Tuổi Mộng |
Quê
Nội tôi nằm bên gịng sông Hương, nước
nguồn từ núi Ngự B́nh xuôi chảy về gịng
sông chính trước khi ra biển, gịng nước
chảy ngang qua Nam Ḥa đem phù sa bồi đắp thành
một làng nhỏ về phía tả ngạn tên
gọi là làng Chuồng, tôi không hiểu tại sao
gọi là làng Chuồng, một lần nào đó, tôi
hỏi Nội tôi, thưa Nội, tại sao gọi là
làng Chuồng, Nội nói, cháu để ư thấy
bữa cơm nào nhà ḿnh cũng ăn cá chuồng chiên,
bởi v́ làng ta là một làng đánh cá, chuyên
về đánh cá chuồng. Buổi sáng tinh sương
người dân chài đưa ghe ra biển, buổi
chiều ghé về đầy ắp cá chuồng, do
đó từ thuở xa xưa đă có tên là làng
Chuồng, (cá chuồng là loại cá ḿnh nhỏ và dài,
có hai cánh, sống ngoài biển và di chuyển từng
đàn, bơi xuôi theo con nước, chốc chốc
lại bay là là trên mặt nước, cá chuồng
được mổ bụng lấy hết bộ ḷng,
nhồi hành, tỏi, ớt rồi gập con cá
lại, sau đó cột chặt bằng lá hẹ và
đem chiên, ăn với nước mắm nhĩ
rất là b́nh dân và ngon). Gia đ́nh bên Nội tôi
sinh sống ở đây trong thời kỳ Việt
Minh, sau đó trở về Huế, Huế mới chính
là quê Nội, nơi đây có nhà thờ lớn
của tổ tiên, nằm gần cuối đường
Bạch Đằng, trước mặt là Đông Ba với
ḍng sông nhỏ uốn quanh, khu vườn nhà tôi
rộng lớn được bao bọc bởi hàng rào
giâm bụt, đầy cây ăn trái, vú sữa, măng
cầu, măng cụt, mít, ổitrái cây bốn mùa, mùa
nào cũng có trái chín để cúng tổ tiên, nơi
đây tôi được sinh ra và lớn lên trong
thời thơ ấu, và mái trường đầu
đời của tôi, ê a học đánh vần
chữ Quốc ngữ, ngôi trường nhỏ
nằm cạnh bờ sông, tôi đă học từ
lớp Năm đến lớp Nhất bậc
tiểu học, truờng tên là trường THẾ
LẠI THƯỢNG. Khu
nhà tôi ở nằm cuối nhánh sông từ chợ
ĐÔNG BA chảy về, muốn qua sông chỉ có
một chiếc cầu độc nhất là cầu
ĐÔNG BA, phần đông là nhà lá, xen lẫn vài mái nhà
ngói đầy rong rêu, ngôi nhà thờ Tộc tôi vươn
lên từ luỹ tre xanh, mái ngói cong cong chạm
những con rồng uốn khúc, ông Nội tôi đă
mất lâu rồi, ngày xưa ông làm Thượng Thư
bộ Lễ triều Nguyễn, do đó ai cũng
gọi bà Nội tôi là Mệ Thượng Lễ. Gia
đ́nh tôi gồm ba má và đứa em trai thua tôi 3
tuổi, được Mệ Nội cho ở phía sau
nhà thờ. Ba tôi được về làm Chef gare xe
lửa HUẾ, mẹ ở nhà đi chợ nấu cơm,
chiều chiều chờ Ba về trên chiếc xe đạp
cũ kỹ lúc nào cũng có một chút quà nhỏ
treo ṭn ten truớc ghi đông xe, thường thường
Ba ghé tiệm Lạc Sơn bên khu chợ từ
cầu Tràøng Tiền quẹo trái mua nửa con vịt
quay. Tôi thích nhất là vườn cây măng cụt,
mỗi trưa hè, gió hiu hiu mát, tôi trèo lên cây măng
cụt hái trái ăn, lựa những trái có nhiều
tai vây quanh một chùm như một cánh hoa mai, bao nhiêu
tai th́ trong có bao nhiêu múi. Gịng sông êm đềm
chảy, uốn quanh xóm nghèo, tôi cùng lũ trẻ
trong xóm chơi đùa bơi lội, tuổi thơ êm
ả trôi theo gịng sông, và mùa hè năm nay tôi đă lên
lớp 5 (1949), cả nhà chuẩn bị cho tôi
nhập học trong mùa tựu trường sắp
đến. Rồi
một buổi mai hôm ấy, nắng d́u dịu
chảy dài trên sông vắng, vài đám lục b́nh
hững hờ trôi, gió đầu thu quyện lấy bước
chân non, thằng bé con lên 6 những tưởng như
ḿnh đă lớn lắm rồi, quần sọt, áo
che-mi trắng, mang giày tây, vai mang cạc tắp.
