BỊ M̀N Ở SÔNG CẦU 

CHÍ HỢI -   Australia  

Thân chuyển một hồi kư của một sĩ quan Hải quân kể lại cuộc đời bị thương giải ngũ và cơ duyên theo học Hàng Hải tại Trường Hàng Hải Phú Thọ đầu thập niên 1970. Rất ít HQVN ghi danh theo học tại đây để có mảnh bằng tiếp nối mộng hải hồ khi tàn cuộc chiến.  

Mời đọc trang hồi kư của NT NGUYỄN CHÍ TRUNG biệt danh Chí Hợi thuộc khóa Đệ Nhất Song Ngư đă đạt được ước nguyện của ḿnh thi đỗ văn bằng thuyền trưởng cận và viễn dương năm 1973.  

CĐ Lợi
***

( Kính tặng Đô Đốc Trần Văn Chơn , người anh cả của HQ/VN và tưởng nhớ hương hồn cố  Hạ Sĩ Lưu Mông Mang , người phóng viên tiền tuyến (thuộc pḥng TLC/BTL/HQ/VN ) mà Đô Đốc Chơn hằng qúy mến )

Lời mở đầu:  ZĐ 23 ở Sông Cầu bị VC pháo kích gây thiệt hại nhiều cho ZĐ

(lâu qúa, không xác định được thời gian chính xác) và nhất là trại gia binh bên cạnh. Đô Đốc Tư Lệnh H/Q Trần văn Chơn có chỉ thị cho khối CTCT/BTL/HQ (lúc trưởng khối đó là H/Q Trung Tá Hoàng Cơ Minh) cử một phái đ̣an  đi thăm viếng, ủy lạo.

Tôi, Th/S Cơ Khí Đinh Công Phải, H/S Lưu Mông Mang, phóng viên nhiếp ảnh, tất cả thuộc pḥng Tâm Lư Chiến/BTL/HQ đă được H/Q Thiếu Tá Đinh công Chân đang làm trưởng pḥng Tâm lư Chiến, đề cử đi thi hành chuyến công tác này. Hàng tặng phẩm mang theo gồm nhiều quà mà tất cả chúng tôi đều phải khệ nệ mang theo rất nặng nề. Qúy giá nhất là một số radio transistor loại một băng  (MW lúc đó hay thông dụng), có vỏ mầu vàng và ba sọc đỏ song song, tượng trưng cho quốc kỳ VN, kiểu mà các ấp chiến lược thường đuợc cấp phát cho không để đồng bào nghe, đem đến ZĐ để ủy lạo binh sĩ và gia đ́nh.

Pḥng Vận Chuyển, Pḥng 4 cung cấp phương tiện di chuyển bằng phi cơ C.130 Quân Sự Mỹ chỉ đi từ Saigon đến Cam Ranh mà thôi. Tại đây, chúng tôi nghỉ ngơi qua đêm tại TTHL/HQ Cam- Ranh. 

 Được biết tại đây, đơn vị đang có cái tang anh Riễn (K11 tự là Riễn Địa v́ anh này có thân h́nh phương phi phốp pháp như ông Điạ) do một chuyện thương tâm đáng buồn xẩy ra mà làm anh vong mạng.  

Hôm sau, chúng tôi lên đừơng do cố vấn Mỹ của ZĐ lái xe jeep đến đón. Dọc đường, tất cả đều bị nạn, mời qúy vị xem tiếp qua câu chuyện, đóng góp mua vui…  

CHÍ HỢI -   Australia  

Trong chuyến  công tác di chuyển bằng đường bộ từ BCH/V2/ZH (Nha Trang) ra đến ZĐ 23 ở  Sông Cầu, xe jeep của chúng tôi  đi lọt vào giữa đoàn convoy cơ giới của Mỹ và bị trúng ḿn VC. Đầu xe bị nát, hai bánh trước xẹp dí, bị mất thăng bằng xe nhào xuống hố bên lề đừơng.  Đại Úy cố vấn lái xe bị thương nặng, được phản lực cơ chở đi Okinawa điều trị cấp tốc, không biết tính mạng ông ấy ra sao sau này.                                                    

Tôi ngồi bên cạnh, bị mảnh ḿn chém trúng cổ tay mặt, máu chảy ra lênh láng.  Anh Hạ sĩ Lưu Mông Mang, phóng viên chiến trừơng thuộc pḥng Tâm lư Chiến BTL/HQ chết tức khắc. Anh Thựơng Sĩ Cơ Khí Đinh Công Phải may mắn thóat nạn, nhưng người đầy khói súng và bụi đất sau khi nhẩy ra khỏi xe.

              VC cố t́nh giật ḿn chiếc chiến xa khổng lồ có gắn khẩu pháo 175mm ở trên. Sức ḿn nổ không ảnh hưởng ǵ với xe tăng (có lẽ ḿn nhỏ), bao nhiêu sức ép dồn lại phía sau mà chiếc xe jeep chúng tôi đang đi phải hứng chịu.

