Quân Phục, Cấp Hiệu, Huy Hiệu, Huy Chương từ Quân Đội Quốc Gia Đến Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà |
Giới thiệu quí chiến hưủ. Chủ
tịch hội đồng đai diện Cộng Đồng
Người Mỷ Gốc Việt,
ông Michael Đổ đă
bỏ rất nhiều công sức vừa xuất
bản quyễn "Remembering
the ARVN" có tất cả cáp
hiệu, phù hiệu và huy hiệu QLVNCH. Sách bán trên Amazon,
rất hửu ích nếu
ai cần tham khảo khi ăn
mặc hoặc chỉ đễ biết.
Các hội đoàn nên có một bản. https://www.amazon.com/Remembering-ARVN-Collection-Republic-Decorations/dp/1653303433 Sau đây một bài viết của một dân sự b́nh luận về quân phục của quân nhân VNCH khá vui, chính tướng TTMT, tư lịnh Không Quân và tư lịnh Hải Quân VNCH làm gương xấu lúc tại chức th́ ngày nay rả hàng khó mà chỉnh ai. HVK Thoại ***
Lời
Giới Thiệu: Nhân dịp tưởng niệm ngày
Quốc Hận , ông Nguyễn Đ́nh Phúc tốt
nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Ban Đốc
Sự Khóa 11, nguyên Phó Tỉnh Trưởng Phước
Tuy, hiện cư ngụ tại Vancouver BC, Canada, đă có
nhă ư sưu tập gửi đến độc giả
tài liệu đặc biệt về huy chương,
cấp hiệu của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Chúng tôi xin cảm tạ ông Nguyễn Đ́nh Phúc và xin
giới thiệu cùng quư độc giả. Sau 30.4.1975, chủ quyền đất
nước mất vào tay cộng sản (việt
cộng và cộng sản Nga, Hoa). Chánh Quyền và
Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n nữa. Ngày
nay dù phải xa quê hương, hoàn cảnh đổi
khác nhưng lư tưởng, chánh nghĩa người
Chiến Sĩ một đời theo đuổi vẫn
c̣n đó, Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm
vẫn c̣n đó, Quê Hương-Dân Tộc vẫn c̣n
đó. Con đường tranh đấu hôm nay dù mang
một h́nh thái khác xưa nhưng mục tiêu vẫn
nhằm tranh đấu cho nền Độc Lập Dân
Chủ Tự Do thực sự cho Hạnh Phúc, Thịnh
Vượng muôn đời của toàn dân. Một
điều khẳng định, chúng ta không bao giờ
quên được Tổ Quốc, Đồng Bào v́ khi
vừa nghe tin những Quần Đảo Hoàng Sa, Trường
Sa hay mới đây Ải Bắc, Bản
Giốc...vừa bị ‘’bạo quyền cắt đất
cầu phong’’ hay những tài nguyên thiên nhiên bị cướp
đoạt, dâng hiến... tức khắc tim ta nghẹn
ngào, muốn đứng vùng lên...Điều này chứng
tỏ chúng ta vẫn măi măi là Chiến Sĩ Việt
Nam Cộng Ḥa. Ngày
mai, khi công cuộc tranh đấu dành lại được
chủ quyền từ tay cộng sản cho toàn dân,
nền Đệ Tam Cộng Ḥa được thiết
lập, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa được
tái tổ chức th́ câu chuyện về quân phục,
cấp hiệu, phù hiệu...hôm nay chẳng là câu
chuyện phiếm, cũng một trong trăm ngàn tài
liệu cần đến. Từ
hơn 2000 năm trước, Đức Khổng Tử
đă nói đến tầm quan trọng của nhung
phục, đại ư Ngài dạy: ‘’Người tráng sĩ
tự ḿnh chưa đủ oai dũng khi lên yên
chiến mă nếu như thiếu nhung y giáp trụ,
thiếu cờ hiệu, cờ lệnh...’’ Bài
viết xin được các Chiến Hữu, Độc
Giả bổ sung, tha thứ v́ hầu như hoàn toàn
dựa vào trí nhớ giới hạn, nhận xét cá
nhân. Chỉ xin được xem như câu chuyện
‘’lính kể lính nghe’’ trong những ngày bị
cấm trại, cấm quân hay phép cuối tuần
bị cháy. Ngay
khi Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ngày 5.6.1948 được
kư kết giữa Đại Diện chánh phủ Pháp và
Việt Nam dưới sự chứng kiến của
Quốc Trưởng Bảo Đại, chánh quyền
Quốc Gia ra đời.
Nước Việt Nam được Độc Lập,
Thống Nhất nhưng vẫn c̣n nằm trong Liên
Hiệp Pháp.
Quân Đội Quốc Gia ngay sau đó được thành
lập nhưng thực tế mới chỉ là một
lực lượng quân sự, bán quân sự chiến
đấu chống Việt Minh (cộng sản) bên
cạnh quân đội liên hiệp Pháp. Cho đến
những năm đầu thập niên 50. Bộ Tổng
Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia vẫn c̣n nhiều sĩ
quan Pháp làm việc, nhiền đơn vị do sĩ
quan, hạ sĩ quan Pháp chỉ huy, quyền
chỉ huy tối cao c̣n thuộc Bộ Tổng Tư
Lệnh Pháp và những Secteur, Sous-secteur (Tiểu Khu, Chi
Khu Chiến) của Pháp tại địa phương.
