40 năm t́nh bạn Đoàn Kế Tường |
Gần 40 năm
trời trôi qua, tôi đă lần ṃ khắp nơi, và
kể từ khi có internet th́ ngày nào cũng lang thang trên
khắp các trang mạng, cố t́m cho bằng được
tông tích người bạn chí cốt là Ngô Văn Khiêm,
nguyên Đại Úy, Pháo đội trưởng, pháo
đội A, Tiểu đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù.
Gặp gỡ bất cứ ai, nghe nói trước đây
ở binh chủng Dù, tôi cũng dọ hỏi. Nhiều
lần nhờ Du Tử Lê, liên hệ với anh em
Nhảy Dù đang định cư ở Mỹ hỏi
giùm, nhưng số anh em mà Du Tử Lê quen biết cũng
chỉ lắc đầu. Mọi chuyện tưởng
như đă không c̣n hy vọng, khi tuổi đời
ngày càng chồng chất và thời gian c̣n lại trên
trần gian cũng chẳng bao nhiêu. Bỗng dưng,
cách nay nửa tháng, tôi t́nh cờ đọc được
một bài viết ngắn của vài anh em Nhảy Dù
đi t́m xác đồng đội, mới hay một năm
trước đây, những anh em này, nhờ sự hướng
dẫn của dân làng, đă t́m được một
nấm mồ tập thể,chôn gần 2 xe GMC những
chiến sĩ mũ đỏ đă vị quốc vong
thân ngày 16/4/1975 tại phi trường Phan Rang. Bao
gồm Trung tá Trần Văn Sơn, Lữ đoàn Phó,
Lữ đoàn 2 Dù, Thiếu Tá Đặng Đ́nh
Tựu, trưởng ban 3 Tiểu Đoàn 1/Pháo Binh Dù,
Đại Úy Ngô Văn Khiêm, Pháo dội trưởng
Pháo đội A, Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Dù, và
nhiều anh em vô danh khác. Cà Tèm,
một chiến sĩ mũ đỏ trong nhóm đi t́m
xác cho biết, tất cả chỉ c̣n là những
nắm xương tàn nằm chung với nhau một
huyệt, nên đă giữ nguyên trạng nấm mồ
tập thể và chỉ xây một cái miếu nhỏ
để thờ. Ngay sau đó, tôi được đọc
thêm một bài viết của Thiếu Tá Nhảy dù Trương
Dưỡng, mới hiểu rơ bạn ḿnh và đồng
đội đă chiến đấu hào hùng và hy sinh bi
tráng như thế nào. Dĩ nhiên, tôi đă khóc, khóc
một cách tự nhiên cho dù “tuổi già hạt
lệ như sương!” Sau bao nhiêu năm t́m nhau,
giờ th́ mới hay bạn ḿnh đă vĩnh viễn
nằm xuống và ở lại với mảnh đất
Phan Rang trong những ngày cuối cùng của cuộc
chiến. Năm 1965,
giă từ mái trường Thiếu Sinh Quân thân yêu, tôi
thực sự bước vào cuộc chiến.
Đơn vị đầu tiên trong đời chiến
binh của tôi là trại LLĐB Lộc Ninh, nằm
cuối phi đạo dă chiến, đủ cho các
loại máy bay C.123, C119 và Caribu lên, xuống. Tất
cả đều nằm lọt thỏm giữa
những cánh rừng bạt ngàn, xanh um trên nền đất
bazan đỏ hơn màu máu. Cũng giống như
hầu hết các trại LLĐB khác vào thời đó,
toàn nằm dọc theo biên giới, hiếm có trại nào
tọa lạc gần khu dân cư nên buồn lắm.
Ấy vậy mà chỉ chưa đầy 3 tháng, tôi
lại được lệnh lên trực thăng
về tăng cường cho trại Chí Linh (Sông Bé)
giữa ḷng chiến khu Đ, cách Đồng Xoài
chỉ hơn 10 cây số đường chim bay.
Chưa
hết, ở Sông Bé được mấy tháng, tôi
lại vác ba lô lên thẳng Phước Long (BCH B.14 LLĐB),
tŕnh diện Đại Úy Lưu Yểm (Về sau ông làm
tỉnh trưởng Phước Long, rồi Biên Ḥa) và
được điều phối về trại Bù
Đốp. Đến khi, thành lập trại Tống Lê
Chân (B.16 LLĐB), tôi lại theo chân mấy đại
đội Biệt Kích Quân tăng cường qua đó
một thời gian để làm hàng rào pḥng thủ,
bảo vệ cho công binh Mỹ san ủi mặt
bằng, xây cất công sự…Cứ thế, quanh
quẩn măi với mấy cái trại biên pḥng,
thuộc B.14, B15, B16 cũng mất hết mấy năm.