              Đi phía sau, xe tăng để lại một đám bụi cát đỏ bay tứ tung c̣n kèm theo khói đen và hôi hám của động cơ xịt ra. Tôi nói với Đ/Ú Cố Vấn đang lái xe (quên tên rồi) cố gắng qua mặt chiếc xe tăng đó, nhưng đường lộ chật hẹp v́ bề ngang xe tăng qúa to, chưa có chỗ rộng răi để qua mặt được th́ bị “ăn ḿn”.

              Xe bị bê xuống hố bên lề đường. Tuy bị thương, máu chảy ra lênh láng nhưng tôi rất tỉnh sau ít giây bị ngất xỉu v́ tiếng nổ lớn của ḿn.

              Quay lại nh́n thấy Đ/U cố vấn  gục đầu bên tay lái, anh H/S Mang ( phóng viên) nằm bất động ở băng sau, anh Th/Sĩ Phải đành lổm cồm ḅ dậy trong đống bụi cát, mặt mày lấm lem, bẩn thỉu.

              Đoàn convoy Mỹ cứ tiếp tục chạy như không có chuyện ǵ xẩy ra, tốc độ c̣n tăng nhanh hơn như hoảng sợ. Lính trên xe xả súng dữ dội hai bên hông mà chẳng biết có trúng địch hay không. Anh Th/S Phải chạy ra bên lề đừơng, ngoắc xe xin cầu cứu đoàn xe mà chẳng chiếc nào chịu dừng. Họ bỏ rơi bạn Đồng Minh ở lại tại trận địa mà trong đó cũng có một SQ Mỹ đồng loại với họ.

              Một chặp sau, có một đoàn quân xa của Đại Hàn đi ngang, họ dừng lại giúp chúng tôi khi thấy xe bị tan nát, đang nằm phục ở dưới hố cạn.

              Lính Đại Hàn rất tử tế, họ vực tất cả mọi ngừơi đặt vào trong thùng xe.  Sau khi Th/S Phải  đă đi thu xếp mọi vật dụng cá nhân và một số quà tặng phẩm Tâm Lư Chiến (đem tặng ZĐ 23 bị VC pháo kích)  c̣n lại trong xe jeep.  Xe chuyển bánh chở về căn cứ của họ, bỏ lại chiếc jeep đang bị nạn bốc khói nằm chơ vơ.

Tuy máu chảy nhiều, nhưng tôi rất tỉnh táo lạ thường. Có lẽ đó là bản năng trường tồn tự vệ của con người. Tay trái tôi dùng hết sức bóp ép vào cổ tay phải đè máu bớt chảy và tự nhủ: vết thương này không thể chết được, cùng lắm là bị cụt tay, nhưng có thể chết v́ nếu bị mất qúa nhiều máu.

              Một anh lính Đại Hàn cắt dây đeo đạn, làm garrot, siết băng lại nhiều chỗ ở cánh tay, máu bớt chảy dần. Tôi cảm thấy an tâm hơn và cám ơn anh binh sĩ này đă biết cách làm cấp cứu đầu tiên (first aid).  

              Tiếp tục trên đừơng di chuyển về căn cứ Đại Hàn, đoàn xe vô sự, không có bị bắn sẻ hay quấy phá. Nằm trên thùng xe phía sau, mắt ngửa lên trời thấy nhiều phi tuần F-4 (Phantom) của Mỹ bay vần vũ quanh ngọn đồi bên trái xe chúng tôi, (xe đi hướng Bắc), trút xuống không biết bao nhiên là bom và đạn đại liên. Những tiếng nổ ầm ầm từ xa vang lại, mảnh khói lân tinh bay khắp tứ phía, bao phủ cả các dẫy cây núi trùng điệp xanh xanh. Không biết có thiệt hại ǵ cho VC hay không mà bom đạn trút xuống quá nhiều.

              Lính Mỹ đánh giặc quá dở, bị một quả ḿn nhỏ mà đă hoảng sợ, tống ga chạy “thụt mạng”. Đây không phải là một vụ phục kích (ambush) đại quy mô như trường hợp trong thời gian chiến tranh “Pháp-Việt Minh”, đoàn convoy  Pháp bị phục kích dài cả cây số, hai bên đánh nhau, chống trả lại kịch liệt. Mỹ chỉ có tài ném bom từng chùm, bắn đại pháo hàng tràng (một tràng là 12 viên pháo), bắn đại liên súng máy hết thùng đạn này qua thùng đạn khác. Mục tiêu ấn định đựơc họ nhắm bắn rất chính xác, không sai một ly. Bọn VC đâu có ngu để mà chết chùm ăn đạn. Bọn chúng có phương pháp chống “Phi Pháo” rất đơn giản và hiệu nghiệm. Đó là “phân tán mỏng” mỏng chừng nào an toàn chừng nấy, chỉ có thế thôi. Ai chết mặc, ai sống sót đựơc nhờ.

              Lính Đại Hàn can đảm và dạn dĩ hơn. Họ coi cảnh “màn trời chiếu đất” hay “nằm gai nếm mật” là sự thường, giống như sự chịu đựng dẻo dai bền bỉ, gian nan và khổ sở của QLVNCH vậy.

              Sau thời gian tổng cộng 6 tháng điều trị tại bệnh viện Mỹ tại Quy-Nhơn và tại bệnh xá HQ ở Saigon, tôi đựơc đưa ra Hội Đồng Giám Đinh Y Khoa tại Tổng Y Viện Cộng Ḥa  và đựơc giải ngũ, phế binh cấp 3 với cổ tay phải bị xụi, cử động khó khăn .

