Ông
Đạo Nhỏ Tác giả: Nguyễn văn Hiệp |
Năm 1968, sau trận Tết Mậu Thân,
vị Tư Lịnh Quân Đoàn IV bấy giờ là
Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh có rước
một ông Đạo từ trên Hồng Ngự
xuống. Ông Đạo nầy lúc đó chỉ 8
tuổi nên được gọi là Ông Đạo
Nhỏ. Ông là con của ông Trần Kim Qui, hiệu trưởng
một trường học ở quận Hồng
Ngự, người theo đạo Phật Giáo Ḥa
Hảo. Buổi chiều
nọ, khi tới dự bữa cơm tối tại tư
dinh Thiếu Tướng Tư Lịnh Quân Đoàn IV, tôi
(thiếu tướng Nguyễn văn Chức) thấy
ngồi ở đầu bàn là một người c̣n
nhỏ tuổi, quanh đó có mặt các ông Đại
Tá và Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh Tư
Lịnh phó lănh thổ của Quân Đoàn. Trong chín ông
Đại Tá có cả Đại Tá Nguyễn Văn Ánh
là Tư Lịnh Sư Đoàn 4 Không Quân. Ông nầy sau
đó lên Thiếu Tướng và bị tử nạn máy
bay. Khi mọi
nguời vào bàn ăn th́ được ông tướng
Tư Lịnh Quân Đoàn giới thiệu: “Đây
là Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự được
mời tới đây để ăn cơm với chúng
ta.” Tiếp theo, ông giới thiệu từng
thực khách với Ông Đạo Nhỏ một cách
hết sức trân trọng. Chỉ với người
khoảng 8 tuổi mà tôi thấy Tướng Nguyễn
Viết Thanh đối xử trang trọng lắm. Mọi người
đều dùng cơm chay v́ Ông Đạo Nhỏ không
ăn mặn. Sau khi cơm nước xong xuôi, mỗi người
được phân phát một tờ giấy và một
cây viết ch́. Tướng Thanh nói rằng: “Ông Đạo
Nhỏ biết rất rành quá khứ vị lai (tức
chuyện về trước, chuyện về sau) nhưng
v́ không nói chuyện được nên chỉ trao đổi
bằng giấy viết.” Vậy là mỗi người
viết câu hỏi mà ḿnh muốn hỏi lên tờ
giấy rồi chuyền tay đưa tới Ông Đạo
Nhỏ. Đầu tiên là ông Tư Lịnh Quân Đoàn
Nguyễn Viết Thanh viết một câu hỏi
đưa qua. Ông Đạo Nhỏ cầm viết,
viết rào rào (nghĩa là viết rất nhanh) bằng
chữ Quốc Ngữ, xong rồi đưa lại cho
ông Thanh. Ông Thanh coi xong bèn úp tờ giấy xuống
mặt bàn. Sau đó là
tới lượt ông Chuẩn Tướng Nguyễn
Hữu Hạnh, v́ ông và ông Thanh ngồi hai bên Ông
Đạo Nhỏ. Ông Đạo Nhỏ viết câu
trả lời toàn bằng thơ. Tôi ngồi gần nên
liếc thấy hầu hết là thơ ngũ ngôn
(mỗi câu năm chữ). Sau ông Đại Tá Ánh, Tư
Lịnh Sư Đoàn 4 Không Quân là các ông Đại Tá
khác trong đó có Đại Tá Huỳnh Văn Lạc,
Tham Mưu Trưởng (sau nầy cũng lên Tướng
và đang sống ở Sacramento, California). Tôi nhường
hết cho mọi người, chờ đến lượt
cuối cùng, tôi viết trong giấy là: “Xin Ông
Đạo Nhỏ cho biết tương lai vận
mệnh của tôi trong cuộc chiến tranh nầy?”
Tôi đưa cho ông Thanh. Ông Thanh coi qua một chút
rồi chuyển cho Ông Đạo Nhỏ. Ông Đạo
Nhỏ viết xuống mấy chữ chuyền tới
lui, th́ ra ông viết rằng: “Đưa về nhà
rồi sẽ cho sau.” Ông không cho liền trong khi
mấy ông kia th́ trả lời ngay. Sau đó, Ông
Đạo Nhỏ tỏ ư muốn đi ra đằng
sau chơi. Ông Tướng Thanh đích thân dẫn Ông
Đạo Nhỏ ra phía sau hàng ba để Ông đi
lại nơi cái bàn có cái ghế và ngồi chơi
một ḿnh. Số người c̣n lại trong nầy
chuyền tay nhau những tờ giấy có câu trả
lời của Ông Đạo Nhỏ, không ai dấu
diếm. Tôi đọc bài thơ của Tướng
Thanh th́ câu cuối cùng mà Ông Đạo Nhỏ
viết là: “Tu mau đi kẻo muộn ! ” C̣n
bài thơ của ông Đại Tá Ánh, của ông Đại
Tá Trưởng Pḥng Nh́ cũng viết là: “Tu mau
đi kẻ muộn! ” Điều trùng hợp là
cả ba ông này đều có một câu kết như
nhau. Và sau đó không lâu, cả ba ông này đều
chết v́ tai nạn máy bay. Riêng của ông
Hạnh th́ Ông Đạo Nhỏ cho một bài thơ
Đường Luật gồm 8 câu 7 chữ, câu
cuối cùng là: “Thân bại danh liệt tướng
miền Tây.” Tôi chỉ nhớ câu chót thôi, không
thể nhớ hết nguyên bài. Mấy người c̣n
lại trong đó có một ông Đại Tá người
Huế làm bên Tiếp Vận Vùng 4 cũng được
một bài thơ nhưng b́nh thường thôi, không có
ǵ đặc biệt. Sau khi bàn luận qua lại
một hồi rồi giải tán. Thiếu Tướng
Thanh nói với tôi là Ông Đạo Nhỏ muốn
về nhà của tôi và sau đó nhờ tôi đưa
Ông Đạo Nhỏ về Hồng Ngự, v́ tôi có
một chiếc trực thăng riêng muốn xử
dụng lúc nào cũng được. Tôi chở Ông
Đạo Nhỏ về nhà rồi kêu chú lính trực
đem một cái ghế bố với đầy đủ
mùng mền cho ông nghỉ ngơi ngay tại pḥng khách.
