Chuyện
vượt biên: VƯỢT BIÊN BẰNG BÈ
|
|||
Quê
tôi thuộc xă B́nh Phú – Huyện B́nh Khê, tỉnh B́nh
Định (nay là Huyện Tây Sơn, nơi xuất
phát của 3 anh em Tây Sơn – Nguyễn Huệ).
Mẹ tôi họ Bùi thuộc ḍng dơi Bùi Đắc
Tuyên, Bùi Thị Xuân. Trong khoảng từ 1945 – 1954
gia đ́nh tôi sống trong vùng Việt Minh, bị chúng
ghép vào thành phần địa chủ. Cha mẹ tôi
bị chúng đấu tố rất khổ nhục,
cho nên trước năm 1975 thỉnh thoảng tôi
về thăm nhà, mẹ tôi thường dặn “nếu
VC mà vào th́ con ở đâu được cứ
ở, đừng về đây. Nếu con về
đây thấy tụi nó làm nhiều điều chướng
tai gai mắt, con nhịn không được, căi
lại nó th́ nó sẽ giết con chết”.
Cho
nên sau 30-4 bằng mọi giá tôi phải bám trụ
lại Sài G̣n, không về quê và khi ra phường
xin giấy tạm trú tôi khai sụt cấp bậc. V́
vậy tôi chỉ “học tập” ở rạp
Đại Lợi (gần chợ Ông Tạ) 3 ngày.
Sau đó tôi buôn bán qua quít sống qua ngày. Cực
khổ th́ đă đành, nhưng ngày nào cũng
phải nh́n những khẩu hiệu chướng
mắt, không thật và tai th́ phải nghe mấy cái
loa tuyên truyền láo khoét tôi không chịu được.
Tôi thường nói với những người thân “giả
sử VC cho tôi một ṭa biệt thự, xe cộ
tiền bạc xài thả cửa suốt đời,
tôi cũng không thèm sống với VC” v́ nó
nói láo qúa. Chẳng hạn, nhà máy hay ruộng đất
của người ta nó bắt ép người ta
phải “hiến” cho nó mà nó cứ nói là người
ta tự nguyện hiến cho Nhà nước. Trên
đời này có ai mà tự nguyện đưa
hết của cải ḿnh cho nó bao giờ. Cho nên tôi
t́m mọi cách để vượt biên. Từ 1976
đến cuối năm 1978, tôi tổ chức
rất nhiều lần đều thất bại. Lư
do là tôi không tin tưởng mấy ông chủ ghe.
Thứ hai, tôi là Hải Quân nên rất khó lân la
tới các xóm chài lưới để móc nối.
Đến đầu năm 1979, có người
biết tôi là Sĩ quan Hải Quân và giới
thiệu tôi về Qui Nhơn để lái chiếc tàu
đăng kư bán chính thức. Tôi về ở đó
3 tháng để coi sửa chữa 2 chiếc tàu. Tôi
lái một chiếc và một ông Trung Úy ở Sài G̣n
ra lái một chiếc. Tất cả mọi việc
chuẩn bị đă xong th́ th́nh ĺnh ngày 20-7-1979, sáu
mươi nước trên thế giới họp
ở Geneve về vấn đề người
tỵ nạn Việt Nam ra đi qúa nhiều làm cho các
nước Đông Nam Á khốn đốn. VC đi
dự họp, chúng hứa là từ nay sẽ không
cho một người Việt Nam nào rời khỏi
nước, thế là từ đó VC ngưng chương
tŕnh bán chính thức. Ngày 5-9-1979 tôi phải dẫn
các con trở vào Sài G̣n để đi học
lại.
Hàng
ngày, sau khi sắp nhỏ đi học tôi nằm nhà
một ḿnh như muốn điên. Tôi chịu không
nổi nữa. Một hôm tôi bàn với vợ tôi là
tôi sẽ đi t́m mua 1 chiếc xuồng cao su mà trước
đây người nhái thường dùng để
đi phục kích (loại này ở Úc cũng thường
thấy). Thế là tôi đi dạo các chợ
trời để t́m mua, nhưng không có ai bán.