Sau đó một số Khu Vực mỗi lần
được trao trách nhiệm lại cho Quân Đội
Quốc Gia như những thí điểm. Thời gian
đó, tất cả văn thư, danh xưng c̣n dùng Pháp
ngữ từ État Major Général cho đến S. P (Secteur
Postal) thay v́ Bộ Tổng Tham Mưu hay K.B.C Trong hoàn
cảnh như vậy nên quân phục, cấp hiệu,
phù hiệu...tương tự như quân đội Pháp. Trên
toàn lănh thổ có 4 Quân Khu: Đệ
Nhất Quân Khu (miền Nam). Đệ Nhị (miền
Trung). Đệ Tam (miền Bắc). Đệ Tứ (Hoàng
Triều Cương Thổ/Sơn Cước).
Lực lượng chính yếu gồm các Tiểu Đoàn
B.V.N (Bataillon Vietnamien), Tiểu Đoàn Nhảy Dù...Bên
cạnh, chánh quyền địa phương cấp
Phần, đứng đầu bởi Vị Thủ
Hiến có tư cách pháp nhân riêng, ngạnh sách riêng,
quân đội riêng như Bảo Chính Đoàn (Bắc).
Việt Binh Đoàn (Trung), Vệ Binh Hàng Tỉnh (Nam),
Vệ Binh Sơn Cước, Ngự Lâm Quân và những
lực lượng giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh
Xuyên... QUÂN
PHỤC Quân
phục gồm lễ phục, quân phục làm việc,
ra phố và chiến phục. Vào những năm đầu,
quân phục chưa quy củ, luộm thuộm v́ ngay
cả quân phục quân đội Pháp cũng không hơn.
Nhiều Quân Nhân mặc chenise vàng, quần trận
(loại có túi rộng ngang đầu gối). Đến
khi Quân
Đội Quốc Gia chính thức thành lập (giữa
1950, thời Thủ Tướng Trần Văn Hữu và
Tổng Trưởng Quốc Pḥng Phan Huy Quát), quân
phục mới được quy định tề
chỉnh hơn. Lễ
phục Sĩ Quan ngoài màu trắng, có màu xanh đậm
(mùa lạnh), mũ casquette. Lễ phục màu nào th́
phần trên mũ phù hợp theo (trắng, xanh không
kể màu đỏ dành cho Hiến Binh). Quân phục làm
việc tại các Pḥng, Sở, ra khỏi Doanh Trại
(số 2) ‘’gabardine’’ hay ka-ki. ‘’béreto’’ cùng màu
vàng xám (trừ Nhảy Dù đỏ, Thiết Giáp đen).
Khi hành quân đều mặc đồ trận (treillis)
màu xanh ‘’olive’’ riêng Nhẩy Dù thêm áo sô (saut) trông
rất oai hùng. Tới
thời Đệ Nhất Cộng Ḥa Đại Lễ
Phục Sĩ Quan rất chỉnh tề, áo trắng dài,
cổ cao cúc (nút) vàng, thắt lưng đen
‘’casquett’’ trắng, quần sậm, có sọc như
các Quân Trường, có cả dạ phục. C̣n
Tiểu Lễ Quân Phục số 2 màu vàng, chiến
phục gọn ghẽ hơn xưa. Nhớ
lại sau Hiệp định đ́nh chiến 1954, Quân
Nhân ra Phố mặc đồ tác chiến sẽ
bị Tuần Cảnh bắt giữ ngay. Nhưng
thời gian sau, chiến tranh trở lại, quân phục
vàng lần lần vắng bóng ngoại trừ Sinh Viên
hay Khóa Sinh Quân Trường. Chuyện
trang phục của chúng ta ngày trước có nhiều
điều rất trái mắt do sự tùy tiện
nhất là từ cấp Tướng Lănh. Một Đại
Tướng v́ gốc Dù nên mặc Đại Lễ thay v́
đội casquette, ông vẫn ‘’sính’’ đội
beret đỏ. Một Vị Lănh Đạo Quốc Gia, v́
gốc Phi Công ‘’anh dũng muôn đời’’ nên
cứ diện phi bào với 2 sao để cho Tướng
3, 4 sao phải nghiêm chào. Thêm một Tướng
biệt phái sang Hành Chánh thường mặc đồng
phục bốn túi kiểu cán bộ, gặp Tổng
Thống hay Thủ Tướng lại móc ngay 3 sao trong túi
đeo lên ve áo thoải mái cứ như móc hộp
quẹt zippo. Có một Đô Đốc, quần lại thích
túm (gom) ống trông không giống một ai trong Quân
Chủng...Vẽ lại vài ba h́nh ảnh mục đích
cho bài viết thêm vui thôi v́ thời phong kiến đă
có câu ‘’luật không áp dụng với người
trên’’ nên nhằm nḥ ǵ chuyện nhỏ, các vị tùy
tiện có chi đâu. Riêng
về quân phục, chúng ta phải học ở Quân Đội
Hoa Kỳ ‘’ngoài quy định từ Thống Tướng
tới Binh Sĩ, không ai đeo thừa, mang thiếu
một quy định ǵ so với đồng ngũ
đồng cấp’’. Sự đồng nhất
triệt để tới cả mức gọng kính
cận, đồng hồ đeo tay cũng không khác
nhau. Chắc các Chiến Hữu c̣n nhớ chuyện
một Vị Tướng Hoa Kỳ, ông đă đeo
một huy chương trên đó có thêm ngôi sao nhỏ
bị người chê sai, người bên vực đúng
nhưng ông vẫn tự sát v́ sự kiện này. Tất
nhiên quy tắc nào cũng có ngoại lệ hay linh động
v́ mục đích chung nào đó. Chẳng hạn trên
chiến phục ngay cấp hiệu cũng phải mang cách
thức ngụy trang, nhưng trong dịp Quốc Khánh,
kỷ niệm Quân Lực...các Đơn Vị mặc
