Ông
Đạo Nhỏ |
Subject: Ông Đạo Nhỏ ( một
hiện tượng luân hồi? ). Năm
1968, sau trận Tết Mậu Thân, vị Tư
lịnh Quân đoàn IV bấy giờ là Thiếu Tướng
Nguyễn viết Thanh có rước một ông Đạo
từ trên Hồng Ngự xuống. Ông Đạo
nầy lúc đó chỉ 8 tuổi, nên được
gọi là Ông Đạo Nhỏ. Ông là con của
ông Trần kim Qui, Hiệu trưởng một trường
học ở quận Hồng Ngự, người theo
đạo Phật Giáo Ḥa Hảo..... .....Buổi
chiều nọ, khi tới dự bữa cơm tối
tại tư dinh Thiếu Tướng Tư lịnh Quân
Đoàn IV, tôi thấy ngồi ở đầu bàn là
một người c̣n nhỏ tuổi, quanh đó có
mặt các ông Đại tá, và Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh, Tư lịnh phó lănh thổ
của Quân đoàn. Trong chín ông Đại tá có
cả Đại tá Nguyễn văn Ánh, là Tư
lịnh Sư Đoàn 4 Không Quân (ông nầy sau đó
lên Thiếu Tướng và bị tử nạn máy bay).
Khi
mọi nguời vào bàn ăn th́ được ông Tư
lịnh Quân đoàn giới thiệu: “Đây là
Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự được
mời tới đây để ăn cơm với chúng
ta !”. Tiếp theo, ông giới thiệu từng
thực khách với Ông Đạo Nhỏ một cách
hết sức trân trọng. Chỉ với người
khoảng 8 tuổi mà tôi thấy Tướng
Nguyễn Viết Thanh đối xử trang trọng
lắm. Mọi người đều dùng cơm
chay v́ Ông Đạo Nhỏ không ăn mặn. Sau
khi cơm nước xong xuôi, mỗi người
được phân phát một tờ giấy, và
một cây viết ch́. Tướng Thanh nói rằng
:“Ông Đạo Nhỏ biết rất rành quá
khứ vị lai (tức chuyện về trước,
chuyện về sau) nhưng v́ không nói chuyện
được nên chỉ trao đổi bằng
giấy viết !”. Vậy là mỗi người
viết câu hỏi mà ḿnh muốn hỏi lên tờ
giấy rồi chuyền tay đưa tới Ông Đạo
Nhỏ. Đầu tiên là ông Tư lịnh Quân
Đoàn Nguyễn Viết Thanh viết một câu
hỏi đưa qua, Ông Đạo Nhỏ cầm
viết, viết rào rào (nghiă là viết rất nhanh)
bằng chữ Quốc Ngữ, xong rồi đưa
lại cho ông Thanh. Ông Thanh coi xong bèn úp tờ
giấy xuống mặt bàn. Sau đó là tới lượt
ông Chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh, v́
ông và ông Thanh ngồi hai bên Ông Đạo Nhỏ …Ông
Đạo Nhỏ viết câu trả lời toàn
bằng thơ, tôi ngồi gần nên liếc thấy
hầu hết là thơ ngụ ngôn (mỗi câu năm
chữ) sau ông Đại tá Ánh, Tư lịnh Sư
đoàn 4 KQ là các ông Đại tá khác trong đó có
Đại tá Huỳnh văn Lạc, Tham mưu trưởng
(sau nầy cũng lên Tướng và đang sống
ở Sacramento, CA). Tôi nhường hết cho
mọi người chờ đến lượt
cuối cùng, tôi viết trong giấy là: “Xin Ông Đạo
Nhỏ cho biết tương lai vận mệnh
của tôi trong cuộc chiến tranh nầy ?”. Tôi
đưa cho ông Thanh, ông Thanh coi qua một chút rồi
chuyển cho Ông Đạo Nhỏ. Ông Đạo
Nhỏ viết xuống mấy chữ chuyền
tới lui th́ ra ông viết rằng “đưa về
nhà rồi sẽ cho sau”; ông không cho liền trong khi
mấy ông kia th́ trả lời ngay. Sau
đó, Ông Đạo Nhỏ tỏ ư muốn đi ra
đằng sau chơi, ông Tướng đích thân
dẫn Ông Đạo Nhỏ ra phía sau hàng ba để
Ông đi lại nơi cái bàn có cái ghế, và
ngồi chơi một ḿnh. Số người c̣n
lại trong nầy chuyền tay nhau những tờ
giấy có câu trả lời của Ông Đạo
Nhỏ, không ai dấu diếm. Tôi đọc bài
thơ của ông Thanh th́ câu cuối cùng mà Ông Đạo
Nhỏ viết là “Tu mau đi kẻo muộn !”.
