hải
Quân của Winston Churchill.
Sau khi nước Ba Lan bị chia cắt làm hai, phần
phía đông thuộc Liên Xô, phía tây thuộc Đức
Quốc Xă, t́nh h́nh chiến tranh lắng đọng
trở lại. Các binh lính Anh và Pháp vẫn hướng
súng, pḥng thủ sau trận tuyến Maginot dài 300
dậm. Ngày 10 tháng 5 năm 1940, quân lực Đức
Quốc Xă tấn công nước Bỉ và Ḥa Lan. Xe tăng
Đức đè bẹp dễ dàng mọi kháng cự.
Thủ Tướng Chamberlain đành phải từ
chức. Winston Churchill được mời nhận
chức vụ Thủ Tướng. Nội Các mới
gồm các lănh tụ của cả ba đảng: ông
Anthony Eden, thuộc đảng Bảo Thủ, lo Bộ
Chiến Tranh, Sir Archibald Sinclair, nhà lănh đạo đảng
Cấp Tiến, đứng đầu Bộ Không Quân,
lănh tụ đảng Lao Động là ông Clement R.
Attlee đảm nhiệm chức vụ Phó Thủ Tướng,
c̣n Winston Churchill kiêm Bộ Trưởng Quốc Pḥng.
Bài diễn văn đầu tiên của Thủ Tướng
Churchill nói trước Quốc Hội Anh là một văn
bản mạnh, đầy ư nghĩa của ngôn ngữ
Anh. Ông Churchill đă nói: "Tôi không có ǵ để
cống hiến ngoài máu, công sức khó nhọc, nước
mắt và mồ hôi…" và ông kêu gọi phải
thực hiện "Vinh Quang bằng mọi giá, bởi
v́ không có Vinh Quang, sẽ không có Sống C̣n". Các
lời nói của Thủ Tướng Churchill là các vũ
khí, và sức mạnh của các bài phát biểu
của ông đă được chứng tỏ trong các
năm sắp đến. Lời kêu gọi của ông
Winston Churchill đă làm gia tăng tinh thần chiến
đấu của dân tộc Anh, giúp họ có thêm can
đảm trong cuộc chiến đầy gian nan trước
lực lượng quân sự Đức Quốc Xă.
Ngày 16-5-1940, Thủ Tướng Churchill bay qua Pháp, nơi
này đang chống cự sức tấn công của
Đức. Khi người Pháp yêu cầu Thủ Tướng
Anh trợ giúp nước Pháp về các phi cơ quân
sự th́ ông Churchill đă từ chối, bởi v́ không
quân Anh chỉ bằng một phần năm không
lực Đức, c̣n cần dùng để bảo
vệ các ḥn đảo Anh Cát Lợi. Ông Churchill
chỉ hứa hẹn sẽ cung cấp nơi ẩn náu
cho những người Pháp kháng chiến.
Ngày 2 tháng Sáu, 300,000 quân nhân Anh và Pháp phải rút lui
về bờ biển Dunkirk trên lănh thổ Pháp, họ
đang cầm cự trước sức tấn công vũ
băo của lực lượng Quốc Xă. Vào lần
nguy ngập này, Thủ Tướng Churchill lại
phải kêu gọi dân tộc Anh hỗ trợ một công
tác giải cứu trong cảnh tuyệt vọng và trong
ṿng 24 giờ, hơn 800 tàu thuyền đủ loại,
từ tàu chiến tới thuyền buồm, từ du
thuyền tới tàu kéo, công cũng như tư, đă
qua lại Eo Biển Channel rộng 35 dậm, để
cứu các đạo quân rút về nước Anh trong
khi đó, Không Lực Hoàng Gia Anh vẫn bay lượn,
ngăn cản các phi cơ săn đuổi của
Đức Quốc Xă. Kết quả là các đoàn quân
Anh và Pháp đă phải bỏ lại toàn bộ vơ khí
nặng và đă được cứu thoát.
Sau cuộc rút lui Dunkirk, Thủ Tướng Churchill
lại nói với nhân dân nước Anh:
Chúng
ta sẽ bảo vệ ḥn đảo của chúng ta
bằng mọi giá… Chúng ta sẽ chiến đấu
trên bờ biển, chúng ta sẽ chiến đấu trên
các mảnh đất đổ bộ, chúng ta sẽ
chiến đấu trên các cánh đồng, chúng ta
sẽ chiến đấu trên các ngọn đồi
…, chúng ta sẽ không bao giờ đầu hàng.