Ban tối, chú lính mở ghế bố ra rồi đến
sáng th́ thu dọn lại sạch sẽ. Khi tôi xuống
Cần Thơ làm việc, vợ tôi giao cho tôi đứa
con gái lớn đang học lớp Bảy nên phải
xin chuyển trường cùng với ba đứa con
trai nhỏ nhứt; gồm đứa 7 tuổi, 6
tuổi và 5 tuổi; c̣n mấy đứa lớn đang
học ở Sài G̣n. Mỗi ngày, hai đứa con 7 và 6
tuổi th́ đi học, c̣n đứa 5 tuổi
vẫn c̣n ở nhà chơi với Ông Đạo
Nhỏ . Nhưng Ông nầy lại không thích chơi
giỡn. Sáng dậy, tôi và Ông Đạo điểm tâm
bằng cháo trắng. Trong khi tôi ăn với đường
hay thịt cá, th́ Ông ăn ba chén đàng hoàng nhưng
với muối. Đặc biệt là dù trời
lạnh hay nóng Ông cũng đều thích ra ngồi phía
sau nhà. Nơi nầy tôi có che một cây dù nhà binh, Ông
ngồi yên lặng, hướng mắt về phía Nghĩa
Trang Quân Đội, không nói ǵ cả cho tới trưa
khi tôi đi làm về th́ vào ăn cơm chay với tôi.
Sau bữa ăn cơm tối, tôi viết mấy câu
nhắc lại câu hỏi của tôi lúc trước th́
Ông trả lời là: “Hăy đợi đến ngày
Rằm,” tức là khoảng 7, 8 bữa nữa. Trong
thời gian lưu ngụ đó, nhiều khi con tôi đi
học về đến nắm tay, nắm chân kéo ra ngoài
chơi giỡn, nhưng Ông cứ ngồi im thin thít không
nói, không rằng, và không thích vui đùa như mấy
đứa con nít cùng trang lứa. Đến ngày
Rằm, tôi cho mấy đứa con đi ngủ
sớm, đóng cửa pḥng không cho ra ngoài, rồi
chuẩn bị vào pḥng khách để đàm đạo
với Ông Đạo. Ông Đạo viết lên
giấy biểu tôi đốt hai cây đèn cầy
đỏ thật lớn để trên hai cái chân đồng
và tắt hết đèn điện. Sau đó, Ông
biểu tôi lấy ra một tập giấy học tṛ
200 trương và một cây viết nguyên tử. Ông
bắt đầu viết lên tờ giấy: “Ông
cứ đặt câu hỏi, và viết lên đây
mỗi trang giấy là một câu hỏi!” Tôi c̣n
nhớ, khi Ông cho mấy ông Tướng Tá kia th́
mỗi người chỉ được một bài thơ
c̣n riêng tôi th́ cả một cuốn tập 200 trương.
Đại ư những điều Ông viết về
vận mệnh cho tôi như thế nầy là: “Khi tôi
về già, cái mệnh của tôi cũng như Ông Khương
Thượng (tức KhươngTử Nha) đời nhà
Châu giúp vua Châu diệt nhà Thương (hoàn toàn
được viết bằng những bài thơ).
Về già, tôi sẽ đảm nhận vai tṛ giống
như ông Khương Tử Nha ngồi câu trên sông
Vị Thủy chờ Châu Văn Vương tới rước
làm đại tướng quân cầm quân đánh vua
Trụ chớ không phải như lúc c̣n trẻ.” Ông
c̣n viết thêm là: “Ông có quyền hỏi tất
cả những ǵ mà ông muốn biết.” Thế là, tôi
lật trang kế tiếp, tôi hỏi về chuyện
quốc gia, đến khi hết chuyện quốc gia là
đă lên tới 100 trương rồi nhưng ông
cứ cho hỏi hoài từ 7 giờ tối tới 12
giờ khuya. Tôi hỏi đâu, ông cho đó. Đặc
biệt, tất cả đều trả lời bằng
một bài thơ chớ không phải văn b́nh thường.
Tôi không hiểu tại sao một người chỉ
mới 8 tuổi mà làm thơ đủ vần, đủ
điệu như vậy. Tôi thử ông tới
những bài thơ Đường Luật thất ngôn
bát cú luôn cả bài toàn chữ B. Ông cũng cho tôi bài
thơ Quốc Ngữ khởi đầu toàn là chữ
B mà lại viết liền không cần suy nghĩ .
Thật là một người có bộ óc thông minh kinh
hồn, không thể tưởng tượng được.
Về chuyện trong nước th́ cuối cùng ông phán
trong một bài thơ, đại ư là: “Miền
Nam không đứng vững, không đủ khả năng
đánh bại Miền Bắc. ” Kế đó tôi
hỏi về chuyện thế giới th́ được
trả lời đến gần 100 bài nữa, trong
đó có hai bài hỏi về Hội Long Hoa. Tôi hỏi:
“Hội Long Hoa thành lập ở đâu,
do ai chủ tŕ và giải quyết chuyện ǵ?”