chiến phục diễn hành vẫn theo đầy đủ
cấp hiệu, dây biểu chương, huy chương
tḥng...để thêm oai dũng khác ngày thường. Khi
mới thành lập, chúng ta c̣n đi giầy đinh (có
đinh ở dưới) gọi giầy ‘’săng
đá’’ (do chữ Pháp Soldat-Quân Nhân), bước
đi gây tiếng cồm cộp. Những toán hầu
kỳ, chào kính c̣n mang ghệt (guêtre) trắng bằng
da hay vải bố để túm ông quần lại cho
gọn, đẹp. Hành quân dùng giầy bố. Sau này dùng
giấy sô (botte de saut) cột dây, có nhiều loại khác
nhau. Những Quân Nhân nào diện c̣n cắt ống
giầy gắn fermeture, nhưng khi đổi giầy có
thể bị phạt v́ làm hư quân trang. Giống như
một Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng v́
nhu cầu an ninh đă sơn xe jeep mầu dân sự, khi
đổi xe đă phải phạt và đền
tiền sơn lại như màu nguyên thủy. Những
năm sau này, thêm nhiều Quân Binh Chủng được
thành lập nên ngoài chiến phục của Bộ Binh
có nhiều kiểu và màu sắc đặc thù riêng
rất oai hùng như phi bào (Không Quân) quân phục
trắng (Hải Quân) Dù, Thủy Quân Lục Chiến,
Biệt Động Quân...Đây cũng là một trong
những nét khác biệt của từng màu cờ
sắc áo. Sau 1975 trong tù cải tạo, anh em chúng ta
nhiều khi vẫn được mặc hoặc chính
việt cộng phát quân phục của chúng ta nhưng
bắt phá bỏ túi, thay đổi kiểu nhưng
tuyệt nhiên không cho mặc hay phát các đồ bông.
Sau này mới hiểu chúng vẫn rất rét, bị ám
ảnh khi thấy h́nh bóng các thiên thần mũ đỏ,
cọp biển...chẳng khác nào theo Bảo Ninh trong
Nỗi Buồn Chiến Tranh ‘’nhiều cán binh
sống sót về lại miền Bắc không dám đứng
dưới quạt trần v́ c̣n ngỡ cánh quạt
trực thăng săn đuổi’’. Ngoài
ra mũ của chúng ta cũng thay đổi rất
nhiều. Xưa kia mũ ‘’béret’’ ka ki vải
rất rộng (miền Bắc gọi là mũ bánh
đa), hoặc đen, phía gáy có tua vàng đỏ. Mũ
‘’calot’’ xám, đen trên đỉnh xẻ đôi có
hai màu xanh đỏ lớn hơn Không Quân. Mùa nắng
đội chapeau de brousse mũ vải cứng
rộng vành (hơi giống Quân Nhân Úc) một bên vành
mũ bấm gọn lên để khỏi vướng
khi vác súng. Sang thời Cộng Ḥa ‘’béret’’ xám
đội theo quân phục số 2. Trên mũ có huy
hiệu tṛn khác màu tùy mỗi hàng Binh Sĩ, Hạ Sĩ
Quan, Sĩ Quan. Sau đảo chính 1963, thường
mặc ‘’tréllis’’ nên mũ vải lúc đầu
cứng (như képi) sau như ‘’casquette’’ có múi,
nhiều Tướng Tá ‘’làm dáng’’ tay mũ cũng
gắn nhành dương liễu như casquette đại
lễ. Mũ sắt hai lớp dù nặng nhưng
rất an toàn, có lưới gài lá ngụy trang nhưng
lại dễ bị vướng, móc. Bao bằng vải
rằn ri hay vẽ lên như Biệt Động Quân cũng
tiện. Bảng
tên được gắn liền trên chiến phục
hay đeo bên nắp túi áo phải quân phục số 2
không kể cấp hiệu, phù hiệu được
mang đầy đủ trên quân phục như sẽ
đề cấp phần sau. Chỉ riêng việc này
đă làm mất tính bí mật quân sự. Địch
dễ dàng nhận diện hay trên xác Tử Sĩ để
lại chiến trường đủ t́nh trạng quân
vụ (Đơn Vị, cấp bậc...) ngoài những cáo
phó, chia buồn góp vui đầy trên báo chí. Ngoài
cổng Doanh Trại ghi đầy đủ hệ
thống thuộc, Đơn Vị đồn trú. Trong khi
việt cộng đến khi chiếm trọn miền
Nam trước cổng chỉ có tấm bảng
‘’doanh trại quân đội nhân dân’’. Như
vậy, bài học vỡ ḷng che dấu, ẩn nấp
để ‘’ta thấy địch, địch không
thấy ta’’ trở thành hài hước. CẤP
HIỆU Cấp
hiệu là quy ước có h́nh thức tuy nhỏ,
đơn giản nhưng biểu lộ quyền
chỉ huy tuyệt đối với thuộc cấp
‘’Huynh đệ chi binh’’ là mối tương quan
trong đời Quân Ngũ, nhưng trong hệ thống
quân giai, chỉ khác một vạch, màu sắc bạc vàng
đủ cho thuộc cấp phải nghiêm cứng người,
đủ để tuân lệnh nhẩy vào lửa
đạn. Từ
khi thành lập Quân Đội Quốc Gia, cấp hiệu
được gọi bằng lono (galon trong Pháp ngữ)
hoàn toàn như quân đội Pháp cho tới thời
Cộng Ḥa được thay thế hơi theo kiểu
Mỹ. Nhiều buổi tổ chức đốt bỏ
cấp hiệu cũ, cùng thời với việc đốt
bỏ những bộ bài, bàn đèn á phiện sách báo
khiêu dâm...Đây là sự kiện thiếu tế nhị
trong chánh sách ngoại giao tiếp theo việc đoạn
