Mẹ
tôi sinh ra tôi năm trước, năm sau mẹ tôi
lại sinh em bé. Sữa mẹ chỉ đủ cho em bé,
nên tôi phải ăn nước cơm thay sữa. Khi tôi
lên ba mẹ tôi lại sinh em bé nữa, nên nhà neo quá.
Mẹ tôi nhờ Bác Đồ Gái cho chị Đan ra
“đỡ tay đỡ chân cho thím”. Chị Đan hơn
tôi vừa một giáp. Lúc tôi lên ba th́ chị Đan
đă mười lăm. Từ lúc có chị, hầu như
lúc nào tôi cũng ở bên cạnh chị. Chị cho tôi
ăn, thay quần áo và tối đến hai chị em
đắp chăn kín chùm đầu.
Những đêm trời không có trăng, bầu trời
đầy sao lấp lánh. Chị đưa tôi ra sân
chỉ cho tôi h́nh ông Thần Nông lưng cong một dăy
ngôi sao, và có hai cái giải mũ cũng là hai giải
sao nhưng mờ nhạt cao vút lên trời. Ông Thần
Nông lúc đầu hôm c̣n ngồi đó, đến
khuya đă cúi xuống, chị bảo “ông Thần Nông
đi cấy đấy”. Tôi nh́n quanh bầu trời,
sao bát ngát, chị bảo “mỗi ngôi sao cầm tinh
cho một con người”. Lâu lâu có một ngôi sao
đổi ngôi, bay loè ra thành một vệt dài, chị
bảo “thế là có một người mới
mất đấy”. Ôi chao, sao nhiều quá đếm
chả nổi, th́ chị bảo cách đếm:
“Một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng…” Tôi
đếm như thế, thả hồn ḿnh vào bầu
trời bát ngát, cao rộng rồi ch́m vào giấc
ngủ. Nhiều hôm trời chuyển mưa, có khi có băo,
sấm chớp ầm ầm, tôi sợ lắm, nhất
là mẹ tôi lại đi chợ vắng nhà. Nằm
trong chăn, nh́n qua cửa sổ, bầu trời
vần vũ, tối đen, tôi thắc mắc không
biết những ông sao bây giờ ở đâu.
Những lúc như thế chị vào nằm cạnh tôi
cho tôi đỡ sợ và chị hát, giọng hát
ngọt ngào bát ngát:
“Đêm
qua chớp bể mưa nguồn
Hỡi
người tri kỷ (a) có buồn hay (a) không”…
Nghe
chị hát, tâm hồn tôi trở nên yên ổn và tôi ch́m
vào giấc ngủ hồi nào không hay. Những hôm
trời nắng, chị lấy cơm nguội với tôm
khô kho khế, đem ra gốc cây khế cho tôi ăn. Cơm
nguội bùi, tôm ngọt đậm, các lát khế chua
chua. Tôi chạy nhảy tung tăng, chị bưng bát cơm
chạy theo tôi. Có khi chị ngồi trên ḥn đá dưới
gốc cây khế, hoa khế tím rơi đầy trên
nền đất mịn. Chị nh́n lên cây khế, cành
khế gió thổi xôn xao, chị lại hát:
“Trèo
lên cây khế nửa ngày
Ai
làm chua xót (a) ḷng mày khế ơi…”
Có khi chị lấy cái sào dài khoèo quả khế
chín vàng ở trên cành cao cho tôi ăn. Tôi ăn một
tị là chán. Chị xé từng cánh khế, chấm
muối ớt ăn thật là ngon. Chị xít xoa, đôi
mắt long lanh và có khi chảy cả nước
mắt, mà chị vẫn cười.
Tháng tám đến, mẹ tôi mua cho tôi một ông
tiến sĩ giấy, loại vừa vừa, mặt
vẽ bằng giấy nhưng có vạt áo dài xoè ra,
hai tay là hai ṿng giấy xun xun ṿng trước ngực.
Tôi bày ông tiến sĩ vào cái mâm chơng bằng tre. Các
em gái tôi đứa th́ được cái đèn con
thiềm thừ, đứa th́ được cái đèn
con cá, đôi khi c̣n có cả một đàn con giống
bằng bột nhuộm màu xanh, đỏ. Mắt các
con giống là những hột cườm. Đẹp th́
có đẹp, nhưng tôi không thích các thứ đó. Tôi
thích cái tàn, cái tán như lũ trẻ con hàng xóm,
cắm quanh cái kiệu bát cống có trạm những
đầu rồng. Nhưng nhà tôi nghèo, nhưng thứ
đó đắt lắm. Để bù lại, chị
Đan mua thêm cho tôi một quả bưởi đào,
lột vỏ xoè ra như một bông sen, bày bên
những quả hồng ngâm xanh ngắt. Đến hôm
rằm, lúc trăng sáng nhất, trẻ con nhà giầu
đem kiệu ra rước ở Ngă Ba. Tiếng
trống rước to nhỏ rập ŕnh như ngày
mở hội làng. Những đèn nến, đèn
lồng thắp sáng lung linh. Các kiệu ấy trở nên
đẹp lạ lùng. V́ ngoài ông tiến sĩ to,
mặt là cái vỏ trứng gà điểm nhăn sắc
sảo, môi son, áo măo bằng trang kim lóng lánh, để
giữa những tàn, lọng, bát bửu hệt như
ở sân đ́nh những ngày tế thần hoàng.