Về nhà tôi suy nghĩ “nếu người ta có,
người ta cũng không bán cho ḿnh. Và nếu
họ bán tôi cũng không đủ tiền mua”, (v́
lúc đó tôi chỉ c̣n vỏn vẹn 1 cây vàng).
Thế là từ h́nh ảnh chiếc xuồng cao su, tôi
mới phác họa ra chiếc bè. Ḿnh không có
xuồng th́ tại sao ḿnh không lấy nhiều cái
ruột xe ráp lại thành cái bè? Tôi đem ư nghĩ
này bàn với vợ tôi và trấn an vợ tôi
rằng “nếu
ḿnh đi bằng ghe, th́ có thể bị ch́m và
chết, c̣n cái bè, tuy lạnh lẽo khổ cực
nhưng không bao giờ ch́m”. Vợ tôi cũng
tin tưởng vào tôi, nói “vậy
được đó, làm đi”.
Đó
chỉ là cái ư đại cương vậy thôi. Tôi
bảo để tôi tính chi tiết lại đă. Ngày
hôm sau, tôi ra chỗ vá xe đạp ở lề
đường, tôi đo đường kính trong và
ngoài của cái ruột xe tải 900-20. Tính ra,
một cái ruột xe tải bơm cứng có thể
chở được 150kg. Tất cả gia đ́nh
tôi, 2 vợ chồng 4 đứa con, 2 đứa em và
1 đứa cháu + lương thực + nước
uống + khung sườn, tất cả độ
750kg (tôi cần 2 đứa em và đứa cháu
để phụ tôi bơm ruột xe và để bơi
ra khỏi bờ, v́ sóng ở gần bờ cứ
dập vào rất khó bơi ra). Như vậy nếu
tôi ráp được 9 cái ruột xe (1350kg) th́
tốt hơn. Nhưng nếu ráp 9 cái ruột xe th́
khung sườn bằng gỗ dài qúa (5,3m) dễ
bị gẫy. Nên cuối cùng tôi quyết định
ráp 7 cái (1050kg). Khi bỏ bè xuống nước
phần nổi độ 10cm. Thế là tôi lấy
giấy bút ra vẽ chi tiết cái bè (tôi đậu
tú tài Kỹ Thuật, nên biết vẽ Kỹ
Nghệ Họa). Xong tôi ghi ra 2 tờ giấy, vợ
tôi giữ 1 tờ và đạp xe đi mua cốm
dẹp, đường, dây nylon, can nhựa, poncho v.v…
C̣n tôi đi mua gỗ và t́m thợ mộc để
làm cái khung sườn + ruột xe. Tôi nhớ hoài nét
mặt của ông thợ mộc khi tôi đưa
tấm sơ đồ, ổng cứ nh́n ngang nh́n
dọc, ổng không hiểu cái đó là cái ǵ?
Riêng 4 cái mái chèo tôi chỉ nhờ ổng làm phần A. C̣n phần B tôi mua một tấm ván mỏng dày 1 phân rồi lấy dao tự đẽo. Khi ra tới băi tôi chỉ việc lấy phần A và B ráp với nhau rồi đóng 2 cây đinh là xong. Chứ nếu để cho ông thợ mộc làm cả phần A và B th́ ổng sẽ biết đó là cái mái chèo. Riêng hai cái khung sườn tôi đánh số bằng sơn trắng từ A1, A2 đến A11 và B1, B2 đến B11 và bó lại thành 2 bó. Công an lên xét xe, tụi nó chẳng biết đó là cái ǵ?