Sau Mậu Thân, tôi lại được quay trở
về lại Lộc Ninh. Lúc bấy giờ, trại LLĐB Lộc Ninh đă dời lên ở giữa sân bay, cách chi khu Lộc Ninh 1 km, khu trại cũ dưới thung lũng được làm khu gia binh do một trung đội BKQ canh gác, bảo vệ. Quân số trong trại bao gồm một toán A LLĐB Hoa Kỳ (12 người), một toán A LLĐB VN (12 người) 2 Trung đội Trinh Sát, 4 Đại Đội BKQ (1 Đại đội toàn người Miên và 3 Đại đội có dàn chỉ huy là người Kinh, c̣n từ cấp Trung đội trưởng trở xuống, hầu hết là người dân tộc Stieng). Tổng
cộng tất cả hơn 400 tay súng, nhưng một
nửa quân số luôn hoạt động bên ngoài, có
khi cách xa trại vài chục cây số là thường.
Mọi sinh hoạt trong trại đều diễn ra dưới
những căn hầm bán lộ thiên với 2/3 nằm
dưới mặt đất và những giao thông hào kiên
cố. Giữa năm 1968 trại bị Công trường
7 và 2 trung đoàn Q.762 Q.763 VC tấn công. Trận đánh
khốc liệt này được đài phát thanh Quân
Đội và các báo tại Sài G̣n hồi đó
gọi là trận Dạ Chiến Lộc Ninh. Vài
tuần lễ sau khi trận chiến đi qua, có
mấy xe Công Binh vào trại ủi đất để
làm vị trí cho Pháo Binh. Chúng tôi được thông báo
là trại sẽ được tăng cường 2
khẩu 105 ly. Chỉ một ngày sau khi vị trí hoàn
chỉnh, th́ một trung đội Pháo Binh thuộc
Tiểu Đoàn 52/PB, Sư Đoàn 5, kéo súng vào
trại. Chỉ huy Trung đội này là Trung Úy
Nguyễn Trí Thức với 2 sĩ quan Tiền Sát Viên
c̣n rất trẻ: Chuẩn Úy Ngô Văn Khiêm và
Chuẩn Úy Huỳnh Công Ni. Khỏi phải nói, có thêm
một trung đội người Kinh trong trại, chúng
tôi vui biết chừng nào… Ngay
buổi chiều hôm đó, tôi đă sang vị trí
của họ để làm quen. Ngô Văn Khiêm quê
ở Chợ Gạo, Mỹ Tho. Tánh t́nh hồn hậu,
hay nói chuyện tiếu lâm và rất chân t́nh nên
dễ gần gũi. C̣n Huỳnh Công Ni gốc gác Đà
Lạt, hiền lành nhưng có cung cách một công
tử, con nhà giàu. Kể từ đó, tôi với Khiêm
trở thành đôi bạn thân. Tối nào tôi cũng
qua vị trí của Khiêm ngồi tán gẫu đủ
thứ chuyện trên đời. Có hôm nhậu lai rai, có
hôm pha cà-phê ngồi uống cho tới khuya. Không ít
lần, đang ngồi với nhau th́ bị pháo kích. Tôi
lao xuống giao thông hào chạy vội về vị trí.
Chưa đến nơi đă nghe tiếng 105 ly
phản pháo, át cả tiếng đạn súng cối
nổ trên pḥng tuyến. Những lần như thế,
mới mờ sáng Khiêm đă chạy qua đánh
thức tôi dậy, vừa nói, vừa cười: “Tao
sang coi mày c̣n sống hay đă chết.” Ở
Lộc Ninh, trời đă buồn lại càng buồn hơn
nữa vào những ngày mưa. Mưa làm cho mặt
đất đỏ lầy lội, dính chặt như
keo, nên chỉ c̣n ngồi trong hầm nh́n ra khoảng không
gian chật chội, nặng chĩu màu mây xám xịt. Lúc
bấy giờ, Huỳnh Công Ni đă có vợ, nên thường
đem h́nh ra khoe với chúng tôi. Con gái Đà Lạt lúc
nào cũng chưng diện thật đẹp. C̣n tôi và
Khiêm th́ chưa đứa nào có được mối
t́nh đầu. Khiêm kể: – Hồi
c̣n đi học ở Mỹ Tho, tao cũng phải ḷng
vài con bạn cùng lớp. Nhưng nhát quá, mới đứng
gần đă run nên không dám tỏ t́nh, đành để
mấy em ôm cặp theo mấy thằng bạo miệng,