Ngỡ ngàng theo mẹ, chân run run trên con đường
quen thuộc, tim hồi hộp như sắp làm
một việc ǵ quan trọng. Mẹ tôi miệng cười
tươi, mắt âu yếm nh́n con, như thầm
bảo, can đảm lên, can đảm lên con: Hôm nay
tôi đi học. Ngôi
trường tôi là một mái đ́nh làng, nơi
đây được thơ O^ng Thần La`ng và để
hội họp đ́nh đám trong những ngày lễ,
sau nầy trong làng sửa chữa lại thành một
gian nhà dài, chia ra làm 5 lớp học và một văn
pḥng, tấm bảng màu vàng được treo lên: TRƯỜNG
Tiểu Học THẾ LẠI THƯỢNG. Tôi
được vào học lớp Năm (5) là lớp
nhỏ nhất, dành cho những học tṛ vừa
mới biết đánh vần chữ Quốc ngữ,
sau năm năm học từ lớp Năm đến
lớp Nhất th́ thi bằng TIỂU HỌC. Ngôi trường
xa bờ sông và ẩn trong một khu vườn đầy
hoa dại, học sinh toàn trường lúc đó
vỏn vẹn chừng 50 đứa, lớp của tôi
h́nh như đă chiếm 20 đứa rồi, cả
trai lẫn gái học chung. Cô giáo trạc tuổi
Mẹ tôi, nhưng không hiền và dễ thương
bằng Mẹ, cô bắt học tṛ phải ngồi
ngay ngắn, không được cúi sát vào tập
vở và nhất là không được nói chuyện
hay khóc nhè.Thời thơ ấu giờ đây xa quá, tôi
c̣n nhớ mang máng có lần tôi đang ngồi
học, tập đánh vần và học thuộc ḷng
câu: Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn, thằng
nhóc ngồi bên cạnh không biết v́ sao thúc cùi
chỏ vào bụng tôi, giận quá, tôi thoi vào mặt
nó một thoi, bị chảy máu răng, nó la làng,
thế là tôi bị bắt qú, có một điều
thật ốt dột, trong lúc qú tôi tè trong quần lúc
nào không hay, nước tiểu chảy dài trên
nền gạch, cô giáo phải thay quần áo cho tôi
(mẹ rất cẩn thận lúc nào cũng bỏ
một bộ đồ pḥng hờ trong cặp), lau
sạch sẽ và cho tôi trở lại chỗ
ngồi). Năm
tôi học lớp Nhất, năm cuối cùng của
bậc tiểu học, một biến cố đau thương
đă xảy ra trong thành phố Huế, ai đă
từng sống với Huế, chia từng nỗi
niềm thương đau với Huế, làm sao quên
được trận lụt năm 1953, trí óc non
nớt của tôi không làm sao phai nhạt được
cảnh thương tâm xảy ra lần đầu tiên
trong đời. Cái đêm hôm đó, dân Huế
ngủ một giấc dài, bừng con mắt dậy
cả thành phố ngập trong mênh mông nước, nước
lũ đục ngầu đầy phù sa, từ trên
nguồn NGỰ B́nh đổ xuống, cuốn bao nhiêu
xác chết của người, thú vật và cây
rừng, nhà cửa theo gịng nước trôi ra cửa
biển THUẬN AN. Nước lên dầnlên dầnnước
ngập mái nhà, xung quanh là biển nước, chỉ
thấy trơ trọi vài ngọn cây cổ thụ. Ba
ôm tôi, Mẹ bồng em tôi, gia đ́nh nhỏ bé