Tại thủ đô Washington, Tổng Thống Hoa Kỳ
Franklin D. Roosevelt đă lắng nghe lời Thủ Tướng
Churchill và ông Roosevelt đă quay sang nói chuyện với
ông Harry Hopkins là phụ tá của Thủ Tướng
Anh rằng: "Những ǵ chúng tôi cung cấp cho nước
Anh sẽ không là thứ tiền đổ xuống mương,
khi nào mà ông già đó c̣n đảm đương
nhiệm vụ. Nước Anh sẽ không bao giờ
đầu hàng".
Ngày 14-6-1940, quân đội Quốc Xă tiến vào thành
phố Paris. Một tháng sau, Hitler đề nghị
một giải pháp ḥa b́nh với nước Anh,
với ư nghĩa là lính Quốc Xă sẽ kiểm soát
đời sống của người dân Anh. Thủ Tướng
Churchill đă nhờ Lord Halifax, Đại Sứ Anh
tại Hoa Kỳ, lên tiếng trên đài phát thanh, bác
bỏ đề nghị của Đức Quốc Xă.
Sau khi nước Pháp đầu hàng, nước Anh
đang đứng trước hiểm họa xâm lăng
của Đức Quốc Xă. Khi phải đối
đầu với hiểm nguy này, Thủ Tướng
Churchill đă nói: "Trận chiến trên đất
Pháp đă xong. Tôi trông đợi trận chiến trên
đất Anh bắt đầu. Lệ thuộc vào
trận chiến này là sự sống c̣n của nền
Văn Minh Thiên Chúa Giáo… Nếu chúng ta bại
trận, toàn thể thế giới kể cả Hoa
Kỳ, sẽ ch́m vào trong vực thẳm của một
thời đại đen tối mới… Bởi
vậy, hăy chuẩn bị v́ các nhiệm vụ của
chúng ta và nếu nước Anh và khối Thịnh Vượng
Chung c̣n tồn tại trong một ngàn năm nữa, th́
đây là giờ phút quyết định".
Có lẽ do chủ trương kháng cự mănh liệt
của Thủ Tướng Churchill, cuộc xâm lăng
hải đảo Anh Cát Lợi đă không diễn ra.
Đức Quốc Xă chỉ tấn công nước Anh
bằng không lực v́ Hitler tin rằng do triệt
hạ các cơ sở pḥng thủ và lực lượng
Không Quân Hoàng Gia Anh, nước Anh sẽ phải đầu
hàng.
Trận chiến tiêu diệt nước Anh bắt đầu
vào tháng 8 năm 1940. Vào tháng 9 năm đó, Không Quân
Đức đă oanh tạc nặng nề thủ đô
London và các thành phố khác. Tất cả 25 không đoàn
của Không Quân Hoàng Gia Anh đă bay lên nghênh chiến
và ngăn chặn các kẻ xâm lấn. Trong dịp này,
nhiều phi công đă bay 18 giờ một ngày. Công
sức của các phi công Anh đă mang lại kết
quả: 56 oanh tạc cơ Đức đă bị
bắn hạ trong 1 ngày và các phi cơ Đức khác
đă phải bỏ chạy. Khi khen ngợi ḷng dũng
cảm của các phi công Anh, Thủ Tướng Churchill
đă nói: "Chưa bao giờ trên mặt trận xung
đột, một số người lớn như
vậy lại mắc nợ một số người
nhỏ như vậy".
|
Churchill đi bộ qua tàn tích của Nhà thờ
lớn, 1941
|
Công
cuộc oanh tạc dữ dội của không quân
Quốc Xă đă khiến cho thành phố London trở thành
đống gạch vụn, 100 ngàn thường dân
bị giết, các đám cháy lớn do bom nổ gây nên
cũng làm gia tăng thiệt hại về nhân mạng
và tài sản. Từ nay, trẻ em được di
tản thật xa thành phố, các người c̣n ở
lại thành phố London phải sống dưới các
con đường hầm. Trong cảnh đổ nát này,
Thủ Tướng Churchill đă đi an ủi người
dân Anh. Ông Churchill thường chào đám đông dân
chúng bằng cách giơ hai ngón tay thành h́nh chữ V, tượng
trưng cho chữ "Victory" hay "Chiến
Thắng". Dấu hiệu này của Winston Churchill
đă được mọi người Anh dùng đến
để biểu lộ niềm tin vào thắng lợi
của ngày mai.