giao với Pháp. Trước
đó, hoàn toàn như Pháp nên cấp hiệu đều
dùng vạch vàng thẳng trên ‘’lon’’ Sĩ Quan,
ngoại trừ Thiết Giáp Binh (Kỵ Binh) dùng
vạch trắng. Từ ‘’adjudant’’ (ông Ách) đều
vạch thẳng ngân tuyến, kim tuyến có sợi
chỉ đỏ chạy dọc, ‘’aspirant’’
(Chuẩn Úy) 2 sợi chỉ đen ngang, lên tới
hết cấp Tá vẫn dùng vạch. Tiếng Việt lúc
đó chúng ta thường gọi Quan Một, Quan
Hai...tới Quan Tư, vạch thứ tư cách xa để
phân biệt từ cấp này là Sĩ Quan cao cấp
(Officier Supérieur), dưới đó chỉ là Sĩ Quan
cấp thấp (Officier Subalterne). Trên Quan Tư có khoanh
trắng (Lieutenant Colonel) với 5 vạch (3 vàng 2
trắng) và Quan Năm khoanh vàng (Colonel) 5 vạch đều
vàng. Cấp Tướng mang sao (từ 2 sao trở lên).
Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ mang vạch h́nh chữ V ngược
vàng, đỏ nơi cánh tay. Người
viết không rơ các danh xưng Tá, Úy do ai trong Bộ
Quốc Pḥng hay Tổng Tham Mưu đặt ra, riêng
danh xưng các cấp Hạ Sĩ, Trung Sĩ, Thượng
Sĩ xuất xứ từ Lực Lượng Bảo Chính
Đoàn (Bắc Việt) đặt ra trước cùng lúc
với các Hoa Mai của cấp Sĩ Quan Bảo Chính Đoàn
trong khi Sĩ Quan Chính Quy vẫn c̣n đeo ‘’lon’’ hoàn
toàn như sĩ quan Pháp. Xin được mở
dấu ngoặc nói thêm về cấp hiệu của
Bảo Chính Đoàn. Bảo
Chính Đoàn là lực lượng quân sự cấp
Phần, trực thuộc Thủ Hiến. Ngay khi thành
lập cấp chỉ huy hoàn toàn Việt Nam, không có
một hạ sĩ quan hay sĩ quan Pháp nào. Tư
Lệnh Phó Bảo Chính Đoàn (có lúc gọi là Phó Giám
Đốc) là Đốc Quân Đoàn Chí Khoan (sau này là Đại
Tá, Phụ Tá Tổng Trưởng Phát Triển Sắc
Tộc). Ông Đoàn Chí Khoan có thể coi như người
soạn thảo sơ đồ tổ chức Bảo Chính
Đoàn, tất nhiên có phần quân phục, cấp
hiệu, phù hiệu. Có thể ông được
ảnh hưởng tổ chức Quân Đội Trung Hoa
Quốc Dân Đảng và tổ chức hành chánh nên dùng
các danh xưng Đốc Quân và Phó Đốc Quân cho Sĩ
Quan cấp Tá và Úy. Mỗi cấp có 3 hạng: Phó Đốc
Quân hạng ba, hạng hai và hạng nhất (tương
đương Thiếu, Trung, Đại Úy) và Đốc Quân
cũng có ba hạng. Trên hết là Chánh Đốc Quân (như
cấp Tướng, nhưng chưa có ai được
phong). Tư Lệnh Biệt Chính Đoàn đầu tiên là
Đốc Quân hạng 2 Hoàng Văn Tỷ (sau này là
một trong 6 Đại Tá đầu tiên của Quân Đội
Quốc Gia). Tư Lệnh Phó là Đốc Quân hạng 3
Đoàn Chí Khoan. Giám Đốc Trường Sĩ Quan
Biệt Chính Đoàn là Đốc Quân hạng 3 Linh Quang Viên
(sau thăng Trung Tướng Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa). Đốc
Quân và Phó Đốc Quân đều đeo hoa mai bạc
(hạng 3 một bông...hạng 1 ba bông) nằm ở
vạch ngân tuyến. Cấp Đốc Quân thêm hai sợi
ngân tuyến chạy kèm song song hai bên. Kể
cả hàng Binh (Bảo Chính Viên) trở lên đều
đeo trên vai, nhưng là sợi ngân tuyến, theo h́nh
chữ V. Điểm đặc biệt là danh xưng
Hạ Sĩ, Trung Sĩ và Thượng Sĩ được
đặt ngay thời đó và sau này vẫn c̣n
được dùng. Riêng danh xưng Đốc Quân, Phó Đốc
Quân không được duy tŕ v́ không thuận tiện
(nếu chỉ gọi Đốc Quân sẽ không rơ
cấp bậc, gọi thêm hạng lại quá nhiêu kê). Nhân
đây, xin nói về truyền thống, ư nghĩa
cấp hiệu. Từ xưa có 3 Quân Binh Chủng đeo
cấp hiệu theo truyền thống quốc tế v́
thường có tầm hoạt động ngoài lănh
thổ, phải theo nhiều luật lệ hàng hải,
hàng không gồm Hải Quân, Không Quân, Thiết Giáp Binh
và Lực Lượng Cảnh Sát. Không hiểu lư do nào,
khi quy định lại cấp hiệu theo kiểu
Mỹ chỉ riêng Hải Quân được giữ
lại. Trái lại Cảnh Sát đổi cấp
hiệu theo như Quân Đội. Trước đây Ngành
Cảnh Sát đă có tổ chức quy củ với
những ngạch trật như Thanh Tra, Quận Trưởng,
Biên Tập Viên, Chánh Phó Thẩm Sát Viên...đến
khi Tướng Phong sang chỉ huy, mang theo rất
nhiều Sĩ Quan và có lẽ tiện việc sắp
đặt chức vụ, đă dùng theo cấp bậc
Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, bỏ quy chế,
cấp hiệu cũ, không quan tâm đến
thời gian huấn luyện, thâm niên công vụ.