Trước
khi đi, tôi dự kiến là bè có thể bị
lật, nên ngoài tôi và 3 đứa em (14, 16 và 19
tuổi) biết bơi, vợ và 4 con tôi phải mang
phao và tất cả đều có dây dù cột dính
vào bè (dây dài 2m để di chuyển trên bè). Nhưng
làm sao có phao để mang? Tôi phải dùng can
nhựa, 4 đứa nhỏ th́ một cái 5 lít ngay
trước ngực và một cái 5 lít ngay sau ót, c̣n
vợ tôi th́ can 10 lít. Đó là dự kiến như
vậy, nhưng thực tế tôi đi trong cơn băo
2 ngày 2 đêm không lật một lần nào. Lư do là
bè rất thấp (1 tấc) cho nên trọng tâm
của bè không thể lọt ra ngoài chân đế,
nên không bị lật.
Tất
cả những sự chuẩn bị này, đối
với tôi không có ǵ là khó khăn cả. Chỉ có
một điều khó khăn nhất cho tôi là làm
sao di chuyển số đồ đạc này ra băi
biển Cà Ná (gần Phan Rang). Chỉ riêng điều
này không thôi cũng làm tôi tính toán nát óc. Chuyện
là như thế này:
Đúng
ra tôi phải chọn băi Bạc Liêu, Cà Mau hay Vũng
Tàu là tốt nhất v́ tháng 10 là mùa gió Bấc, bè
sẽ trôi vào hướng Nam, cho nên nếu chọn
băi càng vào phía Nam càng tốt. Nhưng ngặt
nỗi những nơi vừa kể tôi không quen ai
gần bờ biển cả. Cho nên cuối cùng tôi
phải chọn băi Cà Ná, v́ băi Cà Ná có đường
Quốc Lộ 1 chạy sát mé biển. Nhưng cái khó
khăn là tại băi biển này không có nhà dân, không
có suối, nghĩa là không có nước ngọt, mà
nước ngọt th́ không thể chở từ Sài
G̣n ra được. Hồi đó, công an lên xét xe,
thấy nước ngọt là chắc chắn ḿnh
sẽ bị “tó” đầu. Bây giờ chỉ c̣n
một cách là đi xe từ Sài G̣n ra, mang theo can không,
tới Phan Rí (cách Cà Ná độ 50 cây số)
hoặc Long Hương (cách Cà Ná độ 30 cây
số) hoặc Vĩnh Hảo (cách Cà Ná độ 14
cây số) dừng xe lại lấy nước.
Rồi tới Cà Ná xuống xe. Nói th́ nghe dễ
vậy, nhưng chủ xe nào chịu dừng xe
lấy nước ngọt cho ḿnh, rồi bỏ
xuống Cà Ná. Bởi nếu rủi ro bị bắt
th́ tài sản xe cộ của họ cũng mất
luôn. Ai dám giúp cho ḿnh chuyện này, ngoại trừ
ḿnh có thật nhiều tiền, nhưng tôi th́ không.
Trước khi đóng bè tôi chỉ c̣n 1 cây vàng
độ 2,200 đồng tiền VC. Sau khi làm xong bè
tôi c̣n lại 800 đồng. Chủ xe nào lại
chịu lấy số tiền này cho một kế
hoạch vượt biên. Cuối cùng tôi vạch
kế hoạch “liều” gồm 2 bước như
sau:
![]()
Chiếc
bè được trưng trong viện bảo tàng
Nam Úc
Tôi
ra bến xe Điện Biên (ở đường
Phan Thanh Giản, gần ngă tư Hàng Xanh) xe vận
tải Qui Nhơn thường đậu ở đây.
Mục đích là gợi chút t́nh đồng hương
để dể năn nỉ. Tôi không đi xe đ̣,
v́ xe đ̣ đông khách, băi Cà Ná lại vắng
vẻ, không có nhà ở, khi ḿnh xuống xe ở
đó th́ hành khách trên xe (có thể có cán bộ VC)
họ sẽ nghi ḿnh vượt biên. Nên tôi chọn
xe tải chỉ có 1 tài xế và 1 lơ xe.