              Ngày cuối cùng  rời khỏi Quân Ngũ, tôi lại Bộ Tư Lệnh /HQ, pḥng Tổng Quản Trị lấy chứng chỉ giải ngũ do anh Nguyễn văn Hiền (tự là Bop R…)  giao cho và đồng thời thẻ căn cước SQ cũng bị thu hồi lại. Lại pḥng Quấn Huấn xin cấp phát bằng SQ/HQ ngành chỉ huy đem về nhà cất giữ làm bảo vật kỷ niệm lưu trữ.

              ADIEU AUX ARMES!!! ......................Rời khỏi HQ với cổ tay phải bị xụi……

              FAREWELL TO ARMS!!!… Gĩa từ vũ khí!!!  Vĩnh biệt Quân Ngũ ….

              Về đến nhà đúng lúc vợ tôi đang dọn cơm trưa, vội khoe đưa hai tờ chứng chỉ ra xem. Cơm xong, như đoán nh́n được sự lo âu thầm lặng kín đáo của vợ tôi qua ánh mắt lạ thừơng của nàng, tôi biết nàng đang có một nỗi buồn nặng trĩu trong tâm can mà không nói ra.

              Nàng âu yếm ôm đứa con đầu ḷng mới hơn một tuổi, khẽ vuốt tóc và th́ thầm nói nhỏ:

              - May mắn lắm đó con ạ, phúc đức ông bà để lại, con chưa phải là đứa mồ côi cha!!!”.

            Tôi tự nhủ, HQ đă dạy cho tôi một mớ kiến thức hải hành, tôi cố nhất quyết lập lại cuộc đờ́ mới. Dù tay xụi, nhưng làm nghề Hàng Hải Thương Thuyền (dân sự) không xử dụng lao động tay chân nhiều, tôi vẫn có thể tự túc mưu sinh nuôi sống gia đ́nh được.

 Một buổi sáng, tôi lái xe đến Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, đi t́m trường Hàng Hải Thương Thuyền. Sau khi khóa xe kỹ lưỡng, tôi đi thẳng vào văn pḥng Giám Đốc, đứng ở ngoài gơ cửa và được một người đàn ông trung niên ra tiếp.

              Ngồi đối diện bàn giấy, tôi từ tốn giới thiệu tên và t́nh trạng mới đựơc giải ngũ ra khỏi HQ, tŕnh bày ư định muốn theo học dự thính các lớp đang giảng dạy của trường Hàng Hải Thưong Thuyền và sau cùng xin dự thi lấy bằng Cận Duyên và Viễn Duyên thuyền trưởng.

              Ông Giám Đốc nghe xong, tỏ vẻ đồng ư. Để tăng cừơng thêm ḷng tin, tôi móc ví đưa ra tờ Chứng Chỉ Giải Ngũ và bằng cấp SQ/HQ ngành chỉ huy cho ông ta xem. Ông xua tay, nói không cần v́ tin là SQ/HQ thật sau khi đă hỏi khá nhiều về các hoạt động, các đơn vị, các cấp chỉ huy HQ, tôi đều trả lời thông suốt. Sau này được biết, đó là HQ Thiếu Tá Phạm văn Sanh, tốt nghiệp ở trường HQ bên Pháp (Brest) và nay được biệt phái sang làm Giám Đốc ở đây.

              Liếc nh́n tấm “Thời Khóa Biểu” của các lớp đang học, ông nói năm thứ hai có ông giáo sư người Pháp JEAN DUCAS đang giảng dạy ở lớp và hỏi có muốn vào lớp không? Tôi bèn gật đầu ưng thuận.

              Đi theo ông lên lầu vào lớp, được giới thiệu với giáo sư đang giảng bài, ông DUCAS tươi cười nh́n tôi và mời vào ghế ngồi. Đi ngay ra dẫy cuối, tôi chọn một cái ghế trống và ngồi nghe ông tiếp tục giảng bài.

              Tan lớp học, lại gần giáo sư, tôi vận dụng tất cả vốn liếng “tiếng TÂY bồi”, cắt nghĩa cho giáo sư  là v́ đang bận đi làm tại tầu buôn VN, tôi chỉ có thể lên lớp khi tầu về bến, lúc chờ đợi “ăn hàng”. Đó là lúc tôi có giờ rảnh để đi học, mong ông thông cảm cho những bữa vắng mặt tại lớp. Tiện thể, tôi xin ông một ít bài gíáo khoa mà ông đang dạy.  Ông Ducass nói:

-         Tôi không có in sách giáo khoa, mà giảng bài đều viết lên bảng.

              Tôi hơi ngạc nhiên v́ câu trả lời, nhưng ông DUCAS đi lại văn pḥng, lấy đưa cho một quyển “Éphémériques Nautiques” (tương đương với quyển Nautical Almanac của Mỹ) do Pháp làm và quyển “Tables de Navigation de l’ Admiral FRIOCOURT”.  Đây là các tập sách có rất nhiều bảng tra dùng để làm toán hàng hải. Phần chủ yếu nhất là bảng giải lượng giác hàm số ṿng và một xấp bài toán hàng hải in ronéo. Mừng rỡ như bắt đựơc vàng, tôi cám ơn ông rối rít, mang về nhà tập làm bài giải.