bạo mồm. Xong tú tài, th́ xếp bút nghiên vào
Thủ Đức, ra trường, đi làm pháo thủ
toàn ở những nơi khỉ ho, c̣ gáy, thế là
dang dở đời trai. Thứ
Bảy, Chúa nhật, hôm nào không hành quân, tôi và Khiêm cũng
rủ nhau ra phố chợ Lộc Ninh vào quán A-Ĺn, bên
bờ suối, ngồi uống cà-phê. Đó là một
phố chợ không đèn, hiu hắt với vài hàng quán
lèo tèo và một bến xe bụi bặm, loe hoe vài
chiếc xe đ̣ cũ kỹ chạy đường
Lộc Ninh-B́nh Long. Dăy phố bên hông bến xe là
tiệm thuốc tây Mặc Khải (thân phụ của
nhà văn nữ Thụy Vũ) Nhưng ở đây vào
ngày cuối tuần cũng rộn ràng bước chân
của những cô thiếu nữ ở các làng cao su
thuộc đồn điền Cexo của Tây, đổ
ra mua sắm. Thấy chúng tôi ngắm nghía các em một
cách say sưa, mấy anh em Hạ Sĩ Quan An Ninh bên chi
khu góp ư: – Các
xếp đừng đụng tới mấy em ở làng
2, làng 7, làng 9, làng 10, toàn là VC không đó. Mấy làng
này nằm ngoài ṿng kiểm soát của ḿnh nên đậu
nhiều hơn xôi! Thật ra
có cho kẹo th́ chúng tôi cũng không dám đụng
đến các em. Ít khi nào chúng tôi c̣n nấn ná ngoài
chợ khi trời sắp ngă về chiều. Cứ kéo
nhau vào trại là chắc ăn. Điều mà tôi
với Khiêm thường nói với nhau là nghĩ đến
một ngày phải chia tay, mỗi đứa một phương
trời. Đời lính biết đâu mà hẹn trước!
Rồi
một hôm, Chi Thông Tin Lộc Ninh tổ chức một
đêm văn nghệ cây nhà lá vườn. Đây là
một sinh hoạt văn hóa hiếm khi diễn ra ở
cái vùng đất heo hút này. Trong số quan khách
được mời có cả tôi và Khiêm. Đó là
một đêm vui mà tiết mục hấp dẫn
nhất là các em nữ sinh trường Trung học
Lộc Ninh (Đệ nhất cấp) được các
thầy cô dẫn đi làm khán giả cổ động…
Trong số đó có con bé Mai thật dịu dàng, xinh
xắn và dễ thương. Dường như Khiêm
chẳng để ư đến những ǵ đang
diễn ra trên sân khấu, mà chỉ quay sang chiêm ngưỡng
cô bé như bị hút hồn. Nó chỉ Mai cho tôi, và
nhở tôi t́m cách nói với cô bé, lát nữa có người
muốn đưa về, có được không?
Tôi cứ
tưởng ḿnh làm chuyện cầu âu cho vừa ḷng
bạn, nhưng không ngờ Khiêm và Mai quen nhau từ
đó và tôi nghiễm nhiên trở thành ông mai. Một
ông mai mặc áo rằn ri, chân đi giày bốt-đờ-sô.
Giữa mùa mưa năm đó, Trung đội của
Khiêm kéo súng về đồi Đồng Long (An
Lộc), thay thế vào đó là một trung đội
khác. Sáng sớm, tôi chạy qua chỗ Khiêm th́ thấy
2 khẩu 105 ly đă được móc vào 2 xe GMC. Hai chúng
tôi chỉ kịp ôm nhau nói lời từ biệt trước
khi tôi dẫn một Đại đội Biệt Kích
đi nằm đường, rải từ ngă ba Xóm Bưng
đến cầu Cần Lê trên quốc lộ 13, để
an ninh lộ tŕnh cho trung đội của Khiêm di
chuyển. Gần trưa, tôi đứng ở đầu
cầu Cần Lê, th́ Khiêm đi qua, nó ngồi trên
ca-bin chiếc GMC đầu tiên, cố tḥ đầu ra
hét với tôi: – Mày
ở lại mạnh giỏi, thế nào cũng gặp
lại nhau. Tao luôn nhớ mày. Tôi quay
mặt sang hướng khác, không nh́n đoàn xe đi
qua. Xong nhiệm vụ, tôi rút quân về. Buổi
chiều ngồi một ḿnh uống cạn mấy lon
bia mà nhớ bạn đến nao ḷng. Ngày đó, làm ǵ
có điện thoại di động như bây giờ.