của tôi chơi vơi ngồi trên nóc nhà thờ,
sợ quá tôi ngủ thiếp đi, thằng bé con
mới 9 tuổi đầu không đủ can đảm
để nh́n cảnh tượng nầy, và cũng
không hiểu được, nhờ phép lạ nào
đó đă cứu gia đ́nh tôi trong t́nh trạng
thập tử nhất sinh nầy. Chuyến
xe lửa HUẾ- ĐÀ NẴNG, qua Trùi, qua Lăng Cô, xuyên
đèo Hải Vân, băng qua hầm Sen dài hun hút,
tiếng c̣i chói tai, khói than khét ngẹt. Xa rồi! Xa
thật rồi! Quê tôi, khi lớn khôn đôi lúc
chạnh ḷng nhớ lại, tôi đă viết cho Quê
Cha tôi vần thơ vụng dại nhưng đấy
là bao niềm nhung nhớ về chốn xưa. Êm
ái làng tôi nắng mới reo Mái
ngói thay cho mái tranh nghèo Vài
chiếc thuyền con t́m bến đậu Bên
bờ sông vắng nước trong veo Tiếng
ai tṛ chuyện như hơi thở Làn
gió mơn môi mắt đợi chờ Hàng
dừa xanh như t́nh ai đó Gọi
tôi về t́m lại những ngày THƠ. QUÊ
NGOẠI ĐÀ NẴNG DẤU YÊU Cách
thành phố Đà Nẵng 40 km về phía Nam , thành
phố Hội An nhỏ bé nằm ven theo gịng sông THU
BỒN, nước trong veo lững lờ chảy xuôi
về biển cửa ĐẠI. Quê Ngoại của tôi,
nơi đó, Mẹ tôi, cô gái nhà quê dịu dàng
thuỳ mị được sinh ra và lớn lên trong
tiếng xào xạc của hàng dừa xanh, luôn luôn
thầm th́ với gió biển hiền ḥa, muôn đời
thuỷ chung với đất Quảng. Mẹ tôi, cô
con gái độc nhất trong gia đ́nh nên được
ông bà Ngoại tôi cưng ch́u. Thời đó, ít có người
con gái được cắp sách đến trường,
sự học hành dường như để dành cho
con trai, nhưng ông bà Ngoại cũng làm một
chức quan cho nhà nước bảo hộ Pháp, nên
mẹ tôi vẫn được theo bọn con trai
học hành thi cử, mẹ tôi đă đậu
được văn bằng Tiểu học Pháp
rồi Mẹ không đi học nữa, v́ muốn
học lên phải đi xa, Mẹ sợ xa gia đ́nh
nên phải ở nhà giúp bà Ngoại tôi làm vườn,
trông nom vựa lúa nương dâu. Cuộc sống êm
ả thanh b́nh một thời gian dài trong khoảng
đời con gái của Mẹ. Tôi nhớ có những
đêm na(`m úp đầu vào ngực mẹ
để nghe mẹ kể chuyện: ngày xưa ngày xưa
Mẹ chưa gặp Ba, Mẹ thích những đêm trăng
sáng theo bà Ngoại đi xem hát tuồng ở một
rạp hát đầu làng, Mẹ mơ Mẹ là công
chúa ngủ trong rừng, chờ hoàng tử đẹp
trai đi săn bắn ngang qua thức Mẹ dậy. Tôi
ngây thơ hỏi Mẹ, hoàng tử có phải là Ba
không?. Mẹ cười vuốt tóc tôi và im lặng
không nói ǵ, tôi cũng không hỏi thêm Mẹ nữa,
nằm im trong ḷng Mẹ, ngủ lúc nào không hay. Tôi
ngủ theo giấc mộng lành của Mẹ. Cuộc
sống thanh b́nh kéo dài không được bao lâu.