C̣n bài thơ của ông Đại tá Ánh, của
ông Đại tá Trưởng pḥng Nh́ cũng viết
là “Tu mau đi kẻ muộn !” (cả ba ông đều
có một câu kết như nhau). Riêng của
ông Hạnh th́ Ông Đạo Nhỏ cho một bài thơ
Đường luật gồm 8 câu 7 chữ, câu
cuối cùng là “Thân bại danh liệt tướng
miền Tây !” tôi chỉ nhớ câu chót thôi không
thể nhớ hết nguyên bài. Mấy người
c̣n lại trong đó có một ông Đại tá người
Huế làm bên Tiếp vận Vùng 4, cũng được
một bài thơ nhưng b́nh thường thôi, không có
ǵ đặc biệt. Sau khi bàn luận qua lại
một hồi rồi giải tán. Thiếu tướng
Thanh nói với tôi là Ông Đạo Nhỏ muốn
về nhà của tôi, và sau đó nhờ tôi đưa
Ông Đạo Nhỏ về Hồng Ngự. (v́ tôi có
một chiếc trực thăng riêng muốn sử
dụng lúc nào cũng được). Tôi chở Ông
Đạo Nhỏ về nhà, rồi kêu chú lính
trực đem một cái ghế bố với đầy
đủ mùng mền cho ông nghỉ ngơi ngay tại
pḥng khách (ban tối, chú lính mở ghế bố ra
rồi đến sáng th́ thu dọn lại sạch
sẽ). Khi
tôi xuống Cần Thơ làm việc, vợ tôi giao
cho tôi đứa con gái lớn đang học lớp
Bảy nên phải xin chuyển trường cùng
với ba đứa con trai nhỏ nhứt (c̣n mấy
đứa lớn đang học ở Saigon) gồm
đứa 7 tuổi, 6 tuổi và 5 tuổi. Mỗi ngày,
đứa con 7 và 6 tuổi th́ đi học c̣n đứa
5 tuổi vẫn c̣n ở nhà chơi với Ông Đạo
Nhỏ, nhưng Ông nầy lại không thích chơi
giởn. Sáng dậy, tôi và Ông Đạo điểm
tâm bằng cháo trắng, trong khi tôi ăn với
đường, hay thịt cá th́ Ông ăn ba chén
đàng hoàng nhưng với muối. Đặc
biệt là dù trời lạnh hay nóng, Ông cũng
đều thích ra ngồi phiá sau nhà, nơi nầy tôi
có che một cây dù nhà binh, ông huớng mắt về
phía Nghiă trang Quân Đội ngồi yên, không nói ǵ
cả cho tới trưa khi tôi đi làm về th́ vào
ăn cơm chay với tôi. Sau bữa ăn cơm
tối, tôi viết mấy câu nhắc lại câu
hỏi của tôi lúc trước th́ Ông trả
lời là “hăy đợi đến ngày Rằm”
tức là khoảng 7, 8 bữa nữa. Trong thời gian
lưu ngụ đó, nhiều khi con tôi đi học
về đến nắm tay, nắm chân kéo ra ngoài chơi
giỡn, nhưng Ông cứ ngồi im thin thít không nói,
không rằng, và không thích vui đùa như mấy
đứa con nít cùng trang lứa. Đến
ngày Rằm, tôi cho mấy đứa con đi ngủ
sớm, đóng cửa pḥng không cho ra ngoài, rồi
chuẩn bị vào pḥng khách để đàm đạo
với Ông Đạo. Ông Đao viết lên giấy
biểu tôi đốt hai cây đèn cầy đỏ
thật lớn, để trên hai cái chân đồng,
và tắt hết đèn điện. Sau đó, Ông
biểu tôi lấy ra một tập giấy học tṛ
200 trương và một cây viết nguyên tử. Ông
bắt đầu viết lên tờ giấy: “Ông
cứ đặt câu hỏi, và viết lên đây
mỗi trang giấy là một câu hỏi !” C̣n
nhớ, khi Ông cho mấy ông Tướng Tá kia th́
mỗi người chỉ được một bài
thơ c̣n riêng tôi th́ cả một cuốn tập 200
trương. Đại ư những điều Ông
viết về vận mệnh cho tôi như thế
nầy là: “Khi tôi về già, cái mệnh của tôi cũng
như Ông Khương Thượng (tức KhươngTử
Nha) đời nhà Châu giúp vua Châu diệt nhà Thương
(hoàn toàn được viết bằng những bài
thơ). Về già, tôi sẽ đảm nhận vai tṛ
giống như ông Khương Tử Nha ngồi câu trên
sông Vị thủy chờ Châu văn Vương
tới rước làm Đại tướng quân
cầm quân đánh vua Trụ, chớ không phải như
lúc c̣n trẻ !”. Ông c̣n viết thêm là “ông có
quyền hỏi tất cả những ǵ mà ông
muốn biết !”. Thế là, tôi lật trang kế
tiếp, tôi hỏi về chuyện quốc gia, đến
khi hết chuyện quốc gia là đă lên tới 100
trương rồi nhưng ông cứ cho hỏi hoài
từ 7 giờ tối tới 12 giờ khuya. Tôi
hỏi đâu, ông cho đó …đặc biệt,
tất cả đều trả lời bằng một
bài thơ chớ không phải văn b́nh thường.