Khi
trả giá xong xuôi như một hành khách b́nh thường
đi từ Sài G̣n đến Phan Rang độ 300
đồng. Tôi sẽ là người ngồi đằng
trước với tài xế và cố gắng
lấy cảm t́nh của ông ta. Khi xe tới Phan
Thiết (200 cây số). Đăi ông ta và lơ xe
bữa cơm trưa để gây cảm t́nh. Sau khi
ăn cơm xong, xe bắt đầu chạy tôi
sẽ thố lộ cho tài xế biết là ḿnh
đi vượt biên và nhờ ổng giúp giùm,
bằng cách tới Phan Rí (cách Phan Thiết 70km)
dừng lại lấy nước cho ḿnh. Trong túi ḿnh
c̣n lại 500 đồng đưa hết cho ổng.
Tuy nhiên, đối với giới xe tải 500đ này
rất nhỏ, không có tác dụng ǵ mấy, chỉ
hy vọng vào tấm ḷng nhân đạo của
ổng giúp ḿnh mà thôi. Nhưng đây là một
điều nguy hiểm, rủi ro có thể mất
hết tài sản dễ ǵ ổng giúp ḿnh. Cho nên trước
khi thuê xe phải xem xét kỹ lưỡng ông tài
xế để “chọn mặt gởi vàng”
-
Thứ nhất ông này phải là người
chống cộng (có chống cộng mới giúp ḿnh
vượt biên chứ)
- Thứ hai là có ḷng nhân hậu. Không coi trọng vật chất mấy, nghĩa là không ham tiền quá.
Cả
hai tiêu chuẩn này đều do trực giác của
ḿnh phán xét v́ ông ta với ḿnh có quen nhau trước
đâu mà biết được. Vậy mà may
mắn sao tôi lại chọn đúng người.
Bước
thứ hai, nếu tới Phan Rí mà ông tài xế
vẫn khăng khăng không dám giúp ḿnh th́ sao?
Tới đây bắt buộc cả gia đ́nh tôi
phải xuống xe và phân tán mỏng. Gia đ́nh tôi
giữ 2 cái can, 2 đứa em và cháu tôi mỗi
đứa hai cái (tất cả 8 cái) trà trộn vào
mấy quán cơm dọc hai bên đường ăn
cơm và t́m cách lấy nước. Độ 1
giờ 30 phút sau, tôi thuê một chiếc xe lam từ
Phan Rí đi Phan Rang (độ 70km), lần lượt
đón hết mấy đứa em lên xe. Khi lên xe, tôi
ngồi băng ghế trước với tài xế,
thủ một con dao. Đứa em 19 tuổi cũng
ngồi phái bên kia thủ một con dao. Khi xe đến
Cà Ná, đợi đến khúc đường
vắng vẻ, hai anh em tôi sẽ chĩa hai mũi dao
vào hông ông tài xế bắt phải lái xe vào
bụi rậm. Xong đem tài xế ra băng sau trói
chặt vào đó. C̣n bao nhiêu tiền nhét hết vô
túi ổng. Sau khi ḿnh đi khỏi, ngày hôm sau đám
trẻ chăn ḅ sẽ mở trói cho ổng. Kế
hoạch th́ như vậy, nhưng rất may chúng tôi
chưa phải xài đến giải pháp này.
Ông
tài xế xe tải, sau khi nghe tôi thố lộ đă
“hồn phi phách tán”, chỉ lái xe theo phản
xạ như không hồn. Nhưng v́ thương gia
đ́nh tôi, ổng đă giúp chúng tôi đến nơi
đến chốn và hiện giờ ổng nhận
tôi là con nuôi của ổng (tôi chỉ kể
vắn tắt vậy thôi, chứ nếu kể
hết những ǵ tôi thuyết phục bác tài
xế th́ dài ḍng lắm).
Theo
kế hoạch tôi muốn xuống Cà Ná vào lúc
sẩm tối để tránh lũ trẻ chăn ḅ.