              Lần đầu tiên sau nhiều năm xa quân trừơng, mớ kiến thức về Thiên Văn Hàng Hải của tôi đựơc ví như con dao cùn, sét rỉ, lâu ngày không cắt được, nay th́ phải đem ra mài lại, tưởng tựơng như ḿnh đang đựơc đi  học  lại một khóa  Tu Nghiệp” hay   “học bổ túc” nào đó.

              Tôi nhớ lại các giáo sư cũ của trường SQ/HQ Nhatrang như thầy Đỗ Kiểm, thầy Dư Trí Hùng, thầy Nguyễn Địch Hùng, thầy Lê Phụng v.v…. đă dạy dỗ chúng tôi, đă truyền nhiều cho chúng tôi những kiến thức qúy hóa của ngành hàng hải, khi lúc chúng tôi mới chập chững, ngơ ngác bứơc vào Quân Trường Nha Trang.

            Lớp học có cái bảng đen dài khoảng 6m, cao 1m5. Ông DUCAS dùng phấn chia làm 3 ô. Ông ghi bài giảng vào từng ô một. Viết xong một đoạn, ông ngừng lại đọc tiếng Pháp rất chậm răi, ngắt đoạn nhấn mạnh từng câu một thật rơ rệt. Xong rồi ông quay lại phía học tṛ, gật gật cái đầu rồi hỏi tất cả lớp:

                “Avez- vous compris tout cà?” (Các anh có hiểu biết hết không?)

              Cả lớp im lặng, gật gật cái đầu đáp lại mà không nói ra thành tiếng. Ông lại ghi tiếp vào ô vuông bên cạnh. Trong khi ông viết trên bảng đen, học tṛ cứ việc chép y như vậy, thừa th́ giờ để chép vào tập. Lúc cần vẽ sơ đồ, ông vẽ thật lớn, dùng phấn đủ mầu xanh, đỏ, vàng tô đậm lên cho dễ nhận. Xong rồi ông lại quay hứơng học tṛ, vui vẻ cười hỏi:

              “Avez-vous bien compris?”      (Các anh hiểu rơ ràng chứ?)

              Tất cả học sinh đều rất trẻ, thông minh và giỏi. Chỉ có điều là yếu tiếng Pháp v́ là học sinh chương tŕnh Việt. Phương pháp giảng bài theo lối sư phạm riêng của ông thật tuyệt hảo, học sinh nào chưa hiểu thông suốt trong lớp, có thể về nhà dùng tự điển tra lại.  Bài giảng chắc chắn sẽ hiểu rơ thông suốt hơn. Ngồi ở cuối lớp học lại, tôi có cảm tưởng như đang ngồi xem một chuyện phim cinêma cũ đă coi rồi, nay được xem lại, ḷng cảm thấy đầy hứng thú và hữu ích.

              Ông DUCAS, nguyên là thuyền trưởng chiếc M/T Cypréa (Motor Tanker), tầu chở dầu lớn nhất của công ty SHELL VIỆT NAM, trọng tải  tôi không rơ nhưng cũng phải trên 4000 tấn. Chiếc tầu này chuyên lấy dầu ở kho trung ương Nhà Bè, rồi chở đi tiếp tế cho Nha Trang, Quy Nhơn và Đà Nẵng,  đôi lần đi Nam Vang trong những giai đọan chiến tranh chưa khốc liệt. Anh Bùi Xuân Đàm (có nick name là Chuẩn Tướng Đàm) có làm thuyền phó cho ông DUCAS và khi ông này nghỉ hè hàng năm (congés annuels) th́ thay ông ta làm thuyền trưởng.

              Toán hàng hải dùng thiên thể trên trời để định vị trí ng̣ai khơi khi không có đối vật ở bờ.  Đó là một bài toán mẫu, đă có sẵn các công thức định trước rơ ràng.  Nếu cứ theo thứ tự từ A cho đến Z, kiểm soát lại các bài tính nhỏ cộng, trừ, nhân, chia cho thật chính xác, kết qủa 100/100 đều là đúng.  Phần khó nhất là thói quen, sự khéo léo khi lấy cao độ, dùng sextant cho đựơc chính xác. Nếu thiên thể đựơc nhận diện đúng, trên trời không bị mây che; đường chân trời (horizon) phân minh một đường ngang rơ ràng giữa trời và biển, không bị các khối không khí ẩm bị mặt trời nóng làm nứơc bốc hơi c̣n lảng vảng ở dưới thấp làm cho đường chân trời  bị lờ mờ,  th́ việc lấy cao độ thiên thể rất dễ dàng và chính xác.