Một Biên Tập Viên cùng tŕnh độ văn hóa và
thời gian thụ huấn như một Chuẩn Úy
Bộ Binh nhưng khi tốt nghiệp mang ngay cấp Đại
Úy Cảnh Sát Quốc Gia. Ngoài ra dù mang cấp bậc
như Quân Đội. Cảnh Sát Quốc Gia cũng không có
thẩm quyền ǵ với Quân Nhân lại tạo cho dư
luận, cộng sản dễ chỉ trích quân
phiện, cảnh sát trị trong khi chính bộ máy ḱm
kẹp, phá hoại của việt cộng có tới
cấp bộ công an. Sau
năm 1955, trước khi cấp hiệu các lực lượng
quân sự địa phương chính quy hóa. Bảo An
Đoàn mang cấp hiệu riêng như Bảo Chính Đoàn trước
kia. V́ thiếu thống nhất nên dễ ngộ
nhận nhất là khi xuất ngoại. Thiếu Úy
Bảo An đeo bông hoa thị bạc 6 cánh, trong vừa
giống hoa mai, vừa giống sao, lại thêm hai nhành lúa
ôm hai bên trông như hai nhánh thiên tuế. Khi du
học, du hành quan sát Sĩ Quan Đồng Minh kể
cả cấp Tá cũng như Huấn Luyện Viên,
một điều Yes Sir hai điều cũng yes, General
với Thiếu Úy và c̣n chào kính túi bụi v́ nghĩ
thầm ít ǵ cũng Chuẩn...Tướng. Trở
lại cấp hiệu Sĩ Quan thời Đệ Nhất
Cộng Ḥa, cấp Tá mang mai bạc lớn hơn, Úy
mang mai vàng, nhưng từ xa khó nhận ra, nên sau này thêm
hàng lá thiên tuế kèm theo mai bạc cấp Tá. Cũng
từ thời Tướng Nguyễn Khánh, lập thêm
cấp Chuẩn Tướng (một sao) v́ muốn cho
Hội Đồng Tướng Lănh đông hơn,
nhiều hậu thuẫn, tạo thành lớp ‘’Tướng
trẻ’’ dễ dàng khống chế lớp ‘’Tướng
không trẻ’’ hoặc để áp lực cho đi
‘’Đại Sứ’’. Đó là thời ‘’Loạn Tướng’’.
Đề cập đến loạn Tướng thiết
nghĩ phải nói đến quy chế Tướng Lănh
một cách đúng truyền thống quốc tế. Khi
đă bước lên hàng Tướng, cấp bậc có
tính cách trọn đời ngay cả khi đă bỏ
binh quyền, đời quân ngũ. V́ vậy không có
thể gọi là Cựu Trung Tướng, Cựu
Thiếu Tướng...mà là Trung Tướng Nguyễn Văn
Thiệu, Cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa...
Hoặc khi họ đáo hạn tuổi giải ngũ,
dời bỏ binh quyền cũng vẫn dùng cấp
bậc Tướng Lănh, chỉ thêm chữ hồi hưu
như General Westmoreland (Ret). Quân Đội vẫn phải
đăi ngộ Tướng Lănh với đầy đủ
quy chế, nghi lễ, lương bổng, quân
phục, cấp hiệu, Tướng Kỳ, Tùy Viên,
Hộ Tống, chào kính...ngoại trừ binh quyền. Ngoài
ra tưởng cũng nên nhắc đến một
số cấp hiệu, phù hiệu của các Lực Lượng
Đồng Minh tham chiến tại Việt Nam trước
kia. Ngoài những ǵ theo truyền thống quốc
tế như mỏ neo với Hải Quân, cánh bay Không
Quân, chữ thập Quân Y...có những đặc thù riêng
như Khối Liên Hiệp Anh (Úc, Tân Tây Lan...) với Vương
miện (Crown). Tháiland trọng bảo tháp (Phật) dành
cho hàng Tướng, sao cho cấp Tá, Úy. Nhiều
người khen quân phục Hoa Kỳ đẹp, quy
củ nhưng cấp hiệu không ư nghĩa. Thật ra
Hoa Kỳ lấy biểu hiệu từ thấp lên cao,
cấp Thiếu và Trung Úy đeo vạch vàng, trắng và
Đại Úy 2 vạch trắng là kim loại c̣n nằm sâu
dưới đất. Lên cấp Tá trên cao hơn
với lá vàng, trắng. Đại Tá đeo h́nh chim
đại bàng, tung cánh trời cao, đầu đàn...(thường
dùng danh hiệu đại bàng) Ngôi sao sáng hàng Tướng
Lănh mang biểu hiệu cao tột đỉnh, dẫn