Vấn đề nầy ông không trả lời, nhưng
ông vẽ một cái h́nh lên trên tờ giấy. Ông
vẽ một khán đài rồi vẽ một cái ṿng
tṛn. Ông vẽ một mũi tên chỉ vô để
“người” tức là nhiều người ngồi
trên đó. Rồi phía dưới ông vẽ h́nh người
mà cả hàng ngàn, hàng ngàn người ngồi ghế
bên dưới. C̣n vùng đó là vùng có núi, mà là núi
thấp. Ông không nói địa điểm chỗ nào,
nhưng nh́n xa xa thấy toàn là núi. C̣n chỗ hội
họp là giữa hai cái núi, ông vẽ sơ sơ
vậy thôi. Sau đó, ông vẽ cái dấu tṛn phía trước,
kế đó là cái dấu tṛn thứ hai. Cái dấu
đầu tức là có người ngồi trước.
Rồi ông vẽ một mũi tên chỉ vào dấu
thứ hai đó, ông viết chữ “ông” tức là tôi
sẽ là người thứ nh́ ngồi ở Hội
Long Hoa. Đến nay, khi tôi kể lại tôi c̣n
cảm thấy run cả người bởi v́ Hội
Long Hoa là một chuyện trọng đại và phi thường
giải quyết cả một vận hội thế
giới chớ không phải cho riêng nước ḿnh thôi
đâu. Rồi khi tôi
hỏi đến chuyện thế giới chiến tranh
thứ III th́ ông cho bài thơ trả lời, đại
ư là chuyện đó sẽ phải xảy ra và thế
giới cũng bị tận diệt rồi sau đó
mới lập Hội Long Hoa. Nghĩa là khi chiến tranh
thế giới thứ III chấm dứt mới có
Hội Long Hoa. Sau đó tôi kêu chú lính chạy đi
lấy cho tôi một bản đồ thế giới
rất lớn mang đến, và cả bản đồ
Việt Nam. Tôi phải trải từng khúc lên bàn, theo
ư muốn của ông. Ông cầm cây viết mỡ lên
sẵn sàng giải đáp. Đầu tiên, tôi
hỏi: “Xin Ông cho biết ảnh hưởng về
Việt Nam và Tàu sẽ đi tới đâu?”
Ông cầm cây
viết mỡ vẽ một lằn từ bên Tàu phía trên
Hồng Kông từ ngoài biển kéo vô một lằn
tới dăy Himalaya (Hy Mă Lạp Sơn) rồi ông kéo
trở lại cắt ngang phía Bắc Việt Nam từ
miền thượng du Bắc Việt tức vùng Cao
Bằng, Lạng Sơn ra tới phía Bắc của
Hải Pḥng. Rồi ông lấy viết xanh ông gạch
gạch rồi cho biết “tất cả chỗ
đó sẽ trở thành biển.” Ông viết
một chữ “BIỂN” lên đó. Nguyên
phần đất nầy sẽ tan biến, tức là
ranh giới giữa Tàu và Việt Nam sẽ thành một
cái biển lớn. Hồng Kông không c̣n rồi qua đến
phía Bắc của Lào, một phần của Thái Lan,
một phần của Miến Điện rồi vô
tới dăy Himalaya sẽ bị sụp mất hết,
Việt Nam chỉ mất có bấy nhiêu đó thôi. Cái
vạt Bắc Kinh, Thượng Hải được
ông gạch nát hết, Đài Loan cũng lặn
mất. Xong rồi, tôi
để bản đồ trước mặt Ông,
chỉ vào từng vùng, từng vùng th́ ông cho thấy
quốc gia nào cũng bị khó khăn hết. Nước
Mỹ nầy th́ ông vẽ tiểu bang Washington, Oregon,
California đi xuống biển. C̣n ở phía miền
Đông th́ bể nhiều lỗ. Nữu Ước không
c̣n nữa tức cũng thành biển. Nước
Mỹ chỉ bị mất mấy vùng hai bên bờ
biển phía Đông và phía Tây. Rồi ông làm một bài
thơ cho biết địa cầu chuyển trục. Nước
Mỹ trở thành một vùng nằm ngay giữa
đường xích đạo. Đường xích
đạo đi ngang qua nước Mỹ, biến nước
Mỹ trở thành một quốc gia bị nóng như
sa mạc. C̣n bên Âu châu th́
quốc gia nào cũng bị thiệt hại một
phần hết. Nước nào ông cũng bôi bỏ
chỗ nầy, chỗ kia rồi chỗ kia, chỗ
nọ. Cuối cùng chỉ c̣n lại hai chỗ là Úc châu
và Tân Tây Lan. Tôi hỏi ông về phần đất Úc
châu th́ ông cho một bài thơ cho biết đó là thánh
địa không có bị động chạm ǵ tới
và Tân Tây Lan cũng như Úc châu đều c̣n nguyên
vẹn. Các quốc gia con con gần Bắc Băng Dương
và Nam Băng Duơng th́ nơi nào cũng bị đánh
phá, chỉ trừ có Úc Châu và Tân Tây Lan mà ông cho là
thánh địa. Đến đây,
tôi nói với ông là cũng đă khuya rồi, chú lính
đă giăng mùng sẵn, mời Ông đi nghỉ.