Tôi không hiểu tại sao một người chỉ
mới 8 tuổi mà làm thơ đủ vần, đủ
điệu như vậy. Tôi thử ông tới
những bài thơ Đường luật thất ngôn
bát cú luôn cả bài toàn chữ B. Ông cũng cho tôi
bài thơ Quốc Ngữ khởi đầu toàn là
chữ B mà lại viết liền không cần suy nghĩ,
thật là một người có bộ óc thông minh
kinh hồn không thể tưởng tượng
được. Về chuyện trong nước th́
cuối cùng ông phán trong một bài thơ, đại
ư là :“Miền Nam không đứng vững, không đủ
khả năng đánh bại miền Bắc !”. Kế
đó tôi hỏi về chuyện Thế giới th́
được trả lời đến gần 100 bài
nữa, trong đó có hai bài hỏi về Hội Long
Hoa. Tôi hỏi “Hội Long Hoa thành lập ở đâu,
do ai chủ tŕ và giải quyết chuyện ǵ ?”
Vấn đề nầy ông không trả lời nhưng
ông vẽ một cái h́nh lên trên tờ giấy. Ông
vẽ một khán đài rồi vẽ một cái ṿng
tṛn, ông vẽ một mũi tên chỉ vô để
“người” tức là nhiều người
ngồi trên đó, rồi phía dưới ông vẽ h́nh
người mà cả hàng ngàn, hàng ngàn người
ngồi ghế bên dưới. C̣n vùng đó là vùng
có núi mà là núi thấp, ông không nói địa điểm
chỗ nào nhưng nh́n xa xa thấy toàn là núi, c̣n
chỗ hội họp là giữa hai cái núi, ông vẽ
sơ sơ vậy thôi. Sau đó, ông vẽ cái
dấu tṛn phiá trước, kế đó là cái
dấu tṛn thứ hai; cái dấu đầu tức là
có người ngồi trước, rồi ông vẽ
một mũi tên chỉ vào dấu thứ hai đó,
ông viết chữ “ông” tức là tôi sẽ là người
thứ nh́ ngồi ở Hội Long Hoa. Đến
nay, khi tôi kể lại tôi c̣n cảm thấy run
cả người bởi v́ Hội Long Hoa là một
chuyện trọng đại, và phi thường
giải quyết cả một vận hội thế
giới chớ không phải cho riêng nước ḿnh thôi
đâu !. Đến
đây, tôi nói với ông là cũng đă khuya rồi,
chú lính đă giăng mùng sẵn, mời Ông đi
nghỉ. (Về chuyện hậu vận của tôi, tôi
cũng có hỏi và được giải đáp
đầy đủ, nhưng v́ thuộc về cá nhân
nên tôi không thể nói được, ngoại
trừ việc về già giống trường hợp
ông Khương Thượng như đă nói ở
phần trên. Bởi v́ tin vào vận mệnh đó,
mà tôi mới dám qua Cam-pu-chia ở 10 năm và
chiến đấu bên đó từ năm 1984 đến
năm 1994). Sáng
hôm sau ông viết lên giấy đ̣i về nhà, tôi cho
gọi trực thăng tới để đưa ông
đi, ông viết cho tôi là: “Tôi biết ông có
đủ khả năng để xây cất một cái
Miếu đường cho tôi, để tôi có
chỗ ở mà thờ phượng !” Tôi
trả lời: “Được, tôi sẽ giúp ông
Đạo nhỏ”, ông cầm tờ giấy đó
xếp lại và bỏ vào túi. Tôi đưa ông ra
trực thăng bay lên núi Sam (Châu Đốc) kiếm
ông Thiếu tá Công binh của tôi đang bắn đá
ở đó, tôi gọi Radio trước cho ông nầy
nên trực thăng vừa tới là ông leo lên cùng bay
về Hồng Ngự với tôi và Ông Đạo
Nhỏ. Khi trực thăng đậu ngay sân Chi
khu là có sẵn chiếc xe Jeep chờ sẵn chở chúng
tôi đến nơi mà Ông Đạo Nhỏ muốn
xây cất miếu. Nhà ông ở cũng gần
chợ Hồng Ngự, ông viết giấy đưa
cho tôi nói đây là đất nhà của ông. Tôi
nói với ông Thiếu tá : “Thiếu tá cố
gắng giúp Ông Đạo Nhỏ xây cái Miếu