Chiến tranh lan tràn đến quê Ngoại, Việt
Minh tràn về, ban đêm đi ruồng bắt
những người Quốc Gia để thủ tiêu.
Ông Ngoại tôi đành bỏ nhà, bỏ cửa,
bỏ ruộng vườn nương dâu, đưa
gia đ́nh về Đà Nẵng. Mẹ rời quê ra đi
khi tuổi đời vừa mới lớn. Mẹ nói,
hôm lên xe đ̣ đi Đà Nẵng, Mẹ đă khóc sưng
mắt và nhịn ăn một ngày, nhưng cuối cùng
mẹ rất là vui, v́ chuyện xa quê đưa
Mẹ vào một cuộc t́nh thơ mộng. Ba từ
Huế, Mẹ từ Hội An, hai người thân yêu
nhất đời tôi đă gặp nhau trên bờ sông
HÀN. Bờ sông HÀN thân thương đă kết tu Ba
và Mẹ để sinh ra tôi. Sau nầy tôi lặn
ngụp vui đùa suốt thời trẻ thơ bên
bờ sông kỷ niệm nầy. ĐÀ NẴNG dấu yêu!
Con đường Độc Lập dài nhung nhớ,
Cổ Viện Chàm huyền bí âm u, biển Thanh B́nh vi
vu tiếng thông già, cầu Vồng lên cao xuống
thấp trong những ngày cùng lũ bạn đua xe
đạp, con đường Hùng Vương hun hút
theo mối t́nh đầu vu vơ , tất cả...
tất cả là những cánh hoa hạnh phúc cho tôi
về một vùng trời bao la gấm vóc của
một thời đầy tương tư: THỜI
TUỔI DẠI dưới mái trường Trung Ho.c
PHAN CHÂU TRINH. Trời
ơi! Ba đậu Tú tài mà sao Ba ít chữ quá!
Mối t́nh của Ba Mẹ chỉ vỏn vẹn có
bấy nhiêu chữ hay sao? Sau nầy lăn lộn
nhiều, bầm dập nhiều trong t́nh trường,
tôi thủ thỉ hỏi mẹ: Tại sao?Tại
sao?Ba viết ít vậy. Mẹ cuời, lúc nào Mẹ cũng
nở nụ cười dễ thương để
trả lời, Ba nói ít nhưng làm nhiều, Ba không
quen nói nhiều v́ tính Ba nhát lắm chứ không
giống như con, cái miệng bô bô nói thật
nhiều nhưng là chúa làm biếng. Tôi cười
trừ v́ tôi biết không ai hiểu tôi bằng
Mẹ. Hè
năm 1953, gia đ́nh tôi từ Huế dọn về
Đà Nẵng, nhà Ngoại là một đại gia đ́nh
ở chung, gia đ́nh d́, cậu và con cháu Ba Mẹ tôi
được một căn nhà trong dăy nhà 5 căn
của ông bà Ngoại, xung quanh bao bọc bởi hàng rào
tre, có ao nuôi cá và ruộng rau muống, vài loại cây
ăn trái, nhiều nhất là nhăn và đu đủ,
sung sướng cho tôi là nhà tuy là ở thành phố
nhưng chỗ tôi ở như là nhà quê, trước
mặt là đồng lúa xanh ŕ mạ non đầy cá
rô, cá lia thia, cá tràu, cá bống Đang hè, chưa vào trường
nên mặc sức tôi chơi đùa nghịch phá,
bắt cá, bắn chim, chạy rong thả diều ngoài
đồng trong tiếng vi vu của gió, của
nắng, của bầu trời trong vắt không
gợn một chút mây. Bước ra khỏi nhà theo
con đường đất ra ngoài lộ lớn,
về phía trái là con đường dài hun hút
chạy thẳng ra chợ Hàn, trung tâm của thành
phố Đà Nẵng; về phía phải băng qua
cầu De Lattre De Tassegny, sau nầy gọi là cầu Tŕnh
Minh Thế băng qua Mỹ Thị, Mỹ Khê, Sơn
Trà, Non Nước ; sau nhà là một ngôi chùa cổ
gọi là VU LAN TỰ, mỗi ngày tôi vào chùa xin cơm
chay nên thường không ăn cơm nhà, có lẽ tôi