         Ông DUCAS dạy theo lối Pháp,  tôi nhận thấy nếu dùng quen, bài tính giải cũng nhanh như cách dùng bộ HO 214 của Mỹ. Dùng bộ HO 214 của Mỹ, không cần  tra bảng Logarith để tính. Ngược lại nó cồng kềnh v́ toàn bộ sách  gồm 10 cuốn dùng để tra cho các vĩ độ từ  0 độ  cho đến 90 độ Bắc hay Nam, tùy theo vị trí của tầu. (Ghi chú: hiện nay các calculator dùng của học sinh trung học cùng có thể dùng dễ dàng và nhanh chóng  trong việc  tra  “logarith hàm số ṿng”, chỉ cần một vài  key entries là có kết quả ngay, rất tiện lợi).

Khóa của tôi được may mắn học theo lối Pháp và Mỹ, cả hai phương pháp này đều giống nhau. Ban Quân Huấn Vụ có cho mượn sách tham khảo để học thêm. Đó là quyển “DUTTON and Navigation” và quyển “Bowditch”, hai quyển sách này có thể nói là sách gối đầu của mọi ngừơi đi biển để xử dụng. Người Mỹ có cách viết bài giáo khoa thật tuyệt diệu, văn họ viết thật ngắn gọn, nhưng đầy đủ cả ư nghĩa, người đọc có thể h́nh dung ra sự giải thích bài học một cách rơ ràng, lời văn trong sáng và mạch lạc. Phần cuối sách đều có các bài giải để học sinh có thể tự sửa bài cho chính ḿnh. Chỉ có một khác biệt nho nhỏ giữa hai phương pháp, đó là cách giải tam gíac cầu hải hành, khi đi t́m cao độ của thiên thể tại điểm phỏng định (hauteurs estimées de l’astre données par calculs à la position estimée, ngừơi Mỹ gọi là Assumed Altitudes), một bên phải tra Logarith và một bên vào bảng có kết quả liền. Cách dùng điểm phỏng định của Mỹ, dùng vĩ độ (latitude) tṛn không có số lẻ để vẽ trên bản đồ, cách tra bảng angle horaire (HA  = hour angle) cũng lấy góc t  của cực Bắc hay Nam của tam gíac hải hành  làm độ tṛn, không có số lẻ)  cũng có đôi chỗ dị biệt. Sau khi vẽ trên hải đồ, ta có một kết quả như nhau. Ba đường cao độ vẽ được đồng quy tại một tam giác vị trí (chapeau triangulaire de la position) xác định vị trí của con tầu t́m đựơc mà ngừơi Pháp gọi là “Pointe calculée de Marq de Saint Hilère” và ngừơi Mỹ là “Fixed Position”.

              Thước đo độ “rapporteur de l’Admiral JEAN CRASS” mỏng nhẹ, dễ di chuyển, xử dụng nhanh chóng và gọn gàng, làm bằng pexiglass trong suốt. Người Mỹ dùng “three arm protractor”  hoặc là thước “parallel rulers”  cồng kềnh, nặng nề và khó di chuyển. Với loại thước này, ai không quen dùng, sau một vài lần “tịnh tiến” có thể sai đi vài độ, bài tóan kém chính xác, cho kết qủa không đúng.

              Tôi vẫn tiếp tục lại trường khi tầu về bến, rảnh rỗi nhiều giờ lúc tầu “nhận hàng”. Tầu tách bến, ḷng luyến tiếc mất những buổi học do ông DUCAS dạy. Nhưng thôi học ôn mà, cố vận dụng trí nhớ lại để chuẩn bị thi.

              Thời gian  “hải vụ” của tôi (temps de mer)  trong HQ dư thừa đi biển để đựơc chấp thuận đi thi  “phần thực hành” (pratique), nhưng cuối năm đó tôi chỉ đi thi “phần lư thuyết” của bằng Petit và Grand Cabotage  mà thôi.

               Tôi không có đủ thời gian đi thi tiếp “phần thực hành” v́ phải theo tầu đi công tác. Thầm nghĩ, nếu có thi tiếp phần thực hành và đậu th́ tôi cũng không làm thuyền trưởng ngay đựơc. Lư do đă có đủ thuyền trưởng (no captain vacancy). Trở về tầu làm việc chờ năm sau tiếp tục.

              Kỳ thi năm sau, quay lại trường thi tiếp phần thực hành, may mắn tôi đạt đựơc kết qủa mỹ măn. Một điều buồn cười, trớ trêu mà có thật. Bằng SQ/HQ không được giới hàng hải thương thuyền chấp thuận trên mặt pháp lư để hành nghề tại tầu buôn. Tôi không biết luật này từ đâu mà ra, nhưng có lẽ do áp lực của giới nghiệp đoàn đưa ra, ngơ hầu để bảo vệ nghề nghiệp khỏi bị cạnh tranh. Trừơng Hàng Hải chỉ dạy về phần giáo khoa lư thuyết. Bằng cấp do Bộ Giao Thông Công Chánh cấp, cùng với các bằng lái xe đủ loại giao thông trên bộ.  Tổ chức thi kiểm tra khả năng do một hội đồng giám khảo đựơc các sĩ quan HQ của BTL/HQ gửi qua.  Hội đồng này soạn đầu bài thi, kiểm tra, chấm điểm, phê đậu rớt. Bộ Giao Thông Công Chánh sẽ căn cứ vào kết quả báo cáo của hội đồng giám khảo mà cấp bằng. Năm 1973, kỳ thi đó của tôi đựơc HQ Trung Tá Phan Phi Phụng làm gíam khảo, kiểm thi và chấm bài.

