Triết Lư Củ Khoai
(2)

Bài của Tôn Thất Phú Sĩ

C̣n nỗi mừng nào hơn, tôi trả lời bằng ánh đèn pin yếu ớt. Tôi hiểu, tôi hiểu, tôi xin cấp cứu v́ ghe nước vào nhiều đang lâm nguy, chúng tôi là những người tị nạn khởi hành từ Việt Nam . Chiếc thương thuyền Cargo của Pháp đă từ từ hiện rơ  trước tôi, bảo chúng tôi đợi để xin lệnh trên. Cuối cùng tôi được phép cặp vào hông tàu, những ánh đè pha sáng rực chỗ ghe tôi và nhiệm sở cấp cứu được thực hiện, chúng tôi lên tàu được b́nh yên tất cả. Chiếc ghe vượt biên bị đánh ch́m, tôi là người lên cuối cùng với cái la bàn kỷ niệm, những tiếng hoan hô vang dậy, mọi người ôm lay tôi, công kênh tôi lên , tôi sung sướng vô cùng, niềm hạnh phúc vô biên, tôi đă đưa 108 thuyền nhân đến bến bờ tự do. Đêm hôm đó, băo cấp 5, qua cánh cửa kính của căn pḥng ấm cúng bỗng tôi rùng ḿnh, hơn 10 năm hải nghiệp, lang thang khắp biển Đông nầy, lần đầu tiên tôi biết sợ người t́nh Biển yêu dấu của tôi nỗi giận. Triết lư củ khoai cho tôi một ư chí, một niền tin và hy vọng.

Đến trại tỵ nạn Hồng Kông, tàu Pháp vớt nên không vào trại Cấm, chúng tôi được cư ngụ tại một khách sạn ở Kao Luong, mỗi ngày được đi dạo phố vài giờ, chờ phỏng vấn để định cư một nước thứ ba. Tôi lại tiếp tục sống với triết lư củ khoai của tôi, tại đây ai cũng nóng ḷng, ngồi đứng không yên, mong được định cư sớm, tôi đem triết lư củ khoai ra dụ: "Hăy xem những tháng ngày ở đây như những ngày nghỉ hè dài hạng, cơm nước,  áo quần, vật dụng linh tinh không thiếu một cái ǵ do Toà Đài Sứ Pháp đài thọ, với tôi chỉ cần một bộ áo quần che thân là lịch sự  rồi, sẳn có giáo sư chính cống người Pháp đến dạy Pháp văn hàng ngày, lo học sinh ngữ nầy để xử dụng mai sau, dù có nóng ḷng lo âu đến mấy cũng không đi định cư SỚM  hơn một giờ ,dù có tà tà  b́nh tâm chờ đợi cũng không đi  định cư CHẬM hơn một giờ. Không ai nghe lời tôi, tất cả đều bồn chồn nôn nóng, mỗi chiều tôi lên đồi nằm ngủ, mơ màng theo tiếng gió vi vu, trời nóng, xuống biển tắm, bắt những con dă tràng xe cát mà nhớ biển Đông, nhớ Huế, nhớ Đà Nẵng, nhớ Nha Trang cùng các bạn bè thân yêu từ thuở nào. Chiều về ăn cơn thật no, đầy đỷ chất bổ  dưỡng , đêm đêm đốt lửa nhắc chuyện Sài- G̣n, tâm hồn vô cùng thảnh thơi, không bận tâm lo sinh kế, không bó buộc thời giờ, không chuyện ǵ khẩn cấp phải làm, thảnh thơi vui thú, tiền bạc lợi danh không màng, hạnh phúc nhất là không c̣n gặp những tên Công an khó chịu, tôi tưởng ḿnh đang ở cơi thần tiên. Thời gian ở đây như ngưng lại trong cái huyền ảo của cuộc đời, cuộc sống trở về với thiên nhiên vô tư như trẻ thơ, tôi là người sung sướng nhất trên cơi đời nầy, tôi nâng niu hạnh phúc trong ṿng tay, Hạnh phúc ... Hạnh phúc. Tôi chợt nhớ bài luận  luân  lư ngày xưa: "May thay, ngoài Hạnh Phúc ra, đời c̣n có cái ǵ khác nữa . Xin thầy dạy Việt Văn ngày xưa nhận nơi đây ḷng tri ân của tôi, nhờ bài luận, tôi đă t́m ra kim chỉ nam cho đời tôi: TRIẾT LƯ CỦ KHOAI.