có căn tu từ lúc lên 10 nhưng sau đó lại
ăn trộm trái cây, chuối, camcủa nhà chùa để
trên bàn thờ cúng Phật. Có một lần, tôi
bị ông thầy chùa bắt gặp mét với Ba,
bị trận đ̣n nên thân, từ đó không thèm vào
chùa và tôi cũng ghét ông sư . Sau trận đ̣n,
Mẹ giận Ba, bảo Ba bênh ông thầy chùa,
tội nầy chỉ là tội nghịch ngợm thôi,
tại sao ba phải đánh đ̣n nặng, Mẹ
lấy dầu xức các chỗ lằn roi và sau đó
Mẹ tôi mua rất nhiều trái cây đem qua cúng chùa
như để xin lỗi và bồi hoàn lại
số trái cây đă mất. Từ
ngày về quê ngoại, tôi thấy Mẹ tôi có
vẽ vui v́ dù sao cũng gần gụi được
ông bà Ngoại tôi, mỗi buổi chiều tối khi
Mẹ làm cơm, tôi và em trai lẽo đẽo theo
Mẹ để xin nếm thức ăn, món nào
mẹ nấu cũng tuyệt, vài lần Mẹ cho
nếm th́ khỏi ăn cũng đă no rồi,
Mẹ làm bếp thường hay hát nho nhỏ đủ
cho anh em tôi nghe: Quê
nhà tôi chiều khi nắng êm đềm, chạy dài
trên khóm cây, đàn chim ríu rít ca, bao người ra
ngồi hay đứng bên thềm, chuyện tṛ vui
với nhau đời sống thần tiên, sáo diều
êm nào khác lời thơ, lúa vàng reo dường như
sóng nhấp nhô. Chân trời xa mờ mơ bóng ai
về. Đợi chồng conMắt trông về phía
trời xa. Bài
hát êm đềm như ḷng Mẹ hiền với con
dại. Mỗi khi nhớ về Mẹ, tôi vẫn hát
nho nhỏ như th́ thầm với mẹ, từ nơi
xa xa nào đó tôi vẫn có cảm giác Mẹ tôi
đang cười, nụ cười theo tôi suốt
một đời bôn ba từ quê nhà đến năm
tháng lưu lạc nơi đất khách. Tuổi
lên 10 của tôi trăi dài theo ruộng lúa, cánh diều,
nắng hè mát rượi chẳng được bao lâu,
tôi phải ôn bài để thi vào kỳ thi tuyển
Đệ thất trường trung ho.c công lập PHAN CHÂU
TRINH niên khóa 1953-1954. Ngày
thi tuyển vào Đệ thất, một buổi sáng
cuối hè, một buổi ban mai đầu thu, ḷng tôi
rộn ră như tiếng chim chích cḥe hót trong vườn,
như những gợn sóng lăn tăn trên bờ ao,
như giọt sương mai trên ngọn cỏ, như
những ṿng tṛn nhỏ lớn dần lớn dần
trên mặt nước bởi con cá đớp mồi
quậy cái đuôi Ba chở tôi trên chiếc xe Solex cũ
kỹ, tôi ngồi ôm chặt lưng Ba, vai mang cạc
tắp mà Mẹ đă chuẩn bị kỹ càng cho
đứa con trai rượu đi thi. Mẹ vẫn thường
gọi anh em tôi là con trai rượu, tôi không hiểu
nghĩa làm sao, nhưng tôi nghĩ đây là cái tên thương
yêu nhất mà Mẹ gọi chúng tôi, bởi v́ Mẹ
làm rượu nếp rất ngon, cách nấu xôi,
ủ xôi và cho lên men, phơi nắng Mẹ làm
rất kỹ và có phương pháp gia truyền, Ba nói
ai ăn rượu nếp của Mẹ làm th́
phải mê- rồi Ba nói tiếp, mê rượu
chứ không phải mê Mẹ đâu mà ham. Mẹ cười,
bao giờ Mẹ cũng cười, nụ cười
muôn đời mát dịu như ngọn suối
từ nơi non ngàn núi thẳm chảy về biển
cả mênh mông, mà chúng tôi, những đứa con