ở đây c̣n phương tiện hay cần vật
liệu ǵ, Thiếu tá cứ viết giấy về Liên
đoàn lănh vật liệu lên làm !”, tức là tôi
cung cấp toàn bộ và cho các anh em Công binh, gồm
cả một tiểu đội để việc xây
cất càng nhanh càng tốt. Ông Đạo Nhỏ
lấy giấy viết vẽ sơ sơ ra cái nền
vuông, rồi ngăn vách phân biệt nơi nào để
thờ phượng, nơi nào là chỗ ngủ
của ông, chỗ để quần áo, nơi thay
quần áo, rồi chỗ ở của người tu
chung với ông, rồi cái bếp, cái nhà tắm,
cầu tiêu… Nơi nào ông cũng có viết chữ
trong đó, ông vẽ khéo lắm như một
kiến trúc sư vậy. Ông c̣n cho cả chiều
ngang khoảng 12 thước c̣n chiều xuôi chừng
16-18 thước. Diện tích cũng giống như
một căn nhà chớ không nhỏ lắm, c̣n trên cái
nóc th́ muốn làm sao cứ làm. Riêng phía trước
chỗ phần thờ phượng th́ chiếm 1/3 căn
nhà có xây một cái trang ở trên, rồi có cửa
trước và có cửa ra vô hai bên hông. Công tác
nầy do anh em Công Binh hoàn thành khoản 20 ngày, dưới
sự chỉ huy của Thiếu tá Hoàng bá Hải (Ông
nầy có lẽ là người Nha trang nhưng nói
giọng miền Nam, rất lanh lợi, làm Giám đốc
hầm đá núi Sam khoảng 7-8 năm). Sau khi hoàn
tất, ông Thiếu tá nầy có mời tôi lên ăn
Khánh Thành, nhưng lúc đó rất bận nên tôi không
thể đến dự. Chính ông và Ông Đạo
Nhỏ cùng mọi người làm lễ Khánh thành trước
khi Ông Đạo Nhỏ dọn vào ở. C̣n tên
miếu là ǵ th́ tôi không biết !. Tôi
cứ cầm tập thơ viết đầy 200 trương
nầy coi đi coi lại hoài, nghiền ngẫm
những điều ghi trong đó, sau đó tôi
cầm về Saig̣n cẩn thận cất vô tủ
sắt trong nhà. Tôi có người bạn là Bác sĩ
Nguyễn bá Khả (có người em là Bác sĩ
Nguyễn bá Tín), người Bắc di cư năm
1954, cha mẹ vẫn c̣n sống, và đang ở chung
với ông ở Cư xá Lữ Gia, Saigon. Ông Bác sĩ
nầy rất đàng hoàng và nhân ái. Trước
cửa pḥng mạch của ông ở đường G̣
công, Chợ lớn có dán tờ giấy ghi là: “Kẻ
nghèo khổ và người tu hành được khám
bịnh miễn phí !”. Ông làm Tổng trưởng
Y tế trong thời gian Nguyễn cao Kỳ là Chủ
tịch Ủy ban Hành pháp Trung Ương. Khi ông
đi họp bên Phi luật Tân th́ ở bên nhà ông Chánh
văn pḥng của ông, là người miền Nam
bị ông Kỳ ra lịnh cho Đại tá Liễu, Giám
đốc Cảnh sát bắt đem giam trong khám Chí Ḥa.
Nhóm trí thức và dân biểu gốc miền Nam
chống ông Kỳ về vụ bắt giam nầy, ông
Kỳ đổ thừa là BS Khả ra lịnh. Ông
Khả đang họp ở Phi Luật Tân có người
gọi điện thoại báo cho ông, ông liền
bỏ họp trở về Việt Nam. Ông vô Văn pḥng
ông Kỳ, mạt sát ông nầy dữ dội: “Ông làm
như vầy là sai ! Tại sao Đổng lư Văn Pḥng
của tôi mà ông ra lịnh bắt, tại sao ông không
nhận, lại đổ thừa là tôi ra lịnh ?”
Sau khi xỉ vả ông Kỳ một hồi
rồi đưa thơ từ chức, không làm
nữa. Ông c̣n nói rằng: “Tôi muốn giúp ông
để làm việc nước, nhưng ông đă làm
trái với nguyện vọng của tôi, nên tôi không
chấp nhận làm việc chung với ông nữa, tôi
muốn trở về làm dân !” Sau đó, BS
Khả trở về nhà và buồn bực lắm !