Vào mùa xuân năm 1941, các trận oanh tạc của Không
Quân Đức đă giảm bớt nhưng nước
Anh vẫn c̣n nằm trong tầm nguy hiểm. Thiếu
thực phẩm, thiếu tiếp liệu, nước
Anh trông chờ vào nguồn tiếp tế từ hai
xứ Canada và Hoa Kỳ và khi hàng hải thương
thuyền Anh chở các mặt hàng trên Đại Tây
Dương, nhiều con tàu đă bị các tàu ngầm
Đức loại U bắn ch́m. Trong hoàn cảnh
tuyệt vọng, Thủ Tướng Churchill đă kêu
gọi Hoa Kỳ và để đáp lại lời yêu
cầu, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đă cho nước
Anh mượn 50 khu trục hạm để bảo
vệ các đoàn tàu Anh trên mặt biển. Việc
trợ giúp của Hoa Kỳ đă làm cho dân chúng Anh lên
tinh thần. Vào thời điểm này, Hoa Kỳ
vẫn c̣n đứng trung lập trước trận
chiến tại châu Âu bởi v́ nhiều người
Mỹ phản đối việc Hoa Kỳ liên hệ
tới chiến tranh, nhưng các bài diễn văn
của Thủ Tướng Churchill đă gây được
niềm tin nơi người dân Mỹ, rằng nước
Anh xứng đáng được trợ giúp để
chống ngoại xâm.
Vào tháng 7 năm 1941, quân đội Đức Quốc
Xă hướng qua phía đông, xâm lăng Liên Xô
mặc dù hai quốc gia này đă kư thỏa ước
bất tương xâm.
Tháng 8 năm 1941, Thủ Tướng Churchill qua Hoa
Kỳ bằng chiến hạm Prince of Wales, để
họp bàn với Tổng Thống Roosevelt. Cả hai nhà
lănh đạo đă kư "Thỏa Ước
Atlantic" (the Atlantic Charter) trong đó có các chương
tŕnh ḥa b́nh sau khi chiến thắng, chương tŕnh
về Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, về nền
tự do của thế giới và về các phương
cách ngăn ngừa chiến tranh trong tương lai.
Ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn công Trân
Châu Cảng (Pearl Harbor) trên quần đảo Hạ Uy
Di, đánh ch́m phần lớn hạm đội Thái B́nh
Dương của Hoa Kỳ. Ngày hôm sau, Hoa Kỳ tuyên
chiến với Nhật Bản và Đức Quốc Xă.
Sự kiện Hoa Kỳ tham chiến, đă khiến cho
ông Winston Churchill tin tưởng rằng chắc chắn
thắng lợi sẽ đến.
Vào mùa đông năm 1942, quân đội Liên Xô
chặn đứng được lực lượng
Quốc Xă tại gần thành phố Moscow và thành
phố Stalingrad (ngày nay là Volvograd) đồng thời trên
mặt trận Bắc Phi, Tướng Bernard Montgomery người
Anh đă đánh bại được Thống Chế
Erwin Rommel của Đức tại El Alamein và quân đội
Nhật Bản cũng bắt đầu phải rút lui
trước sức tấn công của quân lực Hoa
Kỳ trên biển Thái B́nh Dương.
Vào
năm 1943, Thủ Tướng Churchill đă qua Hoa
Kỳ hai lần để thảo luận với
Tổng Thống Roosevelt về các kế hoạch
tấn công tại châu Âu. Ngoài ra, ông Churchill c̣n
thực hiện nhiều chuyến đi nguy hiểm khác:
tới Teheran, nước Ba Tư, để gặp
Thống Chế Stalin của Liên Xô, tới Cairo
thuộc Ai Cập và Casablanca, Bắc Phi, để
hội đàm với Tổng Thống Roosevelt. Mặc dù
Liên Xô là một nước đồng minh trong công
cuộc chống lại Đức Quốc Xă, nhưng
ông Winston Churchill vẫn không tin tưởng Joseph Stalin.