của mẹ lặn ngụp trong gịng hạnh phúc
đó. Địa
điểm thi là trường Tiểu Học Đà
Nẵng, nằm cạnh nhà Đèn của thành phố, tôi
qua được kỳ thi dễ dàng và kể từ
đó tôi được chính thức là học tṛ
của trường Trung học Công lập PHAN CHÂU
TRINH ĐÀ NẴNG. Cậu học tṛ mới toanh và ngôi
trường cũng mới toanh, tôi vào trường,
trường tôi c̣n thơm mùi gạch mới của
cái thuở ban đầu khai giảng năm học
đầu tiên. Ba Mẹ tôi vui vô cùng, nhưng Ba tôi
chỉ gật gật cái đầu, c̣n Mẹ th́
hết khoe người nầy, người nọ
mỗi khi có ai đến nhà chơi. -
Cháu
nó vừa thi đậu vào Đệ thất Phan ChâunTrinh
đó. -
Phan
Châu Trinh là trường nào? Tôi không biết. -
Chị
không biết hả? Phan Châu Trinh là trường Trung
học công mới mở trong năm nay đó. -
Cứ
như vậy, Mẹ tôi vui mừng trong cái Đệ
thất Phan Châu Trinh của tôi, là học sinh Phan Châu
Trinh, tôi cảm thấy sung sướng và đem
lại niềm vui bất tận trong ḷng người
Mẹ RƯỢU của tôi. Mùa
hè vui nhộn sắp sửa đi qua, nắng bớt
gắt, trời mát dịu với những trận mưa
rào làm ướt thân tôi trong những ngày chạy
rong chơi ngoài đồng, mỗi lần tắm mưa
như vậy rất là thú vị, quần áo ướt
sũng, chúng tôi một lũ bạn vài ba đứa,
vừa chạy vừa la dưới cơn mưa trút
nước, một thoáng là mưa tạnh, không bao
giờ mưa lâu, và nắng lại bắt đầu
reo vui theo tiếng cười đùa tinh nghịch
của lũ trẻ, chúng tôi cởi hết áo
quần, vắt khô và phơi trên các cành tre, đâu có
biết thẹn thùng ǵ, cứ như thế, chúng tôi
lại chơi đùa đến khi áo quần khô ráo,
về nhà Mẹ có biết ǵ đâu, Mẹ vẫn tưởng
là đứa con trai ngoan của mẹ hiền như
ông Phật đất trong ngôi chùa cổ. Ngôi
trường mới toanh vừa mới khánh thành hôm
qua, mái ngói đỏ chói màu đất sét nung, vách tường
trắng tinh màu vôi, các cánh cửa xanh màu ngọn lúa,
trên một khu đất trống c̣n ngổn ngang
gạch, đá, cát, ciment, một dăy lớp nằm
ngang khu đất rộng, chưa có một bóng cây,
cổng trường bề thế với tấm
bảng có ḍng chữ màu xanh đậm: TRƯỜNG
TRUNG HỌC ĐỆ NHẤT CẤP PHAN CHÂU TRINH. Một
hàng rào sơ sài bọc quanh trường, chỉ
ngần ấy thôi, khung cảnh trường tôi trong
ngày khai giảng đầu tiên của một năm
học mới. Tất cả học sinh được
sắp hàng ngay ngắn trước sân cờ, đối
diện là văn pḥng thầy Hiệu trưởng GI
và những vị giáo sư đứng trên bực
thềm, lần lượt đọc danh sách từng
học tṛ và từng lớp, tất cả có 4
lớp Đệ thất, 2 lớp Đệ lục và 1
lớp Đệ ngũ, (2 lớp Đệ lục và 1
lớp Đệ ngũ học tạm từ trường
Nam Tiểu học được chuyển qua).Tôn
Thất Phú Sĩ, tên tôi được thầy
Hiệu trưởng gọi và sắp vào lớp Đệ
thất 2, tôi thấy Mẹ tôi đứng trong nhóm
phụ huynh học sinh nh́n tôi mĩm cười, không