đạo chỉ huy. Ngược
lại thời gian mang cấp hiệu theo kiểu Pháp
kể cả lúc sau này, cấp hiệu đeo trong đại
lễ phải đầy đủ, tiểu lễ và thường
ngày đeo giản lược trên vai áo. Hàng Trung Sĩ
trở xuống đeo h́nh chữ V ngược nơi
tay áo. Có tài liệu cho đó là tượng trưng
cấp chỉ huy gánh vác trọng trách (Sĩ Quan,
Hạ Sĩ Quan cao cấp), c̣n hàng Hạ Sĩ Quan
cấp thấp tuy chỉ huy nhưng thẩm quyền
nhỏ hẹp. Cấp hiệu thời đó không đeo
trên ve áo như sau này, trái lại quân đội Pháp c̣n
quy định những Tướng lănh cao cấp
lại được phong thêm các cấp hiệu Binh
Nhất, Hạ Sĩ, Trung Sĩ danh dự mang trên ve áo
hay tay áo. Như Đại Tướng De Latter, được
đeo thêm cấp Hạ Sĩ Nhất danh dự. Trung Tướng
Cogny thêm cấp Hạ Sĩ. Đây là quy định chính
thức như chức Huyện, Phủ Hàm thời trước,
không như cách vui chơi khi có người gọi
một ca sĩ là Hạ Sĩ danh dự. Chúng ta có
một danh từ chỉ chức vụ rất đặc
thù là chức Tư Lệnh cho cấp chỉ huy các Đại
Đơn Vị (commandant en chef/commander in chief) thay v́
Chỉ Huy Trưởng. Nguyên nghĩa ‘’Tư
Lệnh’’ nói lên sự toàn quyền ban phát lệnh
thay v́ chỉ chuyển lệnh từ cấp trên
xuống như cấp Chỉ Huy Trưởng. HUY
HIỆU HUY CHƯƠNG Huy
hiệu, phù hiệu mang trên quân phục chỉ rơ Đơn
Vị trực thuộc. Nhiều khi c̣n dùng thêm khăn
quàng trong các buổi lễ để rực rỡ cho
mầu cờ sắc áo, hoặc các ‘’nơ’’ màu
để dễ nhận bạn. Thời
phôi thai, Quân Đội mới có đến cấp
Tiểu Đoàn, nên phù hiệu đeo dưới nắp túi
ngực phải, bằng kim loại chế tạo
từ Pháp. Ngoài ra c̣n được làm nhỏ để
gắn trên bút nịt, vật dụng tùy thân (hộp
quẹt, hộp thuốc...). Các Quân Trường Vơ Khoa
Thủ Đức, Liên Quân Đà Lạt...cũng có phù
hiệu riêng, nhiều khi đeo ngay trên cầu vai (épaulette).
Sau này khi thành lập được các Đại Đơn
Vị, Binh Chủng...phù hiệu vải đeo cánh tay trái
trên cao, đằng trước ngực dành đeo phù
hiệu Đơn Vị nhỏ. Trên quân phục, chúng ta c̣n
đeo thêm các bằng chuyên môn...như bằng Rừng
Núi Śnh Lầy, bằng Dù, cánh Bay... Quân
Đội có nhiều h́nh thức tuyên dương, ban thưởng
cho toàn Đơn Vị, cá nhân như các dây biểu chương,
huy chương. Trước kia, chúng ta chỉ có Croix de
guerre, Médaille d’honneur...của Pháp, nhiều loại
được lănh phụ cấp hàng tam cá nguyệt.
Sang thời chính thể Quốc Gia, Quốc Trưởng
ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương là huy chương
cao trọng nhất với 5 hạng, trên mặt Bảo
Quốc chạm nổi hàng chữ Tổ Quốc Tri Ân.
Thể thức cấp thưởng rất khó khăn
đ̣i hỏi những chiến công hiển hách, thành tích
lớn lao đối với Tổ Quốc, Dân Tộc.
Nghi thức trao gắn rất long trọng, Quân Nhạc
cử điệp khúc Quốc Thiều, người
được ân thưởng tay nâng Huân Chương
để Nguyên Thủ Quốc Gia chào kính. Nếu
phạm trọng tội, trước khi truy tố
phải có sắc lệnh thu hồi. Nếu khinh tội
có thể được miễn tố hoặc giảm
khinh. Đối với hạng nhất, nếu tôi nhớ
không lầm chỉ có 3 người sinh thời
được ban thưởng là Bảo Long, Hoàng Thái
Tử kiêm Tư Lệnh Danh Dự Ngự Lâm Quân.