Chị Đan dẫn tôi đi xem. Chị bảo: “Ai
học giỏi, thi đỗ tiến sĩ th́ được
hàng tổng, hàng huyện đón rước như
thế đấy. Em cố mà học cho giỏi, đỗ
cho cao cho chị mừng…” Rồi chị kể
chuyện hai vợ chồng anh học tṛ nghèo qua câu hát:
“Sáng
giăng giải chiếu hai hàng
Bên
anh đọc sách (chứ) bên nàng quay tơ.”
Năm tôi lên sáu th́ chị về nhà chị. Tôi
tấm tức, khóc hoài v́ nhớ chị. Bây giờ tôi
ngủ chung với hai đứa em, đắp chung
một cái chăn bông rộng mêng mông như che kín
được cả trời. Buổi đầu hôm ba
anh em ḅ từ cuối giường lên đầu giường,
đùa vui, cười rúc rích. Khi đă mệt và
bắt đầu buồn ngủ, tôi lại nhớ
chị quá. Quanh tôi như trống trải, thiếu
vắng thế nào. Tôi bồi hồi nhớ chị. Tôi
nhớ những lời chị hát, nhớ mùi bồ
kết, mùi chanh toả ra thơm ngây ngất từ làn
tóc chị…. Tôi như ” chột” đi khi không có
chị.
>>> Ngày Tết đến, đêm ba mươi
trời tối đen như đặc lại. Tôi đi
từ nhà trên xuống bếp như ôm cả cái náo
nức chờ đón mùa xuân vào ḷng. Mẹ tôi
ngồi bên bếp lửa. Ánh lửa bập bùng. Có
thể đó là một nồi cá chép kho cùng với
thịt để ăn với bánh chưng. Có thể
đó là nồi măng khô ninh với chân gị. Trên gác
bếp có treo mấy cái gị mỡ, kẹp chặt trong
những thanh tre dài. Mỡ thấm cả ra ngoài lá
chuối xanh, đọng lại trắng ngần. Trên nhà
trên, đèn nến lung linh, ánh lên các nét chữ sơn
son thiếp vàng ở những bức đại tự.
Cảnh con hạc soải cánh bay đi, c̣n ngoảnh
cổ lại để nh́n cành tùng khẳng khiu trơ
vơ chờ đợi, trên nền câu đối
vải. Thầy tôi trong áo the, khăn xếp, đi
đi, lại lại, thấp những tuần hương
lên khắp các bàn thờ.
Những lúc như thế, giờ của năm cũ
sắp qua, năm mới sắp đến th́ chị
Đan đến. Chị mặc áo dài tứ thân,
thắt bao hoa lư. Chị bưng cái mâm gỗ có đậy
lồng bàn. Chị đặt mâm lễ vật trước
bàn thờ, mở lồng bàn ra. Đó là một mâm chè
lam. Những thỏi chè vuông dài màu xám có rắc
một làn bột bỏng màu trắng ở xung quanh.
Chị lễ phép thưa: “Mẹ cháu bảo để
đem chút lễ vật đến cúng ông bà bên
ngoại…” Thầy tôi cười: “Bác Đồ
cẩn thận quá. Năm nào cũng nhớ đến
các cụ…” Chị nh́n tôi, cười và bảo:
“Mai, à sang năm mới chứ, em nhớ đến xông
đất nhà chị nhá…” Tôi chỉ đợi có
thế, tôi mừng là chị chẳng bao giờ quên tôi.
Chị về. Những bước chân chị bước
trên lối ngơ có lờ mờ h́nh cái cung vẽ
bằng vôi trắng mà anh cả tôi mới vẽ
hồi chiều. Đêm đen thẫm bưng lấy
mắt, lạnh ngọt. Tiếng những cái khánh đất
va vào nhau kêu cung kinh ở trên ngọn cây nêu dựng
ở sát tường hoa gần cổng, những âm
thanh rời rạc, khô cứng như phát ra từ
một cơi nào mơ hồ, huyền hoặc.
Sáng mùng một đầu năm, sau khi lễ ông bà
ở nhà và đă được thầy mẹ tôi
mừng tuổi, tôi muốn đến nhà chị Đan