Thấy vậy, tôi mới mời ông tới nhà tôi
chơi và cho ông xem quyển sách đó. Ông ngồi
với tôi vừa uống nước vừa xem
hết 200 bài thơ trong đó. Ông là một Bác sĩ
có bằng cấp của Pháp, du học bên Pháp, nên
thuộc loại Bác sĩ giỏi. Xem xong, ông không nói
năng ǵ và ra về. Trước khi về lại
Cần Thơ, tôi đem cuốn sách đó cất vào
tủ sắt. (Lúc bấy giờ ông William Colby đang
làm Cố vấn cho chương tŕnh Phụng Hoàng). Đến
tháng sau, tôi trở về Saigon thăm vợ con, tôi
mở tủ sắt ra coi lại th́ quyển sách
của tôi đă bị mất, luôn cả bản
đồ vẽ đủ thứ trên đó cũng
bị mất ! (Tôi nhớ BS Nguyễn Bá Khả cũng
có coi qua bản đồ nầy !). Tôi hỏi Bác sĩ
Khả có nói với ai về quyển sách nầy không,
ông trả lời :“Tôi với anh là bạn mà, tôi
coi xong rồi thôi, có nói với ai đâu !” Tôi
cố t́nh t́m kiếm vẫn không ra, rồi
từ từ cũng không c̣n nhắc tới nữa, nhưng
tôi tiếc lắm. Lâu lâu tôi cũng muốn giở
ra coi để biết thời cuộc, v́ đây là sách
thiên cơ mà tôi tin tưởng ! Đến
năm 1975 khi tôi sang được Hoa Kỳ, ở thành
phố Roseville , CA, th́ được ông Colby
gởi lời mời lên nhà chơi. Lúc đó, ông
đang là Giám đốc CIA của chánh phủ. Khi tôi
đến nhà th́ được bà vợ ra tiếp
đón, c̣n ông th́ đi làm, trưa đó mới
về gặp tôi. Ông lấy cho tôi một cái Hotel bên
ngoài, và một tài xế để tôi tiện
việc đi chơi đây đó, nhứt là đi ṿng
ṿng thăm Hoa Thịnh Đốn cho biết. Trong lúc
ăn cơm, tôi kể lại câu chuyện về Ông
Đạo nhỏ cho ông Colby nghe. Nghe xong, ông Colby
chỉ cười và nói ông biết rồi. Tôi
hỏi tại sao ông biết. Ông trả lời chính
BS Khả báo cáo với ông. Hóa ra là BS Khả làm
việc cho CIA mà tôi đâu có biết ! Colby nói là
ông đă cho người lúc ban đêm mở cửa vào
nhà tôi, và mở tủ sắt lấy hết hồ sơ
đó ! Tôi hỏi ông lấy để làm ǵ, ông
nói sau khi lấy xong th́ cho người mang tay về
Hoa kỳ, v́ ở CIA có một Ban chuyên môn nghiên
cứu về chuyện đó, và để tại
đây cho họ nghiên cứu. Tôi nói: “Thôi bây
giờ đă nghiên cứu xong rồi, cho tôi xin
lại dù là bản sao cũng được !” Ông
nói: “Không được ! Nó đă thành một
văn kiện mật, rất tối mật ! Chính
Tổng thống Mỹ cũng không được xem
chớ đừng nói việc trả lại cho you
!”, nên tôi đành chịu thôi ! Đầu
năm 1978 có hai vợ chồng ông Thiếu tá gốc
Phật Giáo Ḥa Hảo ở Nam Cali lên Sacramento thăm
bà con ở đây. Ông có gặp và kể cho tôi
nghe về chuyện Ông Đạo Nhỏ. Ông
Thiếu tá nầy quê ở Rạch giá, có vợ
ở Hồng ngự, ông là Tiểu Đoàn trưởng
Sư đoàn 9 BB nhưng sau biến cố 1975, vợ
chồng ông trở về Hồng Ngự trốn lánh,
nhờ bà con chung quanh che chở, không ai tố giác thành
ra ông không phải đi học tập cải tạo
! Nhà bên vợ có một miếng ruộng ở
giữa đồng, nên vợ chồng ra đó làm
ruộng từ năm 1975 đến năm 1977 mà không
bị bắt ! Ông nói, ông có đến gặp và
biết Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự. Ông
Đạo ở đó lo tu hành và chữa bịnh.
Những bịnh nhẹ, và ma quỷ th́ ông làm hay
lắm, c̣n về nóng lạnh, hoặc sốt rét th́
chữa không được khá, đặc biệt,
bịnh thuộc về ma hành quỷ bắt hay điên
loạn th́ ông chữa đươc hết ! Vào
một buổi sáng sớm vào năm 1977, trong lúc
vợ chồng ông đang nhổ mạ, để
sửa soạn cấy th́ thấy có một người
mặc áo dài đen, mặc quần trắng, đầu
trần tóc hớt chải coi trẻ lắm, và mang dép
da từ trong chợ Hồng Ngự đi ra (từ
đó cách chợ Hồng Ngự mấy cây số).