Về chuyện hậu vận của tôi, tôi cũng có
hỏi và được giải đáp đầy
đủ nhưng v́ thuộc về cá nhân nên tôi không
thể nói được, ngoại trừ việc
về già giống trường hợp ông Khương
Thượng như đă nói ở phần trên. Bởi
v́ tin vào vận mệnh đó mà tôi mới dám qua
Campuchia ở 10 năm và chiến đấu bên đó
từ năm 1984 đến năm 1994. Sáng hôm sau ông
viết lên giấy đ̣i về nhà. Tôi cho gọi
trực thăng tới để đưa ông đi. Ông
viết cho tôi là: “Tôi biết ông có đủ
khả năng để xây cất một cái miếu
đường cho tôi để tôi có chỗ ở mà
thờ phượng.” Tôi trả lời: “Được,
tôi sẽ giúp Ông Đạo Nhỏ.” Ông cầm
tờ giấy đó xếp lại và bỏ vào túi. Tôi
đưa Ông ra trực thăng bay lên núi Sam, Châu Đốc,
kiếm ông Thiếu Tá Công Binh của tôi đang
bắn đá ở đó. Tôi gọi radio trước
cho ông nầy nên trực thăng vừa tới là ông
leo lên cùng bay về Hồng Ngự với tôi và Ông
Đạo Nhỏ. Khi trực thăng
đậu ngay sân Chi Khu là có sẵn chiếc xe Jeep
chờ sẵn chở chúng tôi đến nơi mà Ông
Đạo Nhỏ muốn xây cất miếu. Nhà ông
ở cũng gần chợ Hồng Ngự. Ông viết
giấy đưa cho tôi nói đây là đất nhà
của ông. Tôi nói với ông Thiếu Tá: “Thiếu Tá
cố gắng giúp Ông Đạo Nhỏ xây cái miếu
ở đây, c̣n phương tiện hay cần vật
liệu ǵ, Thiếu Tá cứ viết giấy về Liên
Đoàn lănh vật liệu lên làm,” tức là tôi cung
cấp toàn bộ và cho các anh em Công Binh gồm cả
một tiểu đội để việc xây cất
càng nhanh càng tốt. Ông Đạo Nhỏ lấy
giấy viết, vẽ sơ sơ ra cái nền vuông
rồi ngăn vách phân biệt nơi nào để
thờ phượng, nơi nào là chỗ ngủ của
ông, chỗ để quần áo, nơi thay quần áo,
rồi chỗ ở của người tu chung với ông,
rồi cái bếp, cái nhà tắm, cầu tiêu. Nơi nào
ông cũng có viết chữ trong đó, ông vẽ khéo
lắm như một kiến trúc sư vậy. Ông c̣n
cho cả chiều ngang khoảng 12 thước c̣n
chiều xuôi chừng 16-18 thước. Diện tích cũng
giống như một căn nhà chớ không nhỏ
lắm, c̣n trên cái nóc th́ muốn làm sao cứ làm. Riêng
phía trước chỗ phần thờ phượng th́
chiếm 1/3 căn nhà có xây một cái trang ở trên,
rồi có cửa trước và có cửa ra vô hai bên hông.
Công việc nầy do anh em Công Binh hoàn thành khoản 20
ngày dưới sự chỉ huy của Thiếu Tá Hoàng
Bá Hải. Ông nầy có lẽ là người Nha Trang nhưng
nói giọng miền Nam, rất lanh lợi, làm giám đốc
hầm đá núi Sam khoảng 7-8 năm. Sau khi hoàn
tất, ông Thiếu Tá Hải có mời tôi lên ăn Khánh
Thành nhưng lúc đó rất bận nên tôi không
thể đến dự. Chính ông và Ông Đạo
Nhỏ cùng mọi người làm lễ Khánh Thành trước
khi Ông Đạo Nhỏ dọn vào ở. C̣n tên
miếu là ǵ th́ tôi không biết. Tôi cứ cầm
tập thơ viết đầy 200 trương nầy
coi đi coi lại hoài, nghiền ngẫm những điều
ghi trong đó. Sau đó tôi cầm về Sài G̣n cẩn
thận cất vô tủ sắt trong nhà. Tôi có người
bạn là bác sĩ Nguyễn Bá Khả (có người
em là bác sĩ Nguyễn Bá Tín), người Bắc di cư
năm 1954, cha mẹ vẫn c̣n sống và đang ở
chung với ông ở cư xá Lữ Gia, Sài G̣n. Ông bác
sĩ nầy rất đàng hoàng và nhân ái. Trước
cửa pḥng mạch của ông ở đường G̣
Công, Chợ Lớn có dán tờ giấy ghi là: “Kẻ
nghèo khổ và người tu hành được khám
bịnh miễn phí.” Ông làm Tổng Trưởng Y
Tế trong thời gian Nguyễn Cao Kỳ là Chủ
Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Khi ông đi
họp bên Phi Luật Tân th́ ở bên nhà ông Chánh Văn
Pḥng của ông là người miền Nam bị ông
Kỳ ra lịnh cho Đại Tá Liễu, Giám Đốc
Cảnh Sát bắt đem giam trong khám Chí Ḥa. Nhóm trí
thức và dân biểu gốc miền Nam chống ông
Kỳ về vụ bắt giam nầy. Ông Kỳ đổ
thừa là bác sĩ Khả ra lịnh. Ông Khả đang
họp ở Phi Luật Tân có người gọi điện
thoại báo cho ông. Ông liền bỏ họp trở
về Việt Nam. Ông vô văn pḥng ông Kỳ mạt sát
ông nầy dữ dội: “Ông làm như vầy là
sai! Tại sao Đổng Lư Văn Pḥng của tôi mà ông
ra lịnh bắt? Tại sao ông không nhận lại
đổ thừa là tôi ra lịnh?” Sau khi xỉ
vả ông Kỳ một hồi rồi ông đưa thơ
từ chức, không làm nữa. Ông c̣n nói rằng: “Tôi
muốn giúp ông để làm việc nước, nhưng
ông đă làm trái với nguyện vọng của tôi nên
tôi không chấp nhận làm việc chung với ông
nữa. Tôi muốn trở về làm dân.” Sau đó,
bác sĩ Khả trở về nhà và buồn bực
lắm. Thấy vậy, tôi mới mời ông tới nhà
tôi chơi và cho ông xem quyển sách đó. Ông ngồi
với tôi vừa uống nước và xem hết 200 bài
thơ trong đó. Ông là một bác sĩ có bằng
cấp của Pháp, du học bên Pháp nên thuộc
loại bác sĩ giỏi. Xem xong, ông không nói năng ǵ
và ra về. Trước khi về lại Cần Thơ,
tôi đem cuốn sách đó cất vào tủ sắt. Lúc
bấy giờ ông William Colby đang làm Cố Vấn cho
chương tŕnh Phụng Hoàng.