              Chương tŕnh học bằng thi Cận và Viễn duyên không có khác ǵ các điều đă dạy trong trừơng SQ/HQ. Chương tŕnh “Quân Huấn Vụ” nặng hơn nhiều v́ c̣n có các môn tác chiến thuần túy HQ, không cần nói ra, chắc các bạn cũng đă rơ và đều đồng ư với tôi.

Trường HH/TH chú trọng đến phần “Chất hàng” (manutention) để cho tầu an toàn khi hải hành trong sóng gió.  Môn này chỉ là một phần trích ra trong môn “Lư thuyết thuyền bè” (théorie du navire) mà đă được dạy thật kỹ trong HQ. Có thêm môn “Báo cáo chuyến hải hành (Rapport de Mer), đây là môn có tính cách Pháp Lư mà Thuyền Trưởng phải làm mỗi khi tầu về bến. Lư do quan trọng là có phần liên quan đến bảo hiểm hàng hóa mỗi khi có hư hỏng do sóng gió gây ra lúc hải hành (Thường th́ tầu buôn bằng gỗ khi xưa, v́ không đưọc kín nước nên hay gây ra sự hư hỏng hàng hóa), các tai nạn xẩy ra như đụng tầu, mắc cạn, dịch tả, bệnh tật, chết chóc, hải tặc hay bị HQ các nước khác uy hiếp hay tịch thâu. Môn này đều có bài mẫu để áp dụng trong mọi t́nh huống, giống như bài luận mẫu vậy, không có ǵ khó lắm.

              Môn vận chuyển đều giống nhau trên căn bản lư thuyết, bài cũng do các thuyền trưởng ngừơi Pháp viết in thành sách (tác giả Calvé). Môn này có nhấn mạnh thêm phần “Thuyền buồm”.   

Trước khi có phát minh ra động cơ hơi nước và động cơ nổ, các thương thuyền đều nhờ sức gió “Mậu Dịch” (Trade wind) để đi qua các đại dương vận chuyển hàng hóa khắp thế giới. Môn này tôi rất thích v́ có thể áp dụng trên các du thuyền (lọai nhỏ) mà ngày nay đă trở thành môn thể thao quốc tế, rất được yêu chuộng.

           Một môn học có hệ số cao, đó là môn “Cân bằng la bàn từ” (compensation du compass magnétique). Đa phần các tầu buôn VN đều nhỏ và cũ nên không có la bàn điện (compas gyroscopique), một đựơc đặt ở pḥng lái, một ở trên nóc đài chỉ huy gọi là la bàn mẫu (compass étalon). Độ sai la bàn lớn quá không thể hải hành đựơc, ngừơi thuyền trưởng phải biết cách  Cân Bằng” nó lại, để  độ sai phải bé hơn 10 độ.

           Có bài toán giải để t́m cách cân bằng La Bàn, tính khoảng cách xa gần của hai quả cầu tṛn bằng sắt non được gắn hai bên phải trái la bàn, cách dùng “thang răng cưa bằng gỗ” (crémaillère en bois) đặt ở phía dưới bên trong hộc tủ la bàn (tabernacle du compass) và cách đặt lại, đưa lên hay đưa xuống các thanh nam châm sửa chữa (aiments correcteurs). Các thanh nam châm này có h́nh dung giống như bút ch́ mầu có hai đầu xanh đỏ mà ta hay dùng khi xưa của hiệu Baignol Fargon thời buổi xưa học tṛ hay dùng. Đối với chiến hạm, HQCX có một xưởng nhỏ chuyên môn đảm nhiệm công việc này, định lại và cân bằng mỗi khi tầu vào đại kỳ. Tầu là một khối sắt nam châm khổng lồ, bị tác dụng tổng hợp bởi các “từ lực” nằm theo chiều ngang, chiều dọc và chiều thẳng đứng và “địa từ trường” (forces magnétiques terrestres) nên tác dụng các lực này rất lớn, làm sai đi hướng Bắc của la bàn rất nhiều độ.

              La bàn đựơc đặt trong hộp gỗ h́nh trụ tṛn thẳng đứng, các ốc và đinh đóng vào không phải là kim lọai sắt (non- ferreux métal) hay phải là bằng đồng. Hộp gỗ có khóa kỹ lưỡng mà thuyền trưởng giữ rất kỹ, không để ai có thể rờ mó vào đựơc. Sở dĩ tôi nói dông dài về La Bàn từ này v́ nó là “Ngừơi t́nh muôn thưở thủy chung của người thủy thủ, không bao ǵơ phản bội kẻ yêu biển trong mọi t́nh huống sóng gió gian truân của cuộc đời”.      

 Đó là câu nói bất hủ của thầy Lê Phụng mà tôi nhớ lại trong lớp lúc thầy giảng bài. La bàn điện có thể rất dễ hư hỏng lúc tầu gặp sóng gió, trở ngại kỹ thuật .v.v.