Ngay cả điện thoại hữu tuyến cũng
chỉ nối đường dây nội bộ trong
phạm vi trại mà thôi. Liên lạc xa chỉ trông
cậy vào máy siêu tần số với hệ thống
quay đầu ḅ (dinamo) và một hiệu thính viên… C̣n
liên lạc ngắn th́ có máy ANPR C25. Chính v́ thế mà
có nhớ nhau đến mấy, tôi và Khiêm cũng không
thể liên lạc với nhau. Mấy
tuần sau, tôi nhận được thư Khiêm, nó nói,
về nằm với Pháo Đội trên đồi
Đồng Long, sát nách tỉnh lỵ B́nh Long nên cũng
đỡ khổ. Gần cuối thư nó viết:
“Tao báo cho mày hai tin vui. Thứ nhất, tao và Huỳnh
Công Ni vừa làm đơn xin thuyên chuyển qua Pháo
Binh Nhảy Dù, đơn đă được
chuyển đi. Thứ hai, Mai cũng vừa về B́nh
Long trọ học (đệ nhị cấp). Tao định
sẽ cưới Mai làm vợ, nhưng không biết nhà
người ta có chịu gả con cho đám lính tráng
như tụi ḿnh hay không?” Tôi đă đọc thư
Khiêm nhiều lần đến thuộc ḷng. Tháng sau,
theo chân một cuộc hành quân mở đường
để đoàn công-voa của đồn điền
cao su CEXO chở gạo lên cho hơn 10 ngàn công nhân
cạo mủ. Tôi về B́nh Long gặp Khiêm. Buổi trưa,
Khiêm, Mai và tôi rủ nhau vào một quán cơm ở
chợ cũ, đầu con dốc Đại Lộ Hoàng
Hôn. Nh́n hai đứa nó khắng khít bên nhau trông
rất rất hạnh phúc và đẹp đôi
khiến tôi cũng vui lây niềm vui của bạn.
Ăn cơm xong, chẳng biết đi đâu v́
tỉnh lỵ quá nhỏ, quá nghèo. Thế là vào
một quán cà-phê ngồi tâm sự. Mấy tháng sau, th́
Khiêm thư cho tôi báo đă cùng với Ni qua Tiểu
Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù. Năm 1970,
tôi về Chiến Đoàn 3 Xung Kích Lưu Động
(B.23 –Mike-Force ở Long Hải. Chiến đoàn có 3
Tiểu đoàn Biệt Kích Quân Tiếp Ứng, quanh năm
đi hành quân xa. Tôi may mắn gặp Thiếu Tá Ngô
Đ́nh Lưu, nhận ra người miền Trung
với nhau nên xếp cho về ban 5, suốt ngày chỉ
quanh quẩn ở hậu cứ. Thời gian này, Ngô Văn
Khiêm được Tiểu Đoàn 1/PB Dù cho đi
học một khóa Chiến Tranh Chính Trị kéo dài hơn
tháng tại trại Lê Lợi, trong Biệt Khu Thủ
Đô, đường Lê Văn Duyệt. C̣n Mai th́ theo
gia đ́nh về Sài G̣n ở Thanh Đa và mới bước
vào Đại học Văn Khoa. Thế là cuối
tuần nào tôi cũng từ Long Hải vù về Sài G̣n,
cặp kè với Khiêm ra Thanh Đa đón Mai. Có khi vào
rạp Rex coi xi-nê, có khi ra Mai Hương ngồi ăn
kem, chứ chẳng biết làm ǵ hơn ở cái đất
Sài G̣n hoa lệ mà chúng tôi th́ tiền lính-tính
liền! Giữa năm
1970, tôi từ giă cuộc đời Biệt Kích, quay
về quê nhà ở Quảng Trị. Cứ tưởng
c̣n lâu mới gặp lại Khiêm. Cuối năm đó
tôi nhận được tin Khiêm lên B́nh Long làm đám
cưới với Mai, nhưng tôi không về được.