c̣n lo sợ nữa, tôi bắt đầu bạo
dạn nhờ nụ cười của Mẹ, mắt
nh́n tứ tung như muốn thu tất cả h́nh
ảnh vào trong trí non nớt của ḿnh, mỗi
lớp khoảng 50 học sinh, ba hàng trên là con gái,
tiếp là những đứa con trai, trai gái học
chung báo hiệu một năm học sôi nổi, khi
tất cả sắp xếp đă xong, buổi lễ
chào QUỐC KỲ bắt đầu: Này
Công Dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi. Đồng
ḷng cùng đi đi đi mở đường khai
lối, v́ non sông nước xưa, truyền muôn năm
chớ quên, nào anh em Bắc Nam cùng nhau ta kết đoàn
Dù cho phơi thây trên gươm giáo, thù nước
lấy máu đào đem báo, ṇi giống lúc biến
phải cùng giải nguy này công dân ta vững bền tâm
chí. Này
công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ. Bài
Quốc ca do các lớp Đệ lục và Đệ ngũ
hát theo nhịp của một vị giáo sư, chúng tôi
cũng ê a hát theo điệu nhạc, chỉ ê a thôi
chứ chưa thuộc lời, lá Quốc kỳ màu vàng
ba sọc đỏ từ từ được kéo lên.
Buổi chào cờ đầu tiên trong đời
của tôi nghiêm trang quá, và cũng là lần đầu
tiên tôi cảm thấy có một cái ǵ khó nói, khó
tả trong trái tim non của ḿnh, một ư niệm mơ
hồ về Quốc Gia phải chăng đă bắt
đầu từ đấy. Sân
trường im lặng để nghe thầy Hiệu
trưởng nói chuyện, sau đó từng lớp
theo sự hưiớng dẫn của một vị giáo
sư phụ trách, thứ tự từng lớp đi
vào pḥng học, tôi nh́n theo bóng dáng Mẹ ra về,
Mẹ vẫn để lại cho tôi nụ cười
can đảm và tự tin. Aùnh nắng nhạt nḥa
của một buổi mai mùa Thu, xung quanh tôi, lũ
bạn mới bắt đầu th́ thầm to nhỏ,
đời tôi lại bắt đầu một khung
trời mới lạ- KHUNG TRỜI ĐẦY HOA BƯỚM.
PHƯỢNG ĐỎ VE SẦU và những tập LƯU
BÚT NGÀY XANH. Khung trời Phan Châu Trinh đầy THƯƠNG
NHỚ của riêng tôi, của em và của tất
cả bạn bè thầy cô cùng chung một kỷ
niệm. Đọc
tập san 50 năm thành lập trường Phan Châu
Trinh, Thầy Cô và bạn bè đă viết hết
nỗi ḷng cho mái trường thân yêu, riêng tôi
biết viết ǵ đây, biết kể nhau nghe ǵ
đây. Kỷ niệm 6 năm học tṛ Phan Châu Trinh
về với tôi tràn lan như sóng vỗ từ Đại
dương mênh mông, trong kư ức mà thời gian đă
làm phôi phai nhạt nḥa, cô đọng lại Tôi nghe
thoang thoảng đâu đây tiếng nhạc quân hành,
thầy Hoàng Bích Sơn đă dạy cho học tṛ
của Thầy hát trong giờ Aâm nhạc đầu
đời: Phan
Châu Trinh người Chiến Sĩ Quốc Gia bất
diệt, đă từng hy sinh tranh đấu cho Nhân
Quyền. Ngàn đời c̣n ghi công Người
Chiến Sĩ, buồn thấy đế quốc
chiếm giang sơn, công lao bao đấng anh hùng,
điêu linh dưới ách gông cùm, ra tay hết ḷng v́
nước quên ḿnh. Hồ Tây phương Nam c̣n in bóng
.... Tôi
nhắm mắt lại để hồn ch́m vào
TUỔI MỘNG của thời xa xưa. PARIS
, những ngày đầu Xuân QUƯ MÙI |