Ông chủ trương quân đội đồng minh nên
đổ bộ tại Hy Lạp và tại các quốc
gia trên bán đảo Balkans để ngăn cản Liên
Xô không thể kiểm soát được các vùng đất
này nhưng vào giai đoạn đó, Tướng George
C. Marshall là Tham Mưu Trưởng của Hoa Kỳ và Tướng
Dwight D. Eisenhower, Tư Lệnh Tối Cao các lực lượng
Đồng Minh tại châu Âu, lại cho rằng nên
tổ chức một cuộc tấn công qua eo biển
Channel vào đất Pháp.
|
Bức
h́nh lịch sử "Hội Nghị Yalta"
Chirchill, Roosevelt, Stalin
|
Ngày
6 tháng 6 năm 1944, cuộc đổ bộ của quân
lực Đồng Minh bắt đầu. Sáng hôm đó,
Thủ Tướng Churchill đă nói trước
Quốc Hội Anh: "Tôi phải công bố rằng
trong đêm qua và vào các giờ của sáng hôm nay,
một hạm đội gồm 4,000 tàu chiến và hàng
ngàn tàu nhỏ khác, đă băng qua Eo Biển
Channel". Chính ông Churchill đă muốn tham dự vào
cuộc đổ bộ lịch sử này nhưng Vua nước
Anh đă giữ lại vị Thủ Tướng 70
tuổi, và 6 ngày sau đó, Thủ Tướng Churchill cũng
đă qua đất Pháp để quan sát mặt
trận cùng với Tướng Montgomery.
Phải mất thêm 10 tháng nữa, cuộc chiến
tại châu Âu mới chấm dứt. Trong thời gian này,
Thủ Tướng Churchill đă thực hiện
nhiều chuyến đi khác: tới thành phố Quebec,
Canada, để gặp Tổng Thống Roosevelt, qua đất
Pháp và thành phố Moscow để hội thảo
với Thống Chế Stalin, tới Yalta trên miền
đất Liên Xô để bàn kế hoạch ḥa b́nh
hậu chiến với Tổng Thống Roosevelt và
Thống Chế Stalin.
Ngày 12 tháng 4 năm 1945, Tổng Thống Roosevelt qua đời
bất ngờ v́ xuất huyết năo trong khi đang
nghỉ ngơi tại Warm Spring, Georgia. Ngày 30-4, Hitler
tự sát dưới hầm trong thành phố Berlin. Ngày
7-5, Đức Quốc Xă đầu hàng. Chiến tranh
tại châu Âu chấm dứt.
Ông Winston Churchill đă hô hào dân chúng Anh kháng chiến
v́ sự sống c̣n và nền tự do của nước
Anh. Ông cũng vận động chính quyền Hoa
Kỳ tham gia vào các công tác trợ giúp cũng như
tham chiến để mang lại chiến thắng. Trong
các giờ phút hiểm nguy và khó khăn, ông Winston
Churchill đă đi khắp nơi và theo ước lượng
của người phụ tá của ông, vị Thủ
Tướng 70 tuồi này đă "thực hiện hơn
125,000 dậm trong các công tác chiến tranh, trải qua hơn
800 giờ trên biển và hơn 350 giờ trên không".
Ông Churchill đă gặp Tổng Thống Roosevelt 9
lần và đă trao đổi với vị Tổng
Thống này hơn 1,700 điện tín. Ngoài ra, sự
đóng góp của ông Winston Churchill vào chiến
thắng c̣n được Tướng Omar Bradley
diễn tả bằng câu nói "Mỗi bài diễn văn
của ông Winston Churchill tương đương
với một sư đoàn".
8/ Sir Winston Churchill.