Nào ngờ, đầu năm 1971, Khiêm tham dự hành quân
Lam Sơn 719, đánh sang Hạ Lào. Khi đơn vị
của Khiêm triệt thoái về Đông Hà, tôi đă
đi t́m và gặp được cả Khiêm lẫn Ni
và thêm một người bạn mới có cái biệt
danh là “Dưỡng Cà Lăm”. Lúc bấy giờ
cả ba đă đeo lon Trung Úy. Sau chiến dịch này,
Huỳnh Công Ni xin về Pháo Binh Diện Địa,
thuộc Tiểu Khu Lâm Đồng. Tôi
đưa Khiêm về nhà. Mẹ tôi hỏi nó muốn
ăn ǵ? Nó nói thèm canh chua miền Nam lắm. Mẹ tôi,
một bà Mẹ quê miền Trung chơn chất, ít khi bước
ra khỏi lũy tre làng. Nay v́ chiến tranh phải
tản cư lên tỉnh, nên không biết canh chua nam
bộ là thứ ǵ. Thế là hai đứa ra chợ
mua cá lóc, me chua và đủ món gia vị, đem về
tự nấu. Chẳng hiểu có ngon lành ǵ không mà Khiêm
cứ khen lấy, khen để. Chiều hôm đó, tôi
và Khiêm về Huế. Hai thằng chui xuống một
chiếc đ̣ dưới chân cầu Gia Hội, kêu
chủ đ̣ chèo ra neo giữa ḷng sông Hương
nằm tâm sự cứ như là nhân t́nh. Đó là
lần đầu tiên tôi nghe Khiêm triết lư về
cuộc sống. Nó nói:
“Chiến tranh ngày càng khốc liệt. Cứ đánh
hết trận này đến trận khác. Tao nghĩ
thế nào cũng có ngày ngă gục, không th́ cũng tàn
phế, bởi đi đêm hoài phải có lúc gặp
ma. Tao học được ở đời lính hai
điều. Thứ nhất là ư nghĩa 4 chữ “ Cư-An-
Tư Nguy” quá tuyệt vời trên phù hiệu của
trường Thủ Đức. Nhưng từ khi
học được câu này th́ chưa bao giờ “ Cư
An” mà chỉ toàn là “Tư Nguy”. Thứ hai là
khẩu hiệu “Nhảy Dù – Cố Gắng hết
sức khiêm nhường. Quả thật, không ngày nào
là không cố gắng, cố gắng không ngưng
nghỉ mà chẳng biết cái ǵ đang chờ ḿnh
ở phía trước! Thôi th́ cứ tiếp tục
cố gắng, cố gắng đến cùng vậy”.
Rồi Khiêm nhắc đến Mai, đến cái tương
lai thật đơn sơ mà hai đứa mơ ước.
Tôi nghe mà thương nó lắm, bởi cảm giác như
bạn ḿnh chẳng khác nào một con ngựa hồng
sắp mỏi vó! Sáng sớm hôm sau, hai đứa
lại chia tay, lại hẹn ngày gặp lại. Khiêm ra
Đông Hà với đơn vị đang tái phối trí,
c̣n tôi về Quảng Trị. Mùa hè
đỏ lửa 1972, tôi làm phóng viên chiến trường,
hết theo chân các đơn vị TQLC, đến
Nhảy Dù tiến về Cổ Thành. Một lần
biết được Pháo đội của Khiêm đang
chốt vị trí tại một băi cát bên phải
quốc lộ 1, gần ngă 3 Hải Lăng, Lúc bấy
giờ Khiêm đă lên Đại Úy, giữ chức
vụ Pháo đội trưởng Pháo đội A,
Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù. Chúng tôi ngồi ăn trưa
trong tiếng nổ ́ ầm liên tục, rung chuyển
cả mặt đất. Tiếng đạn 130 ly
từ trên núi rót xuống, tiếng 105 ly của Khiêm
bắn đi yểm trợ cho các cánh quân đang
tiến về Cổ Thành. Ai mà yếu bóng vía và không
giỏi chịu đựng, chỉ cần ở đây
vài phút là đă run như cầy sấy. Vậy mà Khiêm
và các chiến binh can trường vẫn sống
một cách hào hùng hết ngày này, sang tháng khác trong hoàn
cảnh như thế. Khiêm
hỏi tôi bà già và các em đang ở đâu? Tôi cho
Khiêm biết tất cả đều b́nh an và đang
sống ở khu tản cư Non Nước, Đà
Nẵng. Quả thật, trong chiến tranh, người
dân Quảng Trị cũng gian truân chẳng kém ǵ đời
lính. Họ liên tục có những cuộc bỏ
phiếu bằng chân để lựa chọn. Bất
chấp bom đạn trên đầu, cứ t́m nơi nào
có bóng dáng người lính VNCH mà đến…
Sau bữa
cơm, tôi thấy nét mặt Khiêm đượm
buồn, cho dù sạm nắng và dày dạn phong sương
rất nhiều. Khiêm nói: – Báo cho mày
biết, tao sắp làm cha. Ngày trước, chẳng ngán
ǵ đường tên, mũi đạn, bất quá “áo
bào thay chiếu anh về đất” là cùng. C̣n bây
giờ, khi biết ḿnh sắp có con th́ hơi lạnh
cẳng! Thôi th́ cứ phó thác cho số phận.
Ngưng
một lát, Khiêm đứng dậy móc trong túi quần
trận ra đưa cho tôi một xấp tiền. Nó nói
tiếp: –
Đường từ đây về Huế rất an toàn,
tất cả đều nằm trong sự kiểm soát
của ḿnh, ngoại trừ pháo kích th́ không biết
đâu mà lần. Lát nữa tao cho tài xế lái xe jeep
đưa mày về Huế. Đó là lệnh, mày không
được căi. Mày không nên ở đây đêm nay.