Đến tháng
sau, tôi trở về Sài G̣n thăm vợ con, tôi mở
tủ sắt ra coi lại th́ quyển sách của tôi
đă bị mất, luôn cả bản đồ vẽ
đủ thứ trên đó cũng bị mất. Tôi
nhớ bác sĩ Nguyễn Bá Khả cũng có coi qua
bản đồ nầy ! Tôi hỏi bác sĩ Khả có
nói với ai về quyển sách nầy không, ông
trả lời: “Tôi với anh là bạn mà, tôi coi
xong rồi thôi, có nói với ai đâu!” Tôi cố
t́nh t́m kiếm vẫn không ra, rồi từ từ cũng
không c̣n nhắc tới nữa, nhưng tôi tiếc
lắm. Lâu lâu tôi cũng muốn giở ra coi để
biết thời cuộc, v́ đây là sách thiên cơ mà
tôi tin tưởng. Đến năm
1975, khi tôi sang được Hoa Kỳ, ở thành
phố Roseville, California, th́ được ông William
Colby gởi lời mời lên nhà chơi. Lúc đó, ông
Colby đang là giám đốc CIA của chánh phủ Hoa
Kỳ. Khi tôi đến nhà th́ được bà
vợ ra tiếp đón c̣n ông th́ đi làm, trưa
đó mới về gặp tôi. Ông lấy cho tôi
một cái Hotel bên ngoài, và một tài xế để
tôi tiện việc đi chơi đây đó, nhứt
là đi ṿng ṿng thăm Hoa Thịnh Đốn cho
biết. Trong lúc ăn cơm,
tôi kể lại câu chuyện về Ông Đạo
Nhỏ cho ông William Colby nghe. Nghe xong, ông Colby chỉ cười
và nói ông biết rồi. Tôi hỏi tại sao ông
biết. Ông trả lời chính bác sĩ Khả báo cáo
với ông. Hóa ra là bác sĩ Khả làm việc cho CIA mà
tôi đâu có biết! Colby nói là
ông đă cho người lúc ban đêm mở cửa vào
nhà tôi và mở tủ sắt lấy hết hồ sơ
đó. Tôi hỏi ông lấy để làm ǵ. Ông nói
sau khi lấy xong th́ cho người mang tay về Hoa
Kỳ, v́ ở CIA có một ban chuyên môn nghiên cứu
về chuyện đó và để tại đây cho
họ nghiên cứu. Tôi nói: “Thôi bây giờ
đă nghiên cứu xong rồi, cho tôi xin lại dù là
bản sao cũng được.” Ông nói: “Không
được! Nó đă thành một văn kiện
mật, rất tối mật. Chính Tổng Thống
Mỹ cũng không được xem chớ đừng
nói việc trả lại cho you!” nên tôi đành
chịu thôi. Đầu năm
1978, có hai vợ chồng ông Thiếu Tá gốc Phật
Giáo Ḥa Hảo ở Nam Cali lên Sacramento thăm bà con
ở đây. Ông có gặp và kể cho tôi nghe về
chuyện Ông Đạo Nhỏ . Ông Thiếu Tá nầy
quê ở Rạch Giá có vợ ở Hồng Ngự, ông
là Tiểu Đoàn Trưởng, Sư Đoàn 9 Bộ
Binh nhưng sau biến cố 1975, vợ chồng ông
trở về Hồng Ngự trốn lánh. Nhờ bà con
chung quanh che chở không ai tố giác thành ra ông không
phải đi tù cộng sản. Nhà bên vợ có
một miếng ruộng ở giữa đồng nên
vợ chồng ra đó làm ruộng từ năm 1975
đến năm 1977 mà không bị bắt. Ông nói, ông
có đến gặp và biết Ông Đạo Nhỏ
ở Hồng Ngự. Ông Đạo ở đó lo tu hành
và chữa bịnh. Những bịnh nhẹ và ma quỷ
th́ ông làm hay lắm, c̣n về nóng lạnh hoặc
sốt rét th́ chữa không được khá. Đặc
biệt, bịnh thuộc về ma hành quỷ bắt hay
điên loạn th́ ông chữa được hết. Vào một
buổi sáng sớm vào năm 1977, trong lúc vợ
chồng ông đang nhổ mạ để sửa
soạn cấy th́ thấy có một người
mặc áo dài đen, mặc quần trắng, đầu
trần tóc hớt chải coi trẻ lắm và mang dép
da từ trong chợ Hồng Ngự đi ra (từ đó
cách chợ Hồng Ngự mấy cây số). Sau đó,
hai vợ chồng đứng dậy chào v́ biết người
vừa tới đó là Ông Đạo Nhỏ. Ông Đạo
lúc bấy giờ đă 17 tuổi rồi. Thấy hai người
đứng dậy chào th́ ông chỉ vô thúng xôi (khi
họ đi đồng th́ thường đem theo
một cái thúng trong đó có đựng cơm nếp,
muối mè và nước uống…). Ông chồng
hiểu ư, lấy một chén xôi rắc muối mè
rồi đưa cho ông Đạo. Ông Đạo
ngồi xuống bờ đất ăn ngon lành. Ăn
xong chén xôi, ông chỉ hũ nước. Ông chồng
lấy cái chén sạch rót cho một chén nước
đưa cho Ông. Uống xong, Ông đứng lên
chắp tay xá một xá, rồi băng ngang đồng
đi về hướng Cao Lănh. Hai vợ chồng lui
cui nhổ mạ để kịp cấy nên lơ là, lúc
đó chỉ độ 8 giờ sáng, nên Ông Đạo
mất dạng lúc nào cũng không ai hay biết. Từ
đó, Ông Đạo Nhỏ không c̣n trở về ngôi
miếu của ông nữa. Sự việc
nầy, theo tôi nghĩ là do cái linh ứng của Đức
Phật Thầy đă chuyển kiếp qua Đức Giáo
Chủ Huỳnh Phú Sổ, rồi sau đó lại
chuyển qua Ông Đạo Nhỏ. Sở dĩ tôi nghĩ