Đến Pháp giữa thủ đô Paris đồ sộ, tôi đi lang thang t́m việc, qua đây vào mùa Đông giá lạnh, tuyết giăng đầu, tuyết rơi trên tóc, rơi trên vai, đi hoài đi huỷ t́m chưa được việc, tôi vẫn thấy ḿnh là kẻ may mắn, sung sướng v́ đang sống trong thế giới TỰ DO mà nhiều người thèm muốn, bạn bè bà con đang khắc khoải trong gông cùm Cọng Sản, nhiều  người đă chết, đă bị cướp bóc hảm hiếp giữa biển Đông. Từ từ rồi sẽ có việc, ḿnh cứ tà tà hưởng tiền trợ cấp, các con tôi đă được vào trường nhập học với bạn bè, mỗi sáng thức dậy có một niềm vui biết rằng ta c̣n sống thêm một ngày trong thế giới tự do, trong b́nh an của tâm hồn, không c̣n lo âu sợ sệt như những ngày c̣n sống trên quê hương, nhờ thất nghiệp hôm nay được dậy muộn, trong chăn ấm nệm êm mơ màng nghĩ đến những người bạn thân, đến những ngày rong chơi giang hồ đây đó, ḷng hoài hương làm nhiều người khắc khoải thương nhớ khôn nguôi, làm đau nhức con tim của kẻ xa nhà. Riêng tôi, tôi biến thành  t́nh cảm dịu dàng khi nghe một bản nhạc, đọc một bài thơ thanh thảng nỗi ḷng mà ngỡ ḿnh đang đi vào cơi  thần tiên. 

 Một hôm t́nh cờ đi ngang qua một Vơ đường Thái Cực Đạo, đứng nh́n các em trong bộ vơ phục cổ truyền đang luyện tập, chợt nghĩ tại sao không thử thời vận, tôi t́m đến vị Giám Đốc xin làm phụ Huấn luyện Viên vơ thuật, sau khi nộp hồ sơ, bằng cấp và trắc nghiệm, tôi được thu nhận. Tôi đă có việc làm, tuy là nghề tay trái nhưng thấy bằng ḷng và vui vẽ, hàng ngày chơi đùa và luyện tập với các môn sinh,đủ màu da: đen, trắng, vàng... Thế là ḷng tràn niềm vui phơi phới, cuộc sống nơi xứ lạ quê người đă bắt đầu thích hợp với chúng tôi, một gia đ́nh nhỏ bé, đoàn tụ, tiếng cười tiếng nói rộn ră vang lên, tôi càng tha thiết với triết lư củ khoai của tôi, gia đ́nh đă an cư, mọi việc đâu vào đấy với đồng lương khiêm tốn mà tôi đă thâu nhập được hàng tháng.

Con tôi đă vững vàng theo kịp được chương tŕnh học, tôi mừng như đă cho được các con tôi đi du học tại Pháp, điều mà tôi thường mơ ước từ thời c̣n nhỏ. Tôi yêu nước Pháp từ lúc  không vào được Đệ Nhất Quốc Học, phải học ở trường ḍng La San PELLERIN Huế, theo các Frère Sư Huynh mà ước ao một ngày nào đó được vào Đại Học Paris, bây giờ các con tôi đă thay tôi đi vào con đường tôi ấp ủ ngày xưa, tôi không c̣n ǵ ân hận trong khi ngồi ôn lại cuộc đời, cát bụi rồi sẽ trở về với cát bụi, phải chăng cả cuộc đời ḿnh nó đạm bạc, giản dị như một củ khoai, thế mà có người thân yêu nhất của tôi lại chống đối cái triết lư nầy, cho tôi là yếm thế, buông xuôi theo số phận, không có tranh đấu để cho cuộc sống được vươn lên. Nhưng thử nh́n lại xem, nếu triết lư củ khoai của tôi không đúng th́ làm sao tôi có được một gia đ́nh hạnh phúc thật sự như  hôm nay, thường thường ít người thấy được cái hạnh phúc mà ḿnh đang có, đôi khi c̣n thả mồi bắt bóng, từ đó tôi rất thương yêu vợ tôi , v́ nghĩ rằng trên  đời nầy c̣n có tỷ đàn bà tệ hơn vợ ḿnh gấp trăm lần, không chịu thông cảm với chồng để dắt d́u nhau trong cuộc sống lứa đôi. Vợ tôi tuy không chấp nhận triết lư củ khoai của tôi nhưng vẫ cảm thông và thương yêu chồng, không gây gổ, cằn nhằn, thôi đó cũng là cái Hạnh Phúc cho ḿnh, mong rằng đường dài mới biết ngựa hay   .Tôi biết rất rơ, rồi đây con cái trưởng thành, mọc cánh bay đi, hai mái đầu lủi thủi với nhau trong cái nhà hiu quạnh, chắc chắn lúc đó NÀNG sẽ thủ thỉ bên tai CHÀNG: Em phục cái triết lư củ khoai của anh. T́nh yêu sẽ đưa chúng tôi vào mộng đẹp.