Tao gởi mày 5. ngàn. Cho mày 2 ngàn, coi như tao rửa
lon Đại Úy trễ với mày. Gởi bà già 3 ngàn
cho tao yên ḷng. Tao ở giữa chiến trận th́
để tiền trong túi mà làm ǵ. Mày cứ tiêu giùm
tao…”. Tôi
xiết chặt tay Khiêm và nắm lấy thật lâu.
Tự nhiên tôi trào nước mắt, chỉ thốt
được một câu: -Tao thương
mày quá Khiêm ơi! Khiêm nh́n tôi
cố cười gượng: – Đ.m
tinh thần Biệt Kích của mày đâu rồi? Ngày xưa
tao ngưỡng mộ cái ngang tàng của mày lắm mà.
Sao bây giờ lại yếu đuối thế! Đó là
lần cuối cùng tôi gặp Khiêm! Cho dù thỉnh
thoảng tôi vẫn ghé lại hậu cứ Tiểu
Đoàn 1 Pháo Binh Dù, nằm sát Tiệu Đoàn 9 trong
trại Hoàng Hoa Thám để hỏi tin tức và
biết chắc nó vẫn chân cứng, đá mềm trên
khắp nẻo chiến trường. Sau ngày
30/4/1975, tôi hy vọng Khiêm sẽ trở về, nhưng
chờ hoài chẳng thấy. Một thời gian sau, tôi
khăn gói đi vào trại tù, nơi được
gọi là trại cải tạo! Ṛng ră 10 năm lao lư,
mỗi lần có số anh em từ trại khác
chuyển đến, tôi đều dọ hỏi, nhưng
cũng chẳng có ai biết Khiêm ở đâu. Năm
1985, tôi ra trại. Lại tiếp tục t́m kiếm.
Bấy giờ tôi lại hy vọng bạn ḿnh đă
nhanh chân di tản được sang Mỹ, v́ nghe nói
Nhảy Dù và TQLC đi nhiều lắm. Cho đến
khi có internet, tối nào trước khi tắt máy đi
ngủ, tôi cũng gơ vào Google “Đại Úy Ngô Văn
Khiêm pháo đội trưởng pháo đội A
tiểu đoàn 1 pháo binh sư đoàn nhảy dù” và
lần nào mạng cũng cho kết quả “Không
hiển thị”. Thế
rồi, một buổi tối đầu tháng 7/2014, tôi
đă hồi hộp đến nghẹn thở khi
thấy tên Khiêm xuất hiện trên mạng, trong bài
viết mang tựa đề “Cải táng những
chiến sĩ mũ đỏ đă vị quốc vong
thân ngày 16/4/1975 tại phi trường Phan Rang-tỉnh
Ninh Thuận”. Người
viết muốn thông báo cho bà con, bạn bè, thân
hữu của Trung Tá Sơn, Thiếu tá Tựu và Đại
Úy Khiêm là đă t́m được nấm mồ
tập thể, chôn hài cốt của 3 anh em có cấp
bậc cao nhất và một số chiến hữu khác
dưới chân Núi Ngỗng, xă Ninh Sơn. Tháng 3/2013,
một ngôi miếu nhỏ được xây dựng
tại đó, sau 38 năm những cánh hoa dù về an
nghĩ giữa ḷng đất mẹ mà không ai nhang khói!
Ư chừng để tránh phiền toái, tác giả bài
viết kư tên là Cà Tèm với số điện
thoại khuyến măi: 01886423011. Mừng quá, tôi bấm
ngay số điện thoại của Cà Tèm nhưng
chỉ nghe tổng đài trả lời “số thuê
bao đă tạm khóa, xin quư khách gọi lại
sau”. Thất
vọng, nhưng tôi vẫn kiên tŕ gọi mỗi ngày 3
lần: sáng, trưa,chiều… Rồi gần 10 ngày sau,
một buổi sáng tôi nghe chuông đổ. Đầu máy
bên kia một giọng đàn ông lớn tuổi vang lên.
Tôi giới thiệu ngay ḿnh là bạn chí cốt
của Ngô Văn Khiêm, rất xúc động khi đọc
được tin này và rất cảm kích trước
việc đi t́m xác đồng đội của anh
em. Người đàn ông nói, anh ta cũng là chiến sĩ
mũ đỏ và quê quán tại Phan Rang. V́ quá thương
chiến hữu mà mấy chục năm qua cứ lùng
sục, t́m kiếm để lo cho đồng đội
một nấm mồ mới thấy yên ḷng. Sau đó,
Cà Tèm cho tôi số điện thoại thường dùng
và tên thật của anh. Tôi hỏi Cà Tèm, hiện nay
Khiêm có c̣n thân nhân nào không? Cà Tèm nói có, chị Mai
vợ của anh đang ở Úc. Dù đă có gia đ́nh
mới nhưng hôm xây miếu cho anh Khiêm, chị cũng
gởi tiền về. Tôi lại hỏi Cà Tèm có cách nào
liên lạc được với Mai không? Cà Tèm nói
sẽ gọi đt cho người em chồng hiện
nay của Mai đang định cư ở Sài G̣n.