Kế là Đại Tướng De Latter, Cao ủy kiêm
Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp
tại Đông Dương, nhờ chiến thắng Vĩnh
Phúc Yên 1951. Sau này Thống Tướng Lê Văn Tỵ
khi gần mất mới được phong Thống Tướng
và ân thưởng Đệ Nhị Đẳng. Đại Tướng
Đỗ Cao Trí chỉ được truy thăng Đại
Tướng và truy tặng Đệ Nhất Đẳng sau
khi tử trận. Anh Dũng Bội Tinh, chạm chữ
Quốc Gia Lao Tường với Nhành Dương
Liễu và sao vàng, bạc, đồng do sự khác
biệt giữa Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ
về chiến công và phạm vi tuyên dương trước
Quân Đội hay chỉ trước cấp Lữ Đoàn, Sư
Đoàn. Ngoài
ra, sau này cùng với sự lớn mạnh của Quân
Đội, chiến trận gia tăng rất nhiều huy
chương thuộc các Quân Binh Chủng được
ban thưởng. Quân Công, Quân Phong, Quân Vụ Bội
Tinh, Lục Quân Huân Chương, Hải Vụ, Phi
Vụ, Chiến Thương...chưa kể huy chương
của nhiều Quốc Gia, Quân Lực Đồng Minh cũng
trao tặng. Riêng
về dây biểu chương có ba hạng mang tên màu:Anh
Dũng, Quân Công, Bảo Quốc và trên hết là dây
biểu chương màu tam hợp đ̣i hỏi toàn
thể Đại Đơn Vị phải lập chiến công
và ít nhất phải được tuyên dương công
trạng cấp Quân Đội từ ba lần trở lên. Huy
chương khi được ban thưởng, ngoài văn
thư có một bằng treo, không kể huy chương
(tḥng, ngắn). Khi mang huy chương cũng phải tuân
theo các cách thức quy định. Huy chương cao hơn
phải đeo từ trong phía ngực trái ra ngoài, hàng
trên xuống dưới. Riêng Bảo Quốc Huân Chương
Đệ Ngũ và Đệ Tứ Đẳng dù thấp
nhất trong Bảo Quốc nhưng cũng phải
xếp trên cùng. Đệ Tam đeo dây ṿng qua cổ, Đệ
Nhị một bên cạnh sườn và Đệ Nhất
vắt ngang vai. Trong Tiểu Lễ, huy chương mang dưới
dạng đơn giản (chỉ có phần cuống). Với
dạ phục mang huy chương tḥng nhưng thu
nhỏ. Các dây biểu chương cũng thu lại
bằng như một huy chương ngắn, đóng
khung vàng, đeo riêng trên cùng. Ngoài ra trên Quân Kỳ các
Quân Binh Chủng, Đại Đơn Vị, cũng sẽ
gắn các dây biểu chương và huy chương
đă được ban thưởng. Với
huy chương của các Quốc Gia Đồng Minh,
phải có sự chấp thuận trước hoặc
phải được hợp thức, Quân Nhân
đương sự mới được mang. Các
cấp hiệu, huy hiệu, phù hiệu...v́ không
được tuyển chọn kỹ lưỡng nên
thường hay thay đổi, gây tốn kém cho Quân Nhân,
chỉ có lợi cho các nhà sản xuất, buôn bán như
Phước Hùng, An Thành. NGHI
THỨC CHÀO KÍNH Nhập
ngũ bài học đầu tiên là cấp hiệu và chào
kính. Có nhiều cách thức chào kính như: Chào tay, chào
súng, gươm và nhiều cách khác tùy điều
kiện, hoàn cảnh và cũng thay đổi theo
thời gian. Theo
một số tài liệu, chào tay phát xuất từ xa xưa
ở Tây Phương. Khi gặp Vua Chúa, Quan
quyền, thần dân thuộc hạ phải dơ tay
phải lên che mắt để không được
thấy, cùng bày tỏ cung kính và tay không vơ khí. Cách
thức này chẳng khác sự phủ phục trước
Thiên Tử ở Đông Phương. Đến
giữa thập niên 50, số Sĩ Quan cũng c̣n
rất ít. Ngay tại Bộ Tổng Tham Mưu, một
Thiếu Úy ra vào cổng chính, Lính gác đă phải
đứng nghiêm, Từ Trung Úy phải chào súng.
Nếu nhiều như sau này, chắc Binh Sĩ không
đủ thời gian đem súng xuống. Tại các Đơn
Vị, từ cấp Đại Đội Trưởng
(Thiếu hoặc Trung Úy) mỗi khi ra vào cổng, Toán
Binh Sĩ trực đă phải dàn chào dưới
sự chỉ huy của Đốc Canh. Thời
trước, Binh Sĩ chào súng theo kiểu Pháp, súng
dọc thân ḿnh phía phải, tay phải đỡ đế
súng, bàn tay trái khép để trước súng, ḷng bàn
tay úp xuống mặt đất. Với tiểu liên, ṇng
súng quay sang trái. Riêng Bảo Chính Đoàn, súng vác vai, tay
trái đặt ngang báng. Sau này cơ bản thao diễn
theo kiểu Mỹ, súng để trước, giữa
thân ḿnh. Với Garant M1, biểu xích ngang thắt lưng.