Tôi trở về với kỷ niệm Một Thời Phan Châu Trinh Đà Nẵng, học sinh Phan Châu Trinh chúng ta ai cũng có một thời, tôi kể thời của tôi để các bạn cùng tôi lặn ngụp trong cái dĩ văng dễ thương nầy, để từ đây các bạn sẽ thấy Hạnh Phúc lúc nào cũng ở bên cạnh ḿnh, chỉ v́ ḿnh vô t́nh không nắm bắt được nó thôi. Một buổi chiều gió mát thơ mộng nơi ngoại ô Paris nầy, tôi treo cái vơng ngoài vườn, nằm đong đưa mà nhớ tới thời trẻ dại.  

Tôi thi đậu vào Đệ Thất trường Công lập 1953, trẻ con cả xóm thèm thuồng cái Đệ Thất của tôi lắm, mỗi lần chạy lon ton theo mẹ để đi thăm nhà nầy nhà nọ, tôi hănh với lời khoe của me.... Nó đậu vào Đệ Thất  Phan châu Trinh rồi  đó , các bạn thấy có oai không, có vài người bạn nhà quê của mẹ tôi hỏi : Phan châu Trinh là trường nào ? Trường công lớn nhất ở Đà Nẵng, năm nay khai giảng năm đầu tiên , chưa nghe nói đến sao?     Một buổi mai hôm ấy, giống như một buổi mai đầy sương Thu và gió lạnh của Thanh Tịnh, chúng tôi từng nhóm một, từng lớp một, sắp hàng đứng trước văn pḥng, thầy GI đọc danh sách học tṛ từng lớp, mỗi lớp có một giáo sư chính nhận học tṛ để vào lớp, lớp tôi Đệ Thất 2 (hồi đó chỉ có một lớp Đệ Ngũ, hai lớp Đệ Lục, học nhờ tại trường Tiểu Học Đà Nẵng trong thời gian chờ xây cất trường mới, và hai lớp Đệ Thất vừa tuyển vào niên khoá nầy). Giáo sư  HỒ VINH dạy Việt Văn dẫn chúng tôi vào lớp   , một năm học của những đứa học tṛ bở ngở được lên bậc Trung học. Lo âu đủ thứ nhưng được vài tuần chúng tôi đă quen nếp sống mới và bắt đầu học hành, chơi đùa, nghịch ngợm.

Đệ Thất 2 có tất cả 43 học sinh, 16 gái và 27 trai trên danh sách của lớp nhưng mỗi khi điểm danh lại là 15 gái 28 trai, lúc nào cũng vậy, các thầy cô đều ngạc nhiên, thật ra có một nữ sinh tên NGUYỄN VĂN NHƯ Ư,  con gái mà tên con trai chữ lót Văn nên mới có sự hiểu lầm như vậy. Trong lớp lại có nam sinh tên là LƯƠNG VĂN Y, lúc nào hai tên nầy cũng " cuối  sổ điểm danh  v́ vần Y, các kỳ thi Trung học sau nầy, cô cậu lúc nào cũng ngồi gần nhau nên thi đậu cùng đậu cả hai và thi rớt đều thi rớt một cặp. Chúng tôi thường hay chọc ghẹo và kết đôi cặp nầy, thuở đó mà bị kết đôi thành vợ chồng th́ mỗi lần bị chọc là hai cái mặt đỏ rần v́ dị và quê.    