Nhờ anh ta chuyển ngay cho Mai tên và số đt
của tôi. Nếu cần th́ Mai sẽ gọi. Cà Tèm cúp
máy. Tôi tưởng nếu có th́ cũng phải
chờ một vài ngày Mai mới gọi cho tôi, bởi
đă mất liên lạc với nhau hơn 40 năm
rồi c̣n ǵ. Ấy thế mà chỉ một tiếng
đồng hồ sau, chuông điện thoại của
tôi reo, đầu máy bên kia giọng một người
phụ nữ đứng tuổi nói trong xúc động:
– Có
phải anh Tường không? Em là Mai vợ anh Khiêm
ở Úc gọi về cho anh đây. Quá xúc
động, tôi hét lên trong máy: – Mai ơi,
Mai khỏe không? – Em
khỏe. Mấy chục năm qua, em cũng nhiều
lần ḍ hỏi tin tức về anh nhưng không có ai
trả lời chính xác.Anh Tường ơi, tội
nghiệp Khiêm lắm. Những ngày tháng cuối cùng không
hiểu linh tính thế nào mà Khiêm thường nói
với em: “Nữa,
anh chết đi, anh sẽ kiếm cho em một người
chồng tử tế. C̣n thằng nào không đường
hoàng anh sẽ không gả em đâu.” Rồi Khiêm
lại mang hết đồ đạc về nhà và
dặn ḍ em, chiến tranh chừng cũng sắp
kết thúc, anh sẽ về sống măi măi bên
em.” Ngưng
một lát, dường như để nén cảm xúc,
Mai nói tiếp: – Suốt
đêm 16/4/1975, em không thể chợp mắt một phút
nào cả. Ḷng cứ nóng như lửa đốt.
Mấy ngày sau, có một người y tá thuộc
đơn vị của Khiêm, tên là Phan Bá Em đến
nhà cho em biết. Sáng hôm đó, bên ḿnh hầu như
đạn dược, lương thực đă
cạn kiệt và VC đă tràn vào phi trường. Trung
Tá Trần Văn Sơn, Lữ đoàn phó, Lữ đoàn
2 Dù bị trúng một băng đạn vào người,
ngă gục tại chỗ. Kế đó, Thiếu tá
Đặng Đ́nh Tựu cũng bị trúng đạn
pháo kích và tử trận. C̣n Khiêm th́ bị thương
nặng ở bụng và ở chân. Vừa lúc
đó, có một chiếc máy bay chở đồ
tiếp tế ra và bốc thương binh về. Khiêm
được đưa lên máy bay và y tá Em băng bó
tạm thời. Lúc bấy giờ, y tá Em cũng bị
thương nhẹ ở tay. Nhưng rồi, phi trường
bị pháo kích nặng, máy bay không cất cánh lên
được. Ông Em nói với Khiêm: “Đại úy
bị thương nặng, không đi được,
phải nằm lại thôi. C̣n em, trong t́nh h́nh này
phải rời đây ngay.” Khiêm nắm tay người
y tá và dặn, “cậu cố gặp vợ con tôi,
kể cho họ biết. Nói là tôi yêu thương
vợ con lắm. Thôi cậu đi. Chúc may
mắn” Thế là
Khiêm không bao giờ về nữa! Những ngày cuối
tháng 4/75, chiến trường Long Khánh bùng nổ
dữ dội, em rất muốn ra Phan Rang t́m anh Khiêm, nhưng
đường xá chưa lưu thông. Đến ngày
4/5, em ra Phan Rang, đến phi trường th́ gặp
đám bộ đội c̣n trẻ canh gác ở đó
cho biết. Đơn vị dọn dẹp phi trường
và thu gom xác chết vài tuần trước đă di
chuyển di nơi khác. C̣n họ mới đến vài
ngày nay nên không biết ǵ cả. Hai tháng sau, em trở
ra Phan Rang 10 ngày cứ t́m kiếm, hỏi han khắp nơi,
nhưng đành chịu thua. Sau đó, v́ cuộc
sống, em khai chồng chết và nhờ có học
mấy năm văn khoa, em được họ cho
học một lớp sư phạm ngắn hạn,
rồi phân phối về dạy trường Trung
học Giồng Ông Tố. Đến năm 1982, em
gặp anh Hứa Duối, nguyên Đại Úy, Đại
đội trưởng 204, Quân cảnh Dù. Anh Duối
trong thời gian đi tù cải tạo th́ gia đ́nh
tan nát. Tụi em đă dắt d́u nhau vượt biên
sang Úc và đă sống với nhau 32 năm, có
được 2 đứa con, đứa nào cũng
ngoan và học hành đến nơi, đến
chốn. Riêng cháu Sơn, con anh Khiêm, năm nay đă 42
tuổi rồi và rất thành đạt ở Úc.