Cuộc chiến tranh tại châu Âu đă chấm
dứt nhưng trên mặt biển Thái B́nh Dương,
quân lực Hoa Kỳ vẫn c̣n tấn công quân
đội Nhật Bản. Sau hai trái bom nguyên tử
thả xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki,
Nhật Bản chịu đầu hàng vô điều
kiện vào tháng 8 năm 1945. Một kế hoạch ḥa
b́nh và xây dựng lại châu Âu đổ nát phải
được thực hiện. V́ vậy Thủ Tướng
Churchill đă hội họp với Tổng Thống Hoa
Kỳ mới Harry S. Truman và Thống Chế Stalin
tại Potsdam, tại nước Đức vào tháng 7 năm
1945. Trong cuộc hội đàm này, Stalin đ̣i hỏi
rằng các quốc gia Đông Âu gồm Ba Lan, Hungari,
Tiệp Khắc, Rumania, Bulgaria và một phần nước
Đức phải ở dưới quyền
bảo trợ của Liên Xô. Ông Churchill đă phản
đối kế hoạch này.
Tại Potsdam, ông Winston Churchill nhận được
tin báo rằng đảng Bảo Thủ của ông
đă thất bại trong kỳ bầu cử mới và
không c̣n là đảng chiếm đa số nữa.
Chức vụ Thủ Tướng mới sẽ về
tay ông Clement R. Attlee thuộc đảng Lao Động.
Như vậy tại sao vị anh hùng Churchill lại
gặp thất bại tại quê hương? Người
dân nước Anh vào thời điểm này đă quan
tâm nhiều hơn về các vấn đề thực
tế như công ăn việc làm, trợ cấp an sinh
và y tế, trợ cấp gia cư… Việc rời
khỏi chính quyền là một điều thất
bại đối với ông Winston Churchill nhưng
lại là một niềm vui đối với bà
Clementine, bà coi đó là một thứ ân phước
được che dấu khi nghĩ về tuổi cao và
các công sức lớn lao mà ông Winston Churchill đă
đóng góp trong thời chiến.
Đầu năm 1946, Tổng Thống Harry Truman đă
mời ông Winston Churchill nói chuyện trong một
buổi lễ ngày 5-3 tại Đại Học Westminster
thuộc thành phố Fulton, tiểu bang Missouri. Winston
Churchill đă qua Hoa Kỳ và tại khắp nơi,
từ Thủ Đô Washington tới thành phố Jefferson,
Missouri, ông được dân chúng Hoa Kỳ đón chào.
Trong bài diễn văn tại Fulton, ông Winston Churchill
đă chứng tỏ là một nhà hùng biện đáng
ghi nhớ. Ông đă nói về Thế Chiến Thứ
Hai, về Liên Xô và cách bành trướng của
chủ nghĩa Cộng Sản, và ông Churchill cảnh giác
mọi người: "Hiện nay, một bóng tối
đang phủ xuống trên các miền đất
mới được chiếu sáng v́ thắng lợi
của phe Đồng Minh. Từ Stettin trên biển Baltic
(một thành phố của nước Đức)
tới Trieste trên biển Adriatic (một thành phố
của nước Ư), một bức màn sắt đă
sập ngang qua lục địa".
Winston Churchill đă lo ngại cho các dân tộc sau
"bức màn sắt" hiện nay nằm dưới
quyền kiểm soát của Liên Xô. Lúc đầu, các
nhà lănh đạo Hoa Kỳ thời đó chưa đồng
ư với lời cảnh cáo của ông Churchill nhưng
dần dần, ư nghĩa của danh từ "bức màn
sắt" (the iron curtain) được thể hiện
rơ ràng và đă trở thành một danh từ trong
từ điển.
|
Sau
khi rời khỏi chính trường, Winston Churchill
trở về với cuộc sống gia đ́nh, với
4 người con đă trưởng thành. Ông cũng dành
thời giờ cho bộ môn Hội Họa, đă qua các
nước Pháp, Ư và châu Phi để vẽ phong
cảnh. Winston Churchill bắt đầu một dự án
lớn, đó là biên soạn bộ Lịch Sử
Thế Chiến Thứ Hai gồm 6 cuốn và
bộ sách nói về các năm ông làm Thủ Tướng.
Winston Churchill cũng nhận được nhiều danh
dự. Ngày 3 tháng 1 năm 1950, Tạp Chí Time đă
đưa h́nh ông lên b́a báo lần thứ 7, không
những ông Churchill được gọi là "Nhân
Vật Trong Năm" mà c̣n là "Nhân Vật của
Thế Kỷ" (Man of the Century).