Sau đó, hai vợ chồng đứng dậy chào
v́ biết người vừa tới đó là Ông
Đạo Nhỏ. Ông Đạo lúc bấy giờ
đă 17 tuổi rồi. Thấy hai người đứng
dậy chào, th́ ông chỉ vô thúng xôi (khi họ đi
đồng th́ thường đem theo một cái thúng
trong đó có đựng cơm nếp, muối mè, và
nước uống…). Ông chồng hiểu ư, lấy
một chén xôi rắc muối mè rồi đưa cho
ông Đạo, ông Đạo ngồi xuống bờ
đất ăn ngon lành ! Ăn xong chén xôi, ông
chỉ hủ nước. Ông chồng lấy cái
chén sạch rót cho một chén nước đưa
cho ông. Uống xong, ông đứng lên chắp tay xá
một xá, rồi băng ngang đồng đi về
hướng Cao lănh. Hai vợ chồng lui cui
nhổ mạ để kịp cấy nên lơ là, lúc
đó chỉ độ 8 giờ sáng, nên ông Đạo
mất dạng lúc nào cũng không ai hay biết.
Từ đó, Ông Đạo Nhỏ không c̣n trở
về ngôi miếu của ông nữa ! Sự
việc nầy, theo tôi nghĩ là do cái linh ứng
của Đức Phật Thầy đă chuyển
kiếp qua Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ,
rồi sau đó lại chuyển qua Ông Đạo
Nhỏ. Sở dĩ tôi nghĩ như vậy v́ khi tôi
hỏi Sư phụ của tôi, ông đă cho tôi
biết. Sư phụ tôi là một vị Ḥa thượng
người Quảng Ngăi. Năm 1974, ông đă
được 104 tuổi rồi. Lúc c̣n trẻ, ông
tu ở Quảng Ngăi rồi sau đó đi ra Hà
Nội, và qua bên Tàu. Ông lại đi theo các ông sư
Miến Điện về tu ở Miến Điện
5 năm, học ngôn ngữ, và chữ viết Miến
Điện, rồi lại đi theo mấy ông sư
nầy hành hương qua Nepal rồi đến Tây
Tạng ở đó tu suốt 30 năm nữa. Sư
phụ tôi có thể nhịn đói 3, 5 năm mà không
chết, và có thể chết 100 ngày, hay 50 ngày rồi
sống lại, ông đă biễu diễn nhiều
việc làm tôi phải hết hồn. Bất cứ ngôn
ngữ nào trên thế giới ông đều biết
cả. Tôi đă đưa một ông Đại tá người
Đức tới thăm ông, lúc đó ông đang
ở trong Chợ lớn được mấy người
Tàu cất cho một cái am nho nhỏ để tu hành
cùng với một tiểu đồng, khi người
Đức tới hỏi tiếng Đức th́ ông cũng
trả lời ngay bằng tiếng Việt. Lúc trước,
tôi có dẫn một đồng bào người Thượng
gốc Rhađê biết nói tiếng Việt tới
hỏi chuyện với ông bằng tiếng Rhađê
th́ ông trả lời bằng tiếng Việt liền,
người nầy hỏi cái ǵ ông lền trả
lời ngay cái nấy. Có lần, tôi đem ông Đại
úy người Anh đến th́ cũng được
trả lời rất rành rẽ bằng tiếng
Việt, khi ông nghe th́ hiểu ngay nhưng không nói
được thứ tiếng đó, mà trả
lời bằng tiếng Việt. Tôi đưa
nhiều người ngoại quốc tới gặp ông
đều được trả lời bằng
tiếng Việt, rồi tôi thông dịch lại
bằng tiếng Anh, và đều được
thỏa đáng. Sau đó tôi c̣n đưa
một ông Đại úy Ấn độ tới th́ cũng
như mấy lần trước nghĩa là khi hỏi
bằng tiếng Ấn, th́ được trả
lời bằng tiếng Việt. Sau đó ông khuyên tôi
là đừng mắc công đưa người
ngoại quốc tới nữa. Ông tu đến
mức là đọc được ngôn ngữ
xuất phát từ tư tưởng con người.