Nhưng v́ Bác Tư nói xe ổng phải về
sớm không thể chần chừ lâu được
cuối cùng tôi phải xuống Cà Ná lúc 2 giờ
chiều. Rất may là không có ai thấy. Chúng tôi vào
bụi rậm và bắt đầu bơm hơi vào
ruột xe. Công tác này thật nặng nhọc. Chúng
tôi mang theo 9 cái ruột xe tải, 7 cái ráp vào bè và
2 cái xơ-cua. Mỗi cái chúng tôi phải bơm 4
lần mới đầy. Nghĩa là cứ bơm cho
đuối sức rồi nghỉ độ 5, 10 phút
rồi bơm lại, 4 lần như vậy. Đến
7 giờ tối chúng tôi mang tất cả xuống mé
biển và ráp bè. Ráp xong ngồi chờ đến 9
giờ tối, gió đất bắt đầu
thổi ra, chúng tôi thả bè xuống nước và
khởi hành.
Tôi
xin giải thích thêm về hiện tượng gió
ở các vùng ven biển. Ở các vùng gần bờ
biển, ban ngày đất liền nóng hơn mặt
biển, không khí bốc lên nên gió ở ngoài
thổi vào. Khi mặt trời lặn, mặt đất
toả nhiệt nhanh hơn nên lạnh trước,
trong khi nước tỏa nhiệt chậm hơn nên
mặt biển vẫn c̣n ấm. Cho nên khoảng 8:30
– 9 giờ (giờ VN), gió từ bờ thổi ra, chúng
tôi lợi dụng cơn gió này để căng
buồm ra khơi (v́ không đủ tiền để
mua máy đuôi tôm).
Tôi
thả bè xuống nước lúc 9 giờ đêm,
đi được 6 tiếng đồng hồ.
Đến 3 giờ sáng th́ băo bắt đầu
nổi lên. Gió đổi hướng liên tục, tôi
phải hạ buồm xuống chỉ để bè
trôi theo ḍng nước. Thấy sóng thật lớn,
nhưng bè vẫn an toàn không lật. Chúng tôi yên tâm
tiếp tục đi 2 ngày và 2 đêm trong băo (tôi
thả bè xuống nước ngày 21-10-1979 đến
chiều 23-10-1979 tôi đă đến ngoài khơi Vũng
Tàu cách bờ độ 60km. Như vậy tôi đă
đi được khoảng 200 cây số đường
dài). Buổi trưa ngày 22-10, tôi đi ngang qua Phan
Thiết, chỉ cách bờ độ 12-15km, nh́n vào
bờ thấy thành phố rất rơ. Nếu trời
êm gió lặng, có lẽ tụi nó đă phát giác bè
của tôi tại đây. Nhưng v́ băo lớn quá,
nên mặt biển vắng teo không có một
chiếc thuyền nào qua lại. Đến chiều
ngày 23-10, khoảng 4 giờ, tất cả chúng tôi
đều quá mệt nên trùm poncho để ngủ,
không ai lái cả. Tuy nhiên bè vẫn trôi về hướng
Nam và càng ngày càng ra xa bờ (xin nói thêm là bè không
lật nhưng mỗi khi bè lên đến đỉnh
sóng th́ thường bị cái ngọn sóng bạc
đầu phủ lên bè, không nguy hiểm, nhưng
ướt và lạnh suốt ngày đêm). Bốn
đứa con tôi lúc đó chỉ có 4, 5, 7 và 9
tuổi). Lúc 4 giờ tôi đang ngủ chợt nghe có
tiếng gọi “trên bè có ai c̣n sống không?” Tôi
giật ḿnh thức giấc th́ thấy một
chiếc ghe khá lớn, trên đó có độ 10 ngư
phủ. Họ tưởng chúng tôi vượt
biển bằng ghe, ghe bị ch́m mới lên chiếc
bè cấp cứu này và thấy nằm im, sắp
lớp, nên họ tưởng chúng tôi đă
chết hết rồi. Họ cho biết là mấy ngày
trước, họ đánh cá ở đảo Trường
Sa, gặp gió lớn qúa họ núp băo ở các đảo
ngoài đó. Hôm nay gió dịu bớt họ trở
về, đi ngang qua đây gặp chúng tôi và họ
khuyên chúng tôi nên trở vào. Nếu cứ tiếp
tục đi không sống nổi đâu. Chúng tôi
hội ư bàn bạc với nhau, thằng em họ
lớn nhất (19 tuổi) bàn: “anh Ba à, trật keo
này ḿnh bày keo khác, nếu ḿnh tiếp tục đi,
em sợ mấy đứa nhỏ không sống
nổi”.