 Trường HH/TT cũng có dạy các môn “Thủy thủ công” (matelotage) thắt nút, cột dây đủ cả, nhưng không có môn chèo thuyền v́ họ không có thuyền. Các môn cờ đèn, truyền tin, cấp cứu, an ṭan, chữa lửa v.v…. đầy đủ để hiểu biết khi ra tầu làm việc.  Chỉ tiếc một điều, trường quá bé nhỏ, không có phương tiện thực tập hữu hiệu, tất cả chỉ là lư thuyết mà thôi.

              Phần học của SQ/HQ nặng hơn nhiều, v́ c̣n phải gánh thêm  phần quân sự thuần túy,  tác chiến HQ ở biển, lại cộng thêm các môn  truyền tin, điện tử, hải hành tập đội chiến thuật,  các loại vũ khí ngầm, chiến tranh  nguyên tử, hóa học, pḥng tai v.v.

Tôi không cần nói nhiều, có lẽ độc giả cũng đă đồng ư với tôi.

              Dạo đó, năm 1972, nhiều quân nhân HQ có nghĩ đến thời gian “Hậu Chiến”, sau khi Đồng Minh Mỹ rút  khỏi VN,  họ dự trù cho nền  Kinh Tế Hậu Chiến” nên đă có người chuẩn bị đi thi lấy bằng thuyền trưởng dân sự. Theo tôi nghĩ, những ai chuẩn bị thi, ôn lại bài vở cũ (theo lối Pháp) sẽ dễ dàng đạt được kết qủa mỹ măn.

              Bằng cận và viễn duyên do trường HH Phú Thọ cấp có giá trị Quốc Tế. Nếu ai có sổ Thủy Thủ (Livret Marin  hay Sea man book) tương tự trong Quân Đội là quyển “Quân Bạ  là có thể đi làm việc trên các  tầu buôn ngoại quốc đựơc. Trong qúa khứ, nhiều Sĩ Quan Hàng Hải đă làm việc trên các tầu buôn Pháp như Chargeurs Réunis, Messageries Maritimes, Denis Frères v.v…. hải hành khắp thế giới. Đến thời Mỹ qua, các công ty như RMK, Alaska Barges cũng có dùng các thuyền trưởng đó.

              Một hăng tầu Mỹ tên “World Wide” do Giám Đốc là ông Staiger lănh thầu lại của Quân Đội Mỹ để điều hành các LCU và tầu kéo (tug boats) trong các hải cảng Đà Nẵng, Cam Ranh và  Saigon. Anh Ngô Thế Hiển (một Song Ngư member), sau khi giải ngũ đă chung công tác điều hành với công ty ấy. Anh Lê Thành Nam (K11 nick name Nam Đ) làm port master điều hành tại các bến cảng. Tôi, anh Bùi Đức Tu (K13) và một số các HSQ giải ngũ đă làm việc với công ty này điều hành các loại tầu kể trên.

Trung Sĩ Vận Chuyển Lê Quang Sung, em ông cựu TL/HQ Lê Quang Mỹ và một vài người khác dân sự nữa như anh Đoàn Thêm có bằng tài công hạng nhất cũng đều làm chung một công ty. Tôi có làm T/T một chiếc tầu kéo (tug boat) và chiếc YW (tầu chở nước chuyên cấp nước ngọt cho các tấu khác trong bến). Nhiều anh HQ có nghĩ đến vấn đề “kinh tế hậu chiến”, cũng đă chuẩn bị và đi thi lấy bằng (không c̣n phải xin tương đương nữa), nhiều người đă thành công, đậu cao vẻ vang.

              Nhưng than ôi! Ngă rẽ lịch sử đă quẹo qua một hứơng khác, nhiều người đă không hành xử được kết quả thành công của ḿnh.

             Ngoài ông Ducas, theo tôi đựơc biết th́ ông này được dạy theo  chương tŕnh “Mission culturelle francaise” viện trợ văn hóa cho VN dạo đó, cũng c̣n có nhiều nhiều SQ/HQ, nhưng gốc chính là HH/Thương Thuyền, đựơc biệt phái về trường để dạy v́ thiếu giáo viên. Ông Thống, thuyền trưởng tầuViệt Nam Thương Tín, một tầu buôn lớn nhất thời đó, cũng về trường dạy môn vận chuyển khi ông được nghỉ hè hàng năm (congés annueles).

              Động cơ lớn nhất thúc đẩy tôi hăng hái đi thi lấy bằng dân sự là trên mặt pháp lư bằng SQ/HQ không đựơc hành nghề. Mỗi chuyến đi phải làm một tờ đơn xin “Miễn lệ” (dérogation) có chữ kư chấp thuận của thuyền trưởng, chủ tầu và với dấu “chứng duyệt khán” của sở Hàng hải (thuộc bộ Giao Thông Công Chánh). Tôi bực bội, tự ái và nhất quyết vượt qua chướng ngại này.

              Công Ty VISHICO LINES  do ông Trần Đ́nh Trường làm chủ, có thế lực nhiều, xin được SQ/HQ biệt phái qua làm thuyền trưởng như  Ô.Quỳnh (K7) làm thuyền trưởng tầu dầu Ḥa B́nh, ông Rạng (K.10)  làm thuyền trưởng tầu Sao Mai và một số các anh khác qua làm việc trên boong và máy. Công ty này có nhiều tầu, đa phần là tầu cũ mua lại của Nhật, như tầu Trường Giang, Trường Vinh,Trường Thành, Trường Xuân (Tầu này  do thuyền trưởng Phạm văn Lũy điều khiển  chở đồng bào tỵ nạn rời khỏi VN qua Hồng Kông năm 1975)  Trường Sinh v.v.  Tên đầu của các tầu đều đặt là Trường, tên của chủ nhân công ty.