Người ta nói ǵ mặc kệ, nhưng ông đọc
được tư tưởng của họ, nên
biết họ muốn hỏi về việc ǵ, v́ tư
tưởng họ phát ra lời nói ấy. Rơ ràng là
Sư phụ tôi đă tu đến cái mức cao thâm
rồi. Sư phụ đă chỉ dạy cho tôi cái pháp
gọi là “Ngũ hành tương sanh tương
khắc” để đở đạn, không bị
đạn vô trong người. Sư phụ c̣n cho tôi
biết, khi ḿnh khấn vái cái ǵ ḿnh không cần
phải nói ra bằng miệng, ḿnh chỉ nghĩ trong
tư tưởng rồi chấp tay làm thinh khấn vái
th́ cái lời khấn cầu của ḿnh sẽ
tới người nghe liền, chỉ nh́n cái tư tưởng
của ḿnh là người ta biết ngay, chớ không
cần phải nói ra bằng lời. Luyện pháp “Ngũ
hành tương sanh tương khắc” là để
khi đạn bắn vô người th́ nó bị
trợt ra ngoài, nhưng muốn luyện cái pháp môn
nầy phải mất công phu nhiều lắm. Sư
phụ tôi là người không những biết pháp mà
c̣n biết bùa chú nữa. Chẳng hạn như có hôm,
đang ngồi nói chuyện trong bàn tṛn trước sân
am của ông, th́ có một anh du đảng người
Tàu say rượu bước vô nói bậy, nói bạ
rồi tự kéo ghế ngồi. Sư phụ tôi nói
:“Chú đi ra ngoài chơi !” Nó nói: “Ngộ không
có li !” Ông đưa cái tay lên như vầy (giống
như tung chưởng ra) tức th́ tên nầy
bật ngữa ra sau, lăn mấy ṿng, hoảng
hồn chạy tuốt ra ngoài. C̣n bên trong am, tôi
có cho ông một cái bàn viết bằng sắt của
Mỹ với cái ghế c̣n rất mới, ở phiá
sau lưng ông có một cái tượng Phật
bằng vàng do người Tàu đem cúng, nặng năm
lượng để lộng trong một cái hộp
bằng kiếng, khiến ai nh́n cũng ham muốn.
Nhiều đứa ăn trộm tới định
đánh cắp, nhưng khi vừa đưa tay ra th́
đứng ngay tại đó luôn cho tới sáng, đợi
ông thức dậy xin tha mạng. Ông đưa tay
giải bùa cho nó, nó té xỉu xuống đất
nằm một hồi rồi tỉnh dậy chạy
đi, nên thấy ông Phật bằng vàng mà không ai
ăn cắp được ! C̣n
tiền của ông để hai bên hộc bàn không bao
giờ khóa, mà không ai dám ăn cắp. Ông chuyên môn
chữa bá bịnh, bịnh nào ông chữa cũng
hết ! Tuy nhiên, bịnh nào không chữa khỏi
th́ ông nói chữa không được, ông nh́n
mặt bịnh nhân là biết chữa được
hay không (người Tàu trong Chợ lớn tin ông ghê
lắm), bịnh mà mấy bịnh viện chê đều
đem tới cho ông. Tôi đă chứng kiến
việc nầy nhiều lần, ông hỏi người
bịnh đang nằm ngáp ngáp, ông vừa hỏi
vừa lấy tay rờ lên trán rồi ông để
hai ngón tay dưới ḷng bàn chân bấm vô một lúc
là thấy hết ngáp ngáp. Ông nói: “Ngồi dậy
!” là bịnh nhân tức th́ ngồi dậy. Kế
đó, ông hỏi thẳng bịnh nhân bịnh t́nh
thế nào, rồi viết cho mấy toa thuốc, căn
dặn kỹ lưỡng cách cho uống như
thế nào. Nhưng trước khi chữa bịnh, ông
thường đặt vần đề tiền, ông
bảo đảm bịnh nầy có thể chữa
sống hai năm nữa, hay sáu tháng nữa, hoặc
một năm nữa. Ông thường nói thẳng
vấn đề tiền bạc, nếu thân chủ
đồng ư là ông chữa, tùy theo căn bịnh mà
ra giá, có thể là năm trăm ngàn, hay tám trăm ngàn,
hoặc hơn nữa, và cũng tùy theo kinh tế
của gia đ́nh người đó. Mà hễ khi nói
đến tiền là phải chạy ngay về nhà
đem tiền đến th́ ông mới chịu
chữa, thường th́ người giàu lấy
nhiều, c̣n người nghèo th́ lấy ít. Khi
nhận tiền, ông không cần đếm lại
cứ thẩy vô hai hộc tủ đó. Số
tiền nầy ông không xài, ông có một lô đệ
tử nghèo khổ đang làm thuê vác mướn,
nếu vợ con gặp đau yếu th́ tới ông,
ông chữa trị giúp cho mà c̣n đưa tiền
để về nhà lo chạy gạo, hoặc mua
thuốc ! Đám nghèo khổ tới chữa