Trước
lúc ra đi tôi đă quyết tâm, nhưng khi đứng
trước cảnh này, nh́n các con tôi không đành
ḷng để chúng chết trên biển, nên đồng
ư quay về. Chủ ghe bắt thanh niên chúng tôi bơi
qua tàu họ (v́ họ sợ chúng tôi có súng, cướp
ghe của họ nên không dám lại gần). Tôi c̣n
lại 800 đồng (v́ ông chủ xe tải không
lấy tiền), một sợi giây chuyền và
chiếc nhẫn độ vài chỉ vàng 18. Tôi
đưa hết cho chủ ghe và nhờ ổng
chở vào bờ, bỏ tôi ở một băi biển
vắng để về Sài G̣n, nhưng ổng không
chịu, mặc dù rất thông cảm và thương
chúng tôi. Nhưng v́ trên ghe có rất nhiều ngư
phủ, khi về họ sẽ xầm x́, bàn tán.
Thế nào công an cũng nghe được và nguy
hiểm đến tài sản và gia đ́nh ông ta. Ông
chỉ có thể chở chúng tôi đến đồn
công an. Anh em chúng tôi bàn tán thêm một lúc và
thằng em cũng chỉ khuyên tôi trở về
chấp nhận vào tù, khi hết tù sẽ làm
chuyến khác. V́ lúc đó bè chúng tôi không thể
tự trở về bờ được v́ gió
bấc thổi về Nam và nước cũng
chảy về Nam. Thôi th́ chịu cảnh tù tội
từ đây.
Ghe
đánh cá chở chúng tôi về đến đồn
36 Công An Biên Pḥng thuộc xă Hưng Long – Phan
Thiết khoảng nửa đêm 23 rạng 24 tháng 10.
Chúng tôi bị nhốt ở đây một ngày,
đến chiều 24 chúng chở về trại I
Phan Thiết và tống tôi vào pḥng biệt giam.
Vợ con tôi ở nhà nữ, c̣n mấy đứa
em th́ nhốt ở các nhà tập thể khác. Sáng ngày
26-10-1979 chúng vào bảo tôi đem hết đồ
đạc ra chỗ văn pḥng. Tới nơi tôi
thấy vợ con và mấy đứa em đầy
đủ. Tôi phân vân tự nghĩ “không lẽ chúng
thả ḿnh về sớm vậy?” Nh́n vợ con, tôi
không cầm được nước mắt.
Chỉ qua hai đêm mà mặt mày vợ con tôi như
miếng gừng xâm kim để làm mứt. Muỗi
cắn nát không có khoảng hở nào cách nhau
được 5 ly. Chờ một lát, có tên công an
ra bảo“chúng
tôi cần một số h́nh ảnh về chiếc bè
của anh. Hôm nay chúng tôi sẽ chở anh trở
lại đồn 36. Trên đường đi
nếu anh có hành động ǵ chúng tôi sẽ không
chịu trách nhiệm”. Ư nó nói, nếu tôi
chạy trốn nó sẽ bắn bỏ. Khi xuống
tới đồn, chúng bắt chúng tôi đem
tất cả đồ đạc ra gần mé nước
ráp bè và thả xuống nước (v́ chúng đă
tháo ra hết). Nghĩa là diễn lại y như lúc
tôi đi để chúng quay phim, chụp h́nh làm tài
liệu. Xong, chúng chở tôi về trại I vào pḥng
biệt giam và bắt đầu cuộc đời tù
tội từ đây.