như vậy v́ khi tôi hỏi sư phụ của tôi,
ông đă cho tôi biết. Sư phụ tôi là một
vị ḥa thượng người Quảng Ngăi. Năm
1974, ông đă được tuổi rồi. Lúc c̣n
trẻ, ông tu ở Quảng Ngăi rồi sau đó đi
ra Hà Nội và qua bên Tàu. Ông lại đi theo các ông sư
Miến Điện về tu ở Miến Điện 5
năm, học ngôn ngữ và chữ viết Miến
Điện rồi lại đi theo mấy ông sư
nầy hành hương qua Nepal rồi đến Tây
Tạng ở đó tu suốt 30 năm nữa. Sư
Phụ tôi có thể nhịn đói 3, 5 năm mà không
chết, và có thể chết 100 ngày hay 50 ngày rồi
sống lại. Ông đă biễu diễn nhiều
việc làm tôi phải hết hồn. Bất cứ ngôn
ngữ nào trên thế giới ông đều biết
cả. Tôi đă đưa một ông Đại Tá người
Đức tới thăm ông. Lúc đó ông đang
ở trong Chợ Lớn được mấy người
Tàu cất cho một cái am nho nhỏ để tu hành cùng
với một tiểu đồng. Khi người Đức
tới hỏi tiếng Đức th́ ông cũng trả
lời ngay bằng tiếng Việt. Lúc trước, tôi
có dẫn một đồng bào người Thượng
gốc Rhađê biết nói tiếng Việt tới
hỏi chuyện với ông bằng tiếng Rhađê th́
ông trả lời bằng tiếng Việt liền. Người
nầy hỏi cái ǵ ông lền trả lời ngay cái
nấy. Có lần, tôi
đem ông Đại Úy người Anh đến th́ cũng
được trả lời rất rành rẽ bằng
tiếng Việt. Khi ông nghe th́ hiểu ngay nhưng không
nói được thứ tiếng đó mà trả
lời bằng tiếng Việt. Tôi đưa nhiều
người ngoại quốc tới gặp ông đều
được trả lời bằng tiếng Việt
rồi tôi thông dịch lại bằng tiếng Anh và
đều được thỏa đáng. Sau đó tôi
c̣n đưa một ông Đại Úy Ấn Độ
tới th́ cũng như mấy lần trước; nghĩa
là khi hỏi bằng tiếng Ấn th́ được
trả lời bằng tiếng Việt. Sau đó ông
khuyên tôi là đừng mắc công đưa người
ngoại quốc tới nữa. Ông tu đến
mức là đọc được ngôn ngữ xuất
phát từ tư tưởng con người. Người
ta nói ǵ mặc kệ nhưng ông đọc được
tư tưởng của họ, nên biết họ
muốn hỏi về việc ǵ v́ tư tưởng
họ phát ra lời nói ấy. Rơ ràng là Sư Phụ tôi
đă tu đến cái mức cao thâm rồi. Sư
Phụ đă chỉ dạy cho tôi cái pháp gọi là
“ngũ hành tương sanh tương khắc” để
đỡ đạn, không bị đạn vô trong người.
Sư Phụ c̣n cho tôi biết, khi ḿnh khấn vái cái ǵ
ḿnh không cần phải nói ra bằng miệng. Ḿnh
chỉ nghĩ trong tư tưởng rồi chấp tay
làm thinh khấn vái th́ cái lời khấn cầu
của ḿnh sẽ tới người nghe liền,
chỉ nh́n cái tư tưởng của ḿnh là người
ta biết ngay chớ không cần phải nói ra bằng
lời. Luyện pháp “ngũ hành tương sanh tương
khắc” là để khi đạn bắn vô người
th́ nó bị trợt ra ngoài. Nhưng muốn luyện cái
pháp môn nầy phải mất công phu nhiều lắm. Sư Phụ tôi
là người không những biết pháp mà c̣n biết
bùa chú nữa. Chẳng hạn như có hôm, đang
ngồi nói chuyện trong bàn tṛn trước sân am
của ông th́ có một anh du đăng người Tàu
say rượu bước vô nói bậy, nói bạ
rồi tự kéo ghế ngồi. Sư Phụ tôi nói:
“Chú đi ra ngoài chơi! ” Nó nói: “Ngộ
không có li! ” Ông đưa cái tay lên như
vầy (giống như tung chưởng ra) tức th́ tên
nầy bật ngửa ra sau lăn mấy ṿng, hoảng
hồn chạy tuốt ra ngoài. C̣n bên trong am, tôi có cho
ông một cái bàn viết bằng sắt của Mỹ
với cái ghế c̣n rất mới, ở phía sau lưng
ông có một cái tượng Phật bằng vàng do người
Tàu đem cúng, nặng năm lượng để
lộng trong một cái hộp bằng kiếng,
khiến ai nh́n cũng ham muốn. Nhiều đứa
ăn trộm tới định đánh cắp nhưng
khi vừa đưa tay ra th́ đứng ngay tại
đó luôn cho tới sáng, đợi ông thức dậy
xin tha mạng. Ông đưa tay giải bùa cho nó. Nó té
xỉu xuống đất nằm một hồi,
rồi tỉnh dậy chạy đi, nên thấy ông
Phật bằng vàng mà không ai ăn cắp được. C̣n tiền
của ông để hai bên hộc bàn không bao giờ khóa
mà không ai dám ăn cắp. Ông chuyên môn chữa bá
bịnh, bịnh nào ông chữa cũng hết. Tuy nhiên,
bịnh nào không chữa khỏi th́ ông nói chữa không
được. Ông nh́n mặt bịnh nhân là biết
chữa được hay không. Người Tàu trong
Chợ Lớn tin ông ghê lắm. Bịnh mà mấy
bịnh viện chê đều đem tới cho ông. Tôi
đă chứng kiến việc nầy nhiều lần.