Tháng 10 năm 1953, thành phố tổ chức một cuộc biểu t́nh để hoan hô Thủ Tướng NGÔ Đ̀NH DIỆM và đả đảo vua BẢO ĐẠI, để chuẩn bị cho một cuộc trưng cầu dân ư vào năm 1954. Chia cắt đất nước, miền Bắc Cọng Sản, miền Nam bầu Ngô đ́nh Diệm lên làm Tổng Thống Việt Nam Cọng Hoà. Tất cả dân thành phố đi biểu t́nh trong đó có các trường học tham dự, Phan châu Trinh được đi hàng đầu trong đoàn học sinh của các trường, đoàn biểu t́nh diễn hành khắp thành phố để hoan hô, đả đảo, cuối cùng tụ về trước Toà Thị Chính để đọc diễn văn và  hoan hô đả đảo tiếp. Lúc nầy chúng tôi đă thấm mệt v́ nắng, may có mấy em bán cà rem đựng trong các b́nh tẹt mốt, chúng tôi mua một đồng hai cây giải khát, học tṛ nếu để cho nghỉ th́ phá phách chứ không bao giờ ngồi yên, tôi ngứa tay ngứa chân bắt đầu chọc ghẹo bạn bè, lấy hai tờ giấy viết Ngô đ́nh Diệm và Bảo Đại, dán Bảo Đại sau áo anh Y và Ngô d́nh Diệm sau áo chị Ư. Mỗi lần trên loa phóng thanh  đả đảo Bảo Đại th́ chúng tôi đả đảo anh Y, hoan hô Ngô đ́nh Diệm th́  chúng tôi hoan hô chị Ư, đả đảo hoan hô được vài lần th́ thầy Vinh biết được, thầy tái mặt vội vàng xé hai tờ giấy ,  các em đừng có đùa nữa, nguy hiểm.

Chúng tôi mê lối giảng Việt Văn của thầy Vinh, giọng Huế nhẹ và hiền, thầy dáng người ốm và cao, giảng bài rất hay lôi cuốn bọn tôi trong lớp học nhất là các chuyện: Nhị Thập Tứ Hiếu, chuyện Trê Cóc... Thầy rất thương học tṛ, nhất là lớp tôi, thầy là giáo sư chính, chúng tôi thương thầy như một người anh, mỗi glần tới giờ Việt Văn là chúng tôi chờ thầy dạy xong, c̣n 10 phút thầy kể chuyện đời xưa, đến khi tiếng kẽng do ông Cai trường gơ một tiếng Kẹng. th́ câu chuyện đến hồi hấp dẫn và bắt buột phải chấm dứt để lần sau kể tiếp, trong cái nuối tiếc chờ đợi đến giờ Việt Văn sau, do đó giờ Việt Văn lúc nào cũng đầy đủ không thiếu một tṛ. 

Rồi một buổi sáng, thầy Vinh đang kể chuyện cho chúng tôi nghe, những người Cảnh Sát ập vào bắt thầy v́ tội thầy hoạt động cho Việt Minh Cọng Sản, tôi không làm sao quên được nét mặt buồn buồn của thầy nh́n chúng tôi, trong đám học tṛ có đứa đă khóc, tôi giận quá v́ Cảnh Sát đă bắt thầy tôi, tôi không biết làm sao, lấy cây viết máy, mở ống bôm mực xịt vào sau lưng ông Cảnh Sát , ông  Cảnh Sát doạ bắt,  tôi  đâu có sợ ,  v́ giận quá nên tôi có lời nói thầm  không đẹp với ông ta .    Từ ngày xa trường Phan châu Trinh, hơn 40 năm qua tôi chỉ gặp lại được thầy Ngọc, thầy Ṭng và thầy Ấm , những lần gặp gỡ rồi lại chia tay, nhưng các thầy vẫn c̣n đó, 10 năm, 20 năm sau và nhiều năm sau nữa, một ngày nào đó tôi vẫn hy vọng sẽ gặp lại lần thứ hai, nhưng có một người thầy như một người mẹ, tôi gặp một lần rồi Người ra đi vĩnh viễn.

Mùa Phật Đản năm 2000, tôi và gia đ́nh đi chùa KHÁNH ANH lễ Phật, chùa Khánh Anh nằm ở ngoại ô Paris, nói là chùa nhưng nó không giống như  những chùa ở quê ḿnh, đến đây chỉ lễ bái cúng kiến và hội họp chính trị, tôi không thích mấy. Mỗi lần nghĩ đến mái chùa tôi lại nhớ câu thơ của ai đó : Mái chùa ấp ủ hồn dân tộc , tôi không thể t́m được những h́nh ảnh mái chùa xưa: chùa Phổ Đà, chùa Nguyên Thuỷ Đà Nẵng; Từ Đàm, Diệu Đế Huế xa rồi, tất cả đều ch́m trong quá khứ mông lung. 