bịnh đều được ông cho tiền. Có
một việc ông làm cho tôi sợ, là từ năm
1970 đến 1974, mỗi sáng sớm ngày Rằm tháng
Bảy là tôi phải đi vô am của ông, đem ông
vô nhà sau tắm rửa cho ông. Lúc bấy giờ ông
già lắm rồi, người của ông c̣n chừng
hơn hai mươi kư lô, c̣n cái ṿng bụng của
ông từ đằng trước ra phía sau lưng th́
không bằng một gang tay. Thân thể ông chỉ như
bộ xương, v́ từ năm 1970 đến năm
1974 ông không c̣n ăn ǵ nữa nhưng đi đứng
vẫn b́nh thường, mỗi ngày chỉ uống
mấy tách nước trà vậy thôi ! Đúng
49 ngày sau lúc 12 giờ trưa th́ người trực
ở đó cuốn mùng lên, lấy mền ra th́ xác
ông vẫn nằm nguyên đó, nhưng từ từ tôi
thấy mấy ngón tay ngón chân của ông bắt đầu
nhúc nhích. Sau đó, ông ngồi bật dậy, lấy
hai bàn tay chà lên mặt mấy cái, rồi cười
“hả hả” trở lại tươi tỉnh b́nh
thường như cũ. Lúc ông chết giả, tôi có
đưa BS Khả tới thử nghiệm. Ông
Khả đem máy móc y khoa tới, ông dùng máy đo áp
suất máu (tâm động đồ) th́ chỉ
thấy một đường chạy ngang tức là
tim không c̣n đập, nhưng khi dùng máy đo
Encephalogram kiểm soát bộ óc coi có c̣n làm việc
hay không, th́ thấy nó chạy b́nh thường
giống như người đang nằm ngủ. (Bác
sĩ Khả lúc bấy giờ cũng là đệ
tử của ông). Tới
tháng Giêng năm 1974 th́ ông nói trước: “ Ngày
Rằm tháng Bảy nầy, Thầy sẽ về núi
!”. (về núi tức là chết thiệt !). Ông
nhắn cho 12 người Đại đệ tử
phải có mặt đầy đủ ở bên ông.
Đến chừng đó, tôi mới biết tôi là người
Đại đệ tử thứ 12. Ông hẹn 10
giờ mới được gặp mặt, ai tới
trước cũng không được vô. Đúng 10
giờ, chúng tôi bước vô, th́ ông ngồi dậy
với tư thế xếp bằng. Ông nhắn
nhủ rằng :“Cái đời khổ sắp tới
rồi ! Các con phải rán giữ ǵn tâm ư, làm điều
thiện và lo tu hành !” Ông c̣n nói thêm một câu
nữa :“Trước khi đi về thế giới
khác, các con nên biết là 49 ngày của 4 năm sau cùng
nầy, Thầy đă đi về cơi khác (Thầy
để cái xác nằm ở đây nhưng linh
hồn về cơi khác), đường đi nước
bước là Thầy rành lắm, nơi cơi khác đó,
nơi thế giới khác đó đều có mặt
những vị đă tu thành chánh quả ! Qua sang
năm (tức năm 1975) th́ miền Nam sẽ gặp
đại nạn ! Người nào tiền
nhiều th́ tội nhiều, người nào chức
trọng quyền cao chừng nào th́ tội càng
nặng chừng nấy ! Ḥa thượng, sư săi,
ni cô, cha cố, d́ phước tất cả mọi người
đều phải tự cày cấy, trồng trọt
mới có cái ăn. Dân chúng không c̣n có khả năng
cúng dường nữa, và cái đại nạn
nầy sẽ trên dưới 30 năm rồi cơ
trời mới chuyển, tự nhiên cái nạn nó
mới hết !” (Khi Thầy tôi nói “trên dưới
30 năm” th́ phải hiểu theo Toán học : trên 30
năm là 35 năm, dưới 30 năm là 25 năm,
khoảng 10 năm đó là con số “du di” lên
xuống cho nó chẳn ! Năm nay là 32 năm
rồi th́ hy vọng 3 năm nữa mới hết cái
đại nạn !). V́
vậy, khi gần tới ngày 30 tháng Tư năm 1975 tôi
đă cho vợ con tôi lên máy bay đi Mỹ trước
theo đám Cố vấn Mỹ, mà không cần
giấy tờ ǵ hết, v́ lúc đó tôi đang làm
Thứ trưởng của Phủ Quốc vụ khanh
đặc trách cứu trợ nạn nhân định
cư. Tôi nghĩ, tôi có khả năng nhịn đói
cả tháng nên có thể vô rừng ở hoặc
đi bộ qua Thái Lan cũng dễ dàng nên quyết
định ở lại. Cuối cùng, như một phép
lạ tôi được đưa lên trực thăng
tại DAO ở Tân sơn Nhứt bay ra hạm đội
Mỹ vào giờ thứ 25, với tư cách là
một Mục sư Tin lành chớ không phải là
một Thiếu tướng của Quân lực VNCH./. (
Bai do VHP chuyen ) |