              Dàn “Tầu Bà”, tên gọi như vậy là ám chỉ bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đ́nh Nhu, có nhiều tầu chạy miền Trung để gây tiền quỹ cho đảng “Cần Lao” một đảng mà ông Nhu lập ra để bảo vệ chế độ Gia Đ́nh Trị. Sau ngày cách mạng 1/11/63 lật đổ ông Diệm, các tầu thuộc công ty bị tịch thâu và đựơc giao cho “Hỏa Xa Việt Nam” khai thác. Thiếu thuyền trưởng, HQ/VN có biệt phái  SQ và HSQ qua điều hành các tầu trong đó có chiếc Nhật Lệ mà ông Bùi HữuThư làm  thuyền trưởng một chiếc tầu to và mới nhất, ng̣ai ra c̣n các chiếc như  “Đại Hải, Trường Sơn, Phú Quốc, Thống Nhất, Thăng Long (bị ch́m)  trong đó có các anh  Quí (K5) , anh Tánh (K 11), (K11), Bích (K11), Thành (K 12) v.v.  … và một số nữa quên rồi.

              Tôi vẫn nhớ và yêu nghề “Chân Vịt Bánh Lái” lắm.  Qua hải ngoại, điều kiện sinh sống không cho phép tôi hành nghề trở lại, nhưng cửa trường Hàng hải vẫn mở rộng để đón nhận những ai muốn theo nghề, cầu tiến và trao dồi chuyên môn. Phần lớn tầu của họ thuộc loại  “Ocean Going”, công tác ngắn nhất  cũng vài ba tháng, không thích hợp với tôi v́ luôn xa gia đ́nh.  Song Ngư 12 có anh Ngô Sanh (M D Đ), Nguyễn Văn Bé (XLĐ), Nguyễn Gia Nam (TC)   đều tiếp tục nghề đi biển trên các tầu Canada và Pháp cho đến khi về hưu.

              Những khi nhớ biển, tôi thường lái xe lúc cuối tuần ra vịnh “Philips Bay” thuộc Melbourne, ngắm nh́n những con tầu xuyên Đại Dương rẽ sóng qua lại. Nh́n những cánh hải âu vung cánh tung trời mà ḷng buồn buồn rào rạt, mông lung, đi t́m lại những kỷ niệm quá khứ thời xa xôi trong tâm tưởng. Nằm bật ngửa trong xe, mắt lim dim mơ màng trong cái gió mát, phe phẩy vuốt ve khuôn mặt.

              Một điều thích thú nữa, xin được kể tiếp.  Đó là cái thú được đi tầu buồm, loại này lớn hơn ghe du thuyền và đựơc gọi là Tall Ship v́ có nhiều cột buồm rất cao. Đựơc đóng nhái lại (replica) theo y mẫu của các tầu gỗ thời Trung Cổ, bên trong có lắp thêm máy phát điện và một động cơ nhỏ chạy phụ và đầy đủ tiện nghi. Tầu thuộc một “sea scouts association”, các thủy thủ trên tầu đều là con trai và con gái rất trẻ, nhanh nhẹn và hoạt bát.

Tầu tách bến, các thủy thủ nhanh nhẹn, liếng thoắng như một đàn khỉ, vượn, leo trèo lên các ngon buồm cao tít chót vót, ngẩng nh́n lên xem mà muốn chóng mặt. 

Họ làm theo lệnh chỉ huy của thuyền trưởng, nghe theo tiếng c̣i thổi tu huưt và lệnh truyền miệng cho nhau  để thả buồm, quay lèo, trở hướng buồm, nhịp nhàng, đồng bộ y như các thủy thủ chuyên nghiệp thuở xa xưa lúc c̣n đang thịnh hành  của các đội thương thuyền. Tầu đi ra xa, quay một ṿng lớn thật lớn trong vịnh rồi trở về bến cũ trong khoảng hai tiếng đồng hồ. 

Đưọc dịp ngắm nh́n cảnh sinh hoạt trên tầu, tôi rất cảm thấy hân hoan, thú vị. Giá vé xuống tầu coi xem chỉ có 5 đô, quá rẻ để ủng hộ hội “Sea Scouts” gây quỹ cho họ mà thôi ./.

Ghi Chú: Theo luật, muốn thi lấy bằng Thuyền Trưng của Úc hay Anh, cho dù đă làm Thuyền trưởng lâu năm và có nhiều kinh nghiệm tại nước sở tại cũ của họ, cũng vẫn phải bắt đầu lại từ đầu, có nghĩa là phải đi từ AB (able seaman), tức là thủy thủ có khả năng đi biển rồi từ từ từng bước theo thời gian mà tiến thân.

Khó khăn và cần nhiều kiên nhẫn lắm cho những ai yêu nghề đi biển./.

Trở lại