M16 loa che lửa ngang tầm mắt. Nếu mang vai tay trái
giữ dây súng, tay phải chào tay. Diễn hành súng vác
th́ bộ máy c̣ sát vai (ngược lại kiểu xưa
ngửa lên trời), mặt ngước về Thượng
cấp. Trước kia khi gặp cấp trên, nếu hai
tay mang xách hoặc ngồi xe hai bánh, thuộc cấp chào
kính bằng cách ‘’hất mặt’’ về cấp
chỉ huy. Vào Câu Lạc Bộ, nhà ăn, chào tay
một lần, bỏ
mũ,
sau đó dù tŕnh diện cấp trên cũng chỉ
đứng nghiêm (không chào nữa). Khi
Sĩ Quan vào pḥng, Quân Nhân cao cấp nhất thấy trước
sẽ hô ‘’phắc’’ hay ‘’vào hàng phắc’’
đối với từ cấp Trung Tá (Đơn
Vị Trưởng) trở lên. Khi Thượng cấp
rời khỏi pḥng chỉ hô ‘’nghiêm’’. Khi hô
‘’vào hàng phắc’’ đúng ra, ai phải về
vị trí nấy (xạ thủ về trước súng,
âm thoại về trước máy...). Nhân
đây xin kể lại chuyện một lần chào
kiếm trong Lễ măn khóa của Sinh Viên Thủ Đức
dưới sự chủ tọa của Quốc Trưởng
Phan Khắc Sửu. Như thông lệ, Thủ Khoa sau khi
hô động lệnh chào súng cho toàn Khóa xong, đàng
sau quay rồi tuốt gươm chào. Bài bải chỉ
đúng có vậy. Không ngờ Quốc Trưởng
chắc thấy buổi lễ diễn ra quá đẹp
dưới mắt Cụ, Nhà Lănh Đạo gốc dân
sự, chưa quen Lễ Nghi Quân Cách nên bước ngay
xuống, dơ tay bắt tay Sinh Viên Thủ Khoa. Phần
này không dự liệu nên anh Thủ Khoa hốt
hoảng vă mồ hôi, nhất là nh́n tay Quốc Trưởng
đă đưa ra. Anh không biết xử trí ra sao,
hấp tấp, chuyển kiếm sang tay trái, lấy tay
phải đón bắt tay Quốc Trưởng, trong khi
tay trái cầm kiếm quờ quạng. Sau buổi
lễ anh được lănh ngay lệnh phạt gia tăng
từ Đại Đội Trưởng lên tới Tướng
Chỉ Huy Trưởng với lư do ‘’chào kính Nguyên
Thủ sai quy cách’’ (phải tra kiếm vào bao rồi
mới được bắt tay). Chuyện
sau không diễn ra một lần mà tái diễn hoặc
tùy tiện mỗi người. Nhiều Sĩ Quan cao
cấp khi được biệt phái sang chỉ huy
Tỉnh, Quận vào những dịp cúng tế tại
Đ́nh Miếu đă rất lúng túng hoặc hành xử
sai quy cách. Có ông đứng vái, có ông lại lên
gối, xuống gối trong bộ quân phục đầy
huy chương, biểu chương...có ông tránh tham
dự để khỏi ngượng ngùng. Người
viết thường được hỏi về thái
độ thích nghi và đă cố giải thích: ‘’Với
Quân Nhân cao trọng nhất là Tổ Quốc, qua
biểu tượng Quốc Kỳ, chúng ta cũng
chỉ chào theo Quân Cách.
Quân Đội không dự trù có trường hợp Quân
Nhân giữ nhiệm vụ hành chánh phải đến
nơi tôn nghiêm. Các Sĩ Quan Tỉnh, Quận Trưởng,
cho dù với tư cách Thượng Khách, khi được
mời lên chiêm bái, chỉ
cần đứng thế nghiêm là đủ
(không bái lậy, khoanh tay, chắp tay v́ các động
tác này không hề có theo Quân Cách). Việc cử hành
lễ là hoàn toàn là quyền hạn và trách nhiệm
của Ban Hương Chức. Nếu
muốn bày tỏ cung cách nào khác hơn, hăy mặc thường
hay quốc phục’’.
Không biết các ư kiến Niên Trưởng ra sao? (Đúng!) Chuyện
về quân phục, cấp hiệu, huy hiệu...rất
dài, phức tạp. Đủ thẩm quyền, phương
tiện phải là Bộ Quốc Pḥng, Tổng Tham Mưu
hay toàn thể Chiến Hữu chứ đâu phải do
một anh Lính ‘’tốt đen’’. Tuy vậy, đă
là Lính từng biết hô lớn câu ‘’tan hàng, cố
gắng’’ nên cuộc đời ‘’cố
gắng’’ đă quen, chẳng ngại ngần hay
dở, đúng sai cứ miệt mài ngồi bên bàn máy. Nh́n
lại quân phục, cấp hiệu, phù hiệu hay nói
rộng hơn chiến lược, chiến thuật
của ta suốt 25 năm ảnh hưởng Pháp
rồi đến Hoa Kỳ. Điều này sao tránh v́ chúng
ta phải nhận viện trợ, yểm trợ của
Đồng Minh trong cuộc chiến tự vệ, sinh
tồn. Ngày
mai, khi chủ quyền, đất nước về
lại nhân dân qua đấu tranh th́ mọi điều
lớn nhỏ hoàn toàn do ta. Chỉ riêng chuyện quân
phục, cấp hiệu, phù hiệu...chẳng theo
kiểu Tây kiểu Mỹ mà do ḿnh chọn từ
chiến công, h́nh ảnh ngàn năm giữ nước.
Nào cọc sắt Bạch Đằng, mũi khoan Yết Kiêu
(Hải Quân, Người Nhái), ngựa sắt Phù Đổng
(Thiết Kỵ), ḷ đúc Cao Thắng (Quân Cụ),
nỏ thần An Dương Vương (Pháo Binh), Loa Thành
(Công Binh), lá khô thấm mật Nguyễn Trăi (Tâm Lư
Chiến)...kể sao cho hết. Người
viết, một Khinh Binh Việt Nam Cộng Ḥa, trong tư
thế nghiêm chào tay. Chào Quốc Kỳ tượng trưng
cho Tổ Quốc, chào Quân Kỳ, cấp hiệu, phù
hiệu, huy chương tượng trưng cho Quân Đội.
Kính cẩn nghiêng ḿnh trước Anh Linh Anh Hùng
Liệt Sĩ, Chiến Hữu đă hy sinh. Sau cùng, tay nâng
bài viết trân trọng trao đến Chiến Hữu,
Độc Giả. Nguyễn Đ́nh Phúc
*** Xin kính gửi vài trang trong sách để quư vị xem. Michael Đỗ Michael Do (Do Van Phuc)
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]()
|