Chúng
nhốt vợ con tôi 13 ngày, mấy đứa em 3 tháng
và tôi 39 tháng. Khi vợ con tôi từ nhà tù ra bến
xe, dân chúng hai bên đuờng đều biết
mặt, v́ họ có đi xem “đóng phim”. Họ
thăm hỏi và giúp đỡ rất tận t́nh.
Khi đến bến xe, chủ quán mời vào cho
ăn cơm không lấy tiền. Khi lên xe, chủ xe
không lấy tiền xe mà c̣n bao cho ăn trưa. Và
khi đến Sài G̣n chủ xe gọi hai chiếc xích-lô
chở vợ con tôi về nhà và họ trả
tiền trước.
Vợ
tôi dẫn 4 đứa con về được Sài G̣n
mặc dù trong túi không có xu nào. V́ tôi đă dặn
vợ tôi bằng mọi giá phải bám lại Sài G̣n.
Sau khi mượn tiền của bạn bè và bà con
mua một ít gạo muối để lại cho 2
đứa con, lớn nhất (Vi) và nhỏ nhất (Luân)
ở lại Sài G̣n. Vợ tôi dẫn đứa
thứ ba (Thủy) ra Nha Trang ở với d́, và
Thảo (đứa thứ hai) về B́nh Định
ở với ngoại. Cha mẹ và các chị em hai bên
góp vốn để giúp vợ tôi buôn bán nuôi con.
Những
người đàn ông khác th́ sao tôi không biết.
Chứ tôi có một cái tật xấu là đối
với người ngoài, khi ai giúp cho tôi một
điều ǵ, tôi cũng thường nói thank you hay
cảm ơn xoèn xoẹt y như… Tây, nghĩa là cũng
biết galant, cũng …lịch sự như mọi
người. Nhưng đối với vợ con trong
nhà th́ h́nh như tôi mang cái ư nghĩ là… “của
riêng ḿnh ta, ván đă đóng ḥm, không ai thèm vào
đây rước ba cái của nợ này”. Nên không
bao giờ tôi nói được hai tiếng cảm
ơn, ngoại trừ trường hợp nói
cảm ơn để …móc họng, trong những
lần vợ chồng gấu ó nhau.
![]()
Anh
Nguyễn Hữu Ba tại pḥng triễn lăm Viện
Bảo Tàng Nam Úc
Nhân
đây tôi xin nói vài hàng về vợ tôi , để
nếu “chẳng may” vợ tôi đọc
được th́ những ḍng này sẽ thay tôi nói
lời tạ tội và cảm ơn công lao của
“Bà”, đă nuôi nấng cha con tôi. Con cá sống
nhờ nước, cha con tôi sống cũng nhờ
vợ tôi.
Lúc
đó vợ tôi là một phụ nữ tương
đối coi cũng được, không đến
nỗi “ma chê, quỷ hờn”. Nên cũng có
những kẻ muốn “xắn tay bẻ nụ…
hoa tàn”. Vốn liếng lại không có bao nhiêu,
nếu là một người đàn bà yếu ḷng,
không đủ trung kiên, chung thủy với chồng
th́ cũng dễ t́m một nơi nương
tựa lắm.
Sau
khi tôi ở tù về, nghe mấy đứa con
kể lại cuộc sống đă qua mà ứa nước
mắt. Trong năm đầu tiên, vợ con tôi không
dám ăn nước mắm, chỉ mua mắm
ruốc kho lỏng thành nước để
chấm rau lang và rau muống. Có dư ra đồng
nào vợ tôi đều để dành, lúc th́ mua 1kg
đường, lúc th́ mua 1kg chuối khô, để
trên đầu tủ, các con tôi thèm nhỏ dăi, nhưng
vợ tôi bảo “để dành đi thăm Ba”.