Tôi không ngờ, cuộc đời có những cái bất ngờ mà ḿnh không thể ngờ được, tôi đă gặp lại Cô LIỄNG dạy Pháp Văn ngày xưa, các bạn, ai đă học với Cô LIỄNG, vẫn c̣n nhớ, Cô là một cô giáo hiền, linh hoạt vui tính mà c̣n là một người mẹ của chúng ḿnh. Cô không bao giờ  la rầy học tṛ, chỉ nhỏ nhẹ khuyên răng khi tụi ḿnh phạm lỗi hay lười biếng học hành, với Cô tụi ḿnh là học tṛ, là con của Cô, thật sự Cô xem tụi ḿnh là con trong ḷng cô giáo hiền. Ngày tôi gặp lại Cô, Cô đă già lắm rồi, hai mẹ con nhận ra nhau trong mùi hương thơm dịu dưới chân tượng Phật, Cô lấy tay xoa đầu tôi,  xoa đầu đứa học tṛ ngỗ nghịch ngày xưa, Cô chỉ nói được: Cô không ngờ . Cô khóc, có lẽ qua h́nh ảnh của tôi, Cô đă sống lại thời làm cô giáo ngày xưa , cũng giống như tôi bây giờ, đang ngồi viết những ḍng chữ nầy gởi đến Thầy Cô và các Bạn, sống lại một thuở vàng son lưu luyến đẹp nhất trong đời: Tuổi Học Tṛ. Thời Dạy Học.

Chia tay Cô trong lời hẹn gặp lại, Không ngờ hai tháng sau tôi t́m Cô  th́ Cô đă bỏ tôi ra đi vĩnh viễn, c̣n nỗi buồn nào hơn, gặp lại có một lần là lần cuối rồi xa ngàn đời.

Cô ơi! Người Thầy dạy Pháp Văn đầu đời của con, mỗi mùa Phật Đản đến, con sẽ về chùa Khánh Anh để thắp hương tưởng niệm Cô, di ảnh và tro cốt của Cô được thờ tại đây. Các bạn thân mến, ai có dịp ghé qua Paris , t́m về thăm Cô, thắp nén hương ḷng để dâng lên Người Thầy thân mến.

Tôi măi mê về dĩ văng, triết lư củ khoai  lại đi lung tung, điều mà tôi muốn nói, tất cả dĩ văng dù đẹp hay xấu, dù sung sướng hay nhọc nhằn, dù vinh quang hay tủi nhục, tất cả đều qua đi và vẫn đẹp trong ḷng ta; là nhớ nhung, là kỷ niệm, hồi tưởng lại để t́m hạnh phúc cho mai sau.

Đời tôi lại một lần nữa đổi thay. T́nh cờ tôi  đem dịch  Bằng tốt nghiệp Hải Quân  Ngành Cơ  Khí  của tôi , Người  dịch  của  Toà  dịch là  Kỹ Sư  Cơ  Khí  , thế là  tôi  đi xin việc và  được  một  hăng  nhận , sau đó cho tôi học  tu nghiệp một năm, sau khi học xong tôi trở về hảng làm việc với lương Kỷ Sư. Thế  là tôi  có tiền xây dựng cơ nghiệp trên mănh đất tạm trú này, niềm hạnh phúc tràn ngập trong tôi, mát cả tấm ḷng như  giữa buổi trưa hè nắng cháy được uống một ly nước dừa của Miền Nam thanh b́nh thuở đầu đời của mái trường Phan Châu Trinh. 

Sau khi đọc triết lư củ khoai của tôi, không hiểu các bạn nghĩ ǵ, đúng hay sai chuyện không quan trọng, điều mà tôi thường nghĩ đến: "Nếu tất cả sự thật hôm nay là giấc mộng, sáng mai thức dậy thấy ḿnh vẫn c̣n nằm trong nhà tù Cọng Sản thật  là một điều tiếc nuối, bởi v́ đó chỉ là một giấc mơ, tại sao ta không mơ một giấc mơ tuyệt đep".  .. .

  Nếu các bạn muốn thăm Cô LIỄNG, xin ghé về:

 Địa chỉ của Chùa KHÁNH-ANH:
14 Avenue Henri Barbusse
92220. Bagneux  FRANCE
Tel: 0146558444
Email: khanhanh@freefr.    

  Tôn Thất Phú Sĩ 

trở lại