Sau vài năm cầm quyền, chính phủ của đảng
Lao Động mất dần sức hậu thuẫn
của dân chúng Anh. Vào tháng 10-1951, đảng Bảo
Thủ thắng thế trong cuộc bầu cử và vào
tuổi 77, Winston Churchill lại trở nên Thủ Tướng.
Lúc này ông Churchill nhận thấy các kinh nghiệm
của ông trong thời chiến đă không thích hợp
với thời đại mới, nên ông đă phân
quyền cho các nhân viên Nội Các là những người
có nhiều khả năng, kể cả ông Anthony Eden.
Winston Churchill chỉ lo tập trung năng lực vào các
vấn đề ngoại vụ.
Đầu năm 1952, Winston Churchill qua Hoa Kỳ, hội
đàm với Tổng Thống Truman về các vấn
đề quốc tế như cuộc chiến tranh
tại Triều Tiên, các vấn đề Trung Đông,
các khó khăn với Liên Xô, các nhu cầu trong quan
hệ đồng minh Anh-Mỹ.
Không lâu sau khi ông Churchill trở về nước Anh,
Vua George VI băng hà. Qua làn sóng truyền thanh, Thủ Tướng
Churchill đă truy điệu nhà Vua và trông chờ
triều đại của Nữ Hoàng Elizabeth II. Nhưng
chính vào lúc này, sức khỏe của ông Churchill cũng
suy kém. Bà Clementine cho rằng ông Churchill nên về hưu
sau khi chiến tranh chấm dứt. Nhiều nhân vật
trong đảng Bảo Thủ cũng đồng ư
với ư tưởng này. Nhưng ông Churchill vẫn c̣n
ham hoạt động.
Vào tháng 1 năm 1953, Winston Churchill dùng tàu qua thành
phố New York để thăm viếng Tướng
Dwight D. Eisenhower, nhân vật sẽ lên làm Tổng
Thống Hoa Kỳ, rồi vào tháng 4 năm đó, ông
chấp nhận đề nghị của Nữ Hoàng
Elizabeth II phong cho ông chức Hiệp Sĩ (the Knight of the
Garter). Đây là một trong các vinh dự lâu đời
nhất của nước Anh và chỉ được
trao tặng cho các nhà quư tộc, nhưng lần này
lại thuộc về một người dân thường.
Danh dự này khiến cho ông được gọi
bằng Sir Winston Churchill, giống như Sir Winston đệ
nhất, người cha của Hầu Tước
Marlborough. Ngày 10-10-1953, Winston Churchill rất vui mừng
khi hay tin ông được trao tặng Giải Thưởng
Nobel về Văn Chương.
Winston Churchill thường suy nghĩ về sự căng
thẳng trong cuộc chiến tranh lạnh, giữa các
quốc gia tây phương và khối Cộng Sản sau
Thế Chiến thứ Hai. Ông đề nghị
cuộc họp mặt các vị nguyên thủ của Hoa
Kỳ, Anh, Pháp và Nga, nhưng Tổng Thống Eisenhower bác
bỏ ư kiến mời lănh tụ Liên Xô tới
Hội Nghị Thượng Đỉnh họp trên
đảo Bermuda. Từ cuộc họp cao cấp này,
Tổ Chức Pḥng Thủ Bắc Đại Tây Dương
NATO (the North Atlantic Treaty Organization) đă ra đời.
Vào buổi chiều ngày 30-3-1955, Winston Churchill đă
mời ông Anthony Eden và vài nhân vật trong Nội Các
tới Văn Pḥng Thủ Tướng đặt
tại số 10 đường Downing. Trong buổi
họp này, ông Churchill đă nói: "Tôi sắp ra đi
và ông Anthony sẽ thay thế tôi". Tối ngày 4-4-1955, Nữ Hoàng Elizabeth II đă tới
thăm ông Winston Churchill. Đây là lần đầu tiên
trong lịch sử của nước Anh, một vị
Vua hay Nữ Hoàng đă tôn vinh một người dân
thường đến mức độ đó.