Ông hỏi người bịnh đang nằm ngáp ngáp,
ông vừa hỏi vừa lấy tay rờ lên trán,
rồi ông để hai ngón tay dưới ḷng bàn chân
bấm vô một lúc là thấy hết ngáp ngáp. Ông nói:
“Ngồi dậy!” là bịnh nhân tức th́
ngồi dậy. Kế đó, ông hỏi thẳng
bịnh nhân bịnh t́nh thế nào rồi viết cho
mấy toa thuốc, căn dặn kỹ lưỡng cách
cho uống như thế nào. Nhưng trước khi
chữa bịnh, ông thường đặt vần
đề tiền, ông bảo đảm bịnh nầy
có thể chữa sống hai năm nữa hay sáu tháng
nữa hoặc một năm nữa. Ông thường
nói thẳng vấn đề tiền bạc nếu thân
chủ đồng ư là ông chữa, tùy theo căn
bịnh mà ra giá. Có thể là năm trăm ngàn hay tám
trăm ngàn hoặc hơn nữa và cũng tùy theo kinh
tế của gia đ́nh người đó. Mà hễ
khi nói đến tiền là phải chạy ngay về
nhà đem tiền đến th́ ông mới chịu
chữa. Thường th́ người giàu lấy
nhiều c̣n người nghèo th́ lấy ít. Khi nhận
tiền, ông không cần đếm lại cứ
thẩy vô hai hộc tủ đó. Số tiền
nầy ông không xài. Ông có một lô đệ tử
nghèo khổ đang làm thuê vác mướn, nếu
vợ con gặp đau yếu th́ tới ông, ông
chữa trị giúp cho mà c̣n đưa tiền để
về nhà lo chạy gạo hoặc mua thuốc. Đám
nghèo khổ tới chữa bịnh đều được
ông cho tiền. Có một
việc ông làm cho tôi sợ là từ năm 1970 đến
1974, mỗi sáng sớm ngày Rằm tháng Bảy là tôi
phải đi vô am của ông, đem ông vô nhà sau
tắm rửa cho ông. Lúc bấy giờ ông già lắm
rồi, người của ông c̣n chừng hơn hai mươi
kư lô c̣n cái ṿng bụng của ông từ đằng
trước ra phía sau lưng th́ không bằng một
gang tay. Thân thể ông chỉ như bộ xương v́
từ năm 1970 đến năm 1974 ông không c̣n ăn
ǵ nữa nhưng đi đứng vẫn b́nh thường,
mỗi ngày chỉ uống mấy tách nước trà
vậy thôi. Mỗi sáng
sớm ngày Rằm tháng Bảy từ năm 1970 tới
năm 1974 là tôi phải vô tắm cho ông (mỗi năm
chỉ tắm một lần) . Tôi kỳ rửa
bằng sà bông sạch sẽ rồi đưa quần
áo cho ông mặc vô. Sau đó ông nằm lên “đi văn”
đặt ở pḥng khách rồi đắp mền lên
người. Ông nằm dài ngay ngắn ra đó,
thẳng hai tay hai chân, rồi niệm “Nam mô A Di
Đà Phật” ba lần, rồi từ từ làm
thinh luôn. Ông đă dặn tôi trước đó, là:
“Thầy sẽ chết giả 49 ngày.” Việc
nầy bắt đầu từ năm 1970, thành ra tôi
phải cho người nhà tới canh chừng 24 trên 24
giờ và giữ nhà cho ông. Tôi sợ bị chuột
cống lên cắn ông nên phải lấy mùng giăng
cho ông trong thời gian nằm đó. Khi ông nằm như
vậy một lúc, tôi rờ thử lỗ mũi th́
thấy ông đă hết thở, c̣n thân thể tới
chiều th́ xám xịt và đến ngày hôm sau là
lạnh ngắt như cái xác chết. Đúng 49 ngày sau
lúc 12 giờ trưa th́ người trực ở đó
cuốn mùng lên, lấy mền ra th́ xác ông vẫn
nằm nguyên đó, nhưng từ từ tôi thấy
mấy ngón tay ngón chân của ông bắt đầu nhúc
nhích. Sau đó, ông ngồi bật dậy, lấy hai bàn
tay chà lên mặt mấy cái rồi cười “ha
hả” trở lại tươi tỉnh b́nh thường
như cũ. Lúc ông chết giả, tôi có đưa bác
sĩ Khả tới thử nghiệm. Ông Khả đem
máy móc y khoa tới, ông dùng máy đo tim (tâm điện
đồ) th́ chỉ thấy một đường
chạy ngang tức là tim không c̣n đập, nhưng
khi dùng máy đo Encephalogram kiểm soát bộ óc coi có c̣n
làm việc hay không th́ thấy nó chạy b́nh thường
giống như người đang nằm ngủ. Bác sĩ
Khả lúc bấy giờ cũng là đệ tử
của ông. Tới tháng Giêng
năm 1974 th́ ông nói trước: “Ngày Rằm tháng
Bảy nầy, Thầy sẽ về núi. ”
(về núi tức là chết thiệt) . Ông nhắn cho
12 người đại đệ tử phải có
mặt đầy đủ ở bên ông. Đến
chừng đó, tôi mới biết tôi là người
đại đệ tử thứ 12. Ông hẹn 10
giờ mới được gặp mặt, ai tới
trước cũng không được vô. Đúng 10
giờ, chúng tôi bước vô th́ ông ngồi dậy
với tư thế xếp bằng. Ông nhắn nhủ
rằng: “Cái đời khổ sắp tới
rồi! Các con phải rán giữ ǵn tâm ư, làm điều
thiện và lo tu hành. ” Ông c̣n nói thêm
một câu nữa: “Trước khi đi về thế
giới khác, các con nên biết là 49 ngày của 4 năm
sau cùng nầy, Thầy đă đi về cơi khác.