Quả thật, anh Khiêm đă phù hộ cho em gặp
được người chồng tốt, vừa là
đồng đội cũ của anh. Anh Duối là
một người đàn ông hết mực tử
tế với gia đ́nh… Nghe Mai
kể, ḷng tôi buồn vui lẫn lộn. Cuối cùng, tôi
cũng biết rơ tin tức của Khiêm. Th́ ra, gần
40 năm qua, bạn tôi đă nằm lại ở
một nơi đèo heo hút gió vào những ngày cuối
cùng của cuộc chiến. Một cuộc chiến
với hồi kết thúc thật bẽ bàng…! Bây
giờ là tháng bảy âm lịch. Một buổi
tối ngồi trong quán cà-phê với mấy người
bạn trẻ. Tôi đem câu chuyện t́nh bạn
của tôi và Khiêm trong thời chinh chiến với
đoạn cuối c̣n nguyên vẹn cảm xúc kể
cho họ nghe và quyết định vài hôm nữa
sẽ ra Núi Ngỗng, Phan Rang để đốt cho Khiêm
và anh em nằm lại ở đó một nén nhang.
Nào ngờ
những người bạn trí thức trẻ đó không
những hết sức ủng hộ mà c̣n muốn theo
chân tôi trong chuyến đi này một cách nhiệt t́nh.
Thế là cùng nhau bàn bạc, chọn ngày 9/8 (13/7âm
lịch) khởi hành sằng xe lửa. Theo đúng
kế hoạch, 4 chú cháu chúng tôi, bao gồm 2 kỹ sư
điện là Hồ Cao Anh Tuấn và Nguyễn Bá
Tuệ, cùng với bác sĩ Đoàn Nguyễn Hoài Lê
rời Ga Sài G̣n lúc 9 giờ tối. 6 giờ sáng hôm
sau ra tới Phan Rang, nhờ Cà Tèm dẫn đường
lên Núi Ngỗng. Cúng xong, chúng tôi xuống băi biển
Ninh Chữ nằm ghế bố nghỉ ngơi, chờ
đến tối ra ga Tháp Chàm quay về lại Sài G̣n.
Trở
lại chuyện đi t́m hai cốt bạn, từ Phan
Rang, chúng tôi theo quốc lộ 27 hướng lên Đà
Lạt 20 cây số. Rẽ phải, vào một con
đường đất ngoằn nghèo, chạy qua
những sườn đồi trơ trụi, tha hồ
gió cát mịt mù. Mới 9 giờ sáng mà nắng đă
như thiêu, như đốt, giữa vùng đất
cằn không một bóng cây xanh. Đi thêm 3 cây số
nữa là tới một ngôi miếu nhỏ, sơn màu
xanh da trời, nằm chơ vơ trên một miếng
đất trống, bên phải một con đường
ṃn. Đó là nơi an nghỉ của Khiêm và một
số đồng đội của nó. Tội
nghiệp bạn tôi, khi c̣n sống th́ lặn lội
ở những nơi rừng sâu, núi thẳm gần như
suốt thời trai trẻ. Khi nằm xuống, cũng
ở một nơi đèo heo hút gió mà ngủ giấc
ngàn thu! Nơi đây, ngày không một bóng người
qua lại, đêm thiếu vắng cả ánh đèn
dầu leo lét. Bạn tôi nằm dưới chân một
ḥn núi cô đơn, mang dáng dấp một con ngỗng
trời, đầu hướng ra biển đông th́
thầm sóng vỗ. Chúng tôi
dọn lễ vật đă chuẩn bị sẵn.
Thắp nhang, rót rượu, đốt thuốc mời
nhau, chẳng khác ǵ những bữa tiệc, tương
phùng , lính tráng ngày xưa! Cho dù giờ đây, Khiêm
chỉ c̣n là một nắm xương tàn, dưới
nền ngôi miếu nhỏ. Nhưng tôi tin linh hồn
của Khiêm và những anh em nằm lại nơi đây,
đă được những con ngỗng thiêng ở chân
núi này chở theo những cánh hoa dù bay thẳng về
trời từ lâu. Đoàn
Kế Tường
|