Cứ hai tháng vợ tôi đi thăm nuôi tôi một
lần, c̣n tháng ở giữa hai lần thăm th́
gởi 5 kg bưu phẩm, đều đặn như
thế suốt 3 năm 3 tháng. Sau khi ở tù về,
tôi rất đau ḷng khi biết rằng suốt
thời gian ở tù tôi ăn uống c̣n đầy
đủ hơn vợ con tôi ở nhà. Lư do là
vợ tôi sợ tôi ở tù phải lao động
cực nhọc. Bắt đầu từ năm
thứ hai trở đi, vợ tôi buôn bán thuốc tây
có thu nhập khá hơn nên gia đ́nh đỡ
khổ hơn năm đầu. Thật tội
nghiệp cho vợ con tôi. Ḷng trung trinh, chung thủy
của vợ tôi, có thể ví như… ch́ đă
được thử lửa.
Có
một điều đáng nói là cộng sản kêu
án tôi 3 năm tập trung cải tạo, nhưng
đến 39 tháng họ mới thả tôi ra. Khi
họ thả, nh́n vào lệnh tha, tôi thấy họ
đă kư thả trước đó một tháng rưỡi.
Nghĩa là kư thả đă trễ mà khi đă kư
rồi c̣n nhốt thêm một tháng rưỡi
nữa v́ công việc đồng án đang cần tù.
Đúng là luật pháp của CS.
Sau
khi tôi về được hai tháng, được
người bạn cùng khóa giới thiệu tôi lái
một chiếc tàu dài 12.5m, chở theo 83 người.
(Trong chuyến vượt biển thành công này, có
một cái chết thật lạ lùng của một
thanh niên, tôi sẽ thuật lại trong một bài khác).
Tôi trực chỉ đảo Natuna – Indonesia. Sau 77
giờ vượt biển, tôi cập vào bờ
Natuna (ngày 12-4-1983) để xin nước và bản
đồ để tiếp tục đi Úc. Nhưng
chính quyền ở đây không cho đi. Họ
đưa tôi qua đảo Kuku rồi trại tỵ
nạn Galang. Gần 6 tháng sau (13-10-1983), gia đ́nh tôi
đến Úc, bỏ lại Việt Nam một đứa
con, v́ khi đi gấp quá tôi không về kịp Qui
nhơn để mang theo được.
Gia
đ́nh tôi tới Adelaide ngày 13-10-1983. Sau hai tháng
ở Pennington Hostel, tôi thuê được một căn
flat ở Woodville, và vợ tôi làm ở hăng may, c̣n tôi
th́ đi làm farm. Đầu năm 1985, tôi thuê
được một farm nhà kiếng ở Virginia.
Vợ tôi vẫn tiếp tục làm ở hăng may
để sinh sống, v́ thời gian đầu làm
farm chưa có thu hoạch. Dần dần công việc
làm farm bề bộn hơn, vợ tôi đành
phải nghỉ hăng may để phụ tôi.
Nhiều đêm, vợ chồng tôi và 3 đứa
con (một đứa c̣n kẹt ở VN) phải
chong đèn làm ngoài nhà kiếng đến 11-12
giờ đêm. Hai năm đầu làm farm cũng may
mắn được mùa, nên cuối năm 1986 tôi
mua được một trại nuôi heo. Tôi tiếp
tục làm cả hai farm, nhà kiếng và trại chăn
nuôi. Thêm gần được 3 năm nữa th́ tôi
trả lại nhà kiếng và chỉ giữ lại
trại chăn nuôi heo. Đến năm 1990, tôi
mở thêm một tiệm Take-Away và làm được
6 năm.
Các
con tôi nay đă trưởng thành. Tất cả 4
đứa đều đă tốt nghiệp đại
học. Chúng tôi rất mừng có được gia
đ́nh hạnh phúc. Tôi xin cảm ơn vợ tôi, Và
biết ơn nước Úc đă đón nhận chúng
tôi định cư tại Úc, một xă hội
tự do, dân chủ, công bằng và bác ái.
Nguyễn
Hữu Ba
|
|||