Thầy để cái xác nằm ở đây nhưng
linh hồn về cơi khác. Đường đi nước
bước là Thầy rành lắm, nơi cơi khác đó,
nơi thế giới khác đó đều có mặt
những vị đă tu thành chánh quả. Qua sang năm
(tức năm 1975) th́ miền Nam sẽ gặp đại
nạn. Người nào tiền nhiều th́ tội
nhiều, người nào chức trọ ng quyền cao
chừng nào th́ tội càng nặng chừng nấy. Ḥa
thượng, sư săi, ni cô, cha cố, d́ phước
tất cả mọi người đều phải
tự cày cấy, trồng trọt mới có cái ăn.
Dân chúng không c̣n có khả năng cúng dường
nữa và cái đại nạn nầy sẽ trên dưới
30 năm rồi cơ trời mới chuyển, tự
nhiên cái nạn nó mới hết.” Khi Thầy tôi nói
“trên dưới 30 năm” th́ phải hiểu theo toán
học: trên 30 năm là 35 năm, dưới 30 năm là
25 năm, khoảng 10 năm đó là con số “du di”
lên xuống cho nó chẵn. Năm nay là 32 năm rồi
th́ hy vọng 3 năm nữa mới hết cái đại
nạn. Cũng có thể là trên 30 năm, dưới 30
năm; cộng lại là 60 năm. Sau khi nói xong câu
nầy th́ Thầy cho phép đệ tử mỗi người
được hỏi một câu hỏi. Bắt đầu
là đại đệ tử thứ nhứt được
lên hỏi, mà muốn câu hỏi không cho người khác
biết nên phải kê miệng vô lỗ tai ông nói
nhỏ rồi kê lỗ tai vô ngay miệng ông để
nghe câu trả lời. Người đại sư huynh
của tôi là một ông Lục người Campuchia. Ông
ở đâu dưới miền Nam đến, khi ông
tới đây, tôi mới được biết. Lúc
đó ông đă hơn 80 tuổi rồi, v́ là người
Việt gốc Miên nên nói được tiếng
Việt. Sau khi nghe Thầy trả lời, ông chắp tay
xá một cái rồi đi xuống ngồi yên lặng
ở đó. Kế đó, tất cả mọi người
tuần tự đi lên. Bữa đó, bác sĩ Khả
được ông Thầy cho phép nên cũng có mặt.
Bác sĩ Khả chỉ là đệ tử của người
sư huynh tôi, v́ cũng muốn học môn nhịn
đói. Tôi là người
đại đệ tử cuối cùng nhưng nhường
bác sĩ Khả lên trước. Ông Khả lên đặt
miệng vô lỗ tai ông Thầy hỏi một câu. Sau
đó định kê lỗ tai vô miệng Thầy để
nghe trả lời th́ ông Thầy lấy tay đỡ
mặt bác sĩ Khả ra rồi nói lớn lên câu:
“Phụ mẫu tại đường bất khả
viễn du.” Ông Khả nghe xong quỳ xuống xá
một xá rồi đi xuống ngồi yên. Đến
lượt tôi lên, tôi hỏi nhỏ: “Thưa
Thầy! Nếu cái chuyện nó xảy ra như Thầy
nói, con phải làm sao?” Ông nói nhỏ trong lỗ tai
tôi rằng: “Con nghĩ sao, con làm vậy.” Có nghĩa
là lúc cái đại nạn nó tới, tôi nghĩ sao th́
tôi làm vậy. V́ v ậy, khi
gần tới ngày 30 tháng Tư năm 1975 tôi đă cho
vợ con tôi lên máy bay đi Mỹ trước theo
đám cố vấn Mỹ mà không cần giấy
tờ ǵ hết, v́ lúc đó tôi đang làm Thứ Trưởng
của Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách
cứu trợ nạn nhân định cư. Tôi nghĩ,
tôi có khả năng nhịn đói cả tháng nên có
thể vô rừng ở hoặc đi bộ qua Thái Lan cũng
dễ dàng nên quyết định ở lại.
Cuối cùng, như một phép lạ tôi được
đưa lên trực thăng tại DAO ở Tân Sơn
Nhứt bay ra hạm đội Mỹ vào giờ thứ
25 với tư cách là một mục sư Tin Lành
chớ không phải là một Thiếu Tướng
của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Nguyễn
Văn Hiệp (Bài do VHP
chuyển) -----oOo----- Sấm Kư * * * Huyền Kư |