Sau khi rời khỏi chức vụ Thủ Tướng,
Winston Churchill c̣n được bầu lại vào
Quốc Hội. Winston Churchill đă phục vụ
Quốc Hội Anh từ năm 1901 tới 1922, rồi
từ 1924 tới khi ông hồi hưu 40 năm về
sau. Ông vẫn duy tŕ một thời khắc biểu
rất bận rộn, gồm có vẽ tranh, đi du
lịch và viết sách. Ông tiếp tục biên khảo
bộ sách 4 cuốn "Lịch Sử các Dân Tộc nói
tiếng Anh" (History of the English Speaking Peoples).
Ông Winston Churchill cũng chú ư tới Khoa Học và
Kỹ Thuật. Khi viếng thăm Viện Kỹ
Thuật MIT (The Massachusetts Institute of Technology) và gặp
gỡ Giáo Sư Lindermann, ông Winston Churchill thấy
rằng nước Anh đang thiếu một loại
đại học cao cấp về ngành kỹ sư.
Với sự giúp đỡ của các nhà doanh
nghiệp Hoa Kỳ và Tổ Chức Ford, ông Winston
Churchill đă thành lập nên Trường Khoa Học và
Kỹ Thuật tại Đại Học Cambridge, hay
Đại Học Churchill (Churchill College) vào tháng 10 năm
1959 và ông đă trồng cây khánh thành việc xây
dựng ngôi trường này.
Các danh dự vẫn tới với Winston Churchill. Ngoài
Giải Thưởng Nobel lừng danh, Winston Churchill c̣n
được Tổng Thống Pháp Charles de Gaulle trao
tặng Bội Tinh Giải Phóng (Croix de la Libération),
một danh dự cao quư nhất của nước Pháp
để vinh danh việc giúp đỡ của ông đối
với lực lượng kháng chiến Pháp (the Free
French Forces) trong Thế Chiến Thứ Hai. Ngày 9-4-1963,
Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy đă tôn vinh ông
Winston Churchill là Công Dân Danh Dự của Hoa Kỳ và ca
tụng ông Churchill bằng câu "Trong các ngày đen
tối khi nước Anh đứng cô đơn… ông
Winston Churchill đă vận động Ngôn Ngữ Anh
rồi gửi ra mặt trận".
Vào đầu tháng 1 năm 1965, ông Winston Churchill bị
tai biến mạch máu. Trong hai tuần lễ, nhiều lúc
ông bị mê man, rồi ông qua đời vào sáng ngày
24-1-1965 ở tuổi 90.
Ngày 30-1-1965, nước Anh đă cử hành lễ
Quốc Táng cho Cựu Thủ Tướng Winston Churchill
để ghi công và kính trọng một vị Anh Hùng
của đất nước. Tang lễ của ông
Churchill được cử hành rất trọng
thể tại Giáo Đường Saint Paul rồi quan tài
được chở theo gịng sông Thames, đưa
về Waterloo Station, trong khi trên không có các đoàn phi cơ
thuộc Không Lực Hoàng Gia Anh bay theo. Di hài của ông
Winston Churchill an nghỉ trong phần mộ gia đ́nh
thuộc khuôn viên nhà thờ Bladon, gần lâu đài
Blenheim. Hàng triệu người trên toàn thế
giới đă theo dơi buổi đại tang lễ qua màn
ảnh vô tuyến truyền h́nh.
Winston Churchill là một sử gia uyên bác. Các tác
phẩm danh tiếng của ông gồm có các bộ sách:
"Cuộc Khủng Hoảng Thế Giới" (The
World Crisis, 4 cuốn, 1923-29), "Các năm đầu
của tôi" (My Early Years, 1930), "Gịng họ
Marlborough, 4 cuốn, 1933-38), "Thế Chiến Thứ
Hai" (6 cuốn, 1948-53) và "Lịch sử của các
Dân Tộc nói tiếng Anh" (A History of the English Speaking
Peoples, 4 cuốn, 1956-58).
Winston Churchill là một chiến sĩ, một chính khách,
một sử gia, một nghệ sĩ và cũng là
một bậc Vĩ Nhân xuất sắc trong Lịch
Sử của nước Anh với các đức tính cương
quyết trong Chiến Tranh, cao thượng khi Chiến
Thắng và đầy thiện chí trong Ḥa B́nh.
Phạm
Văn Tuấn
Tài
liệu tham khảo: Wikipedia.org.; Britannica Encyclopedia, Winston
Churchill by Judith Rogers, Chelsea House Pub., N.Y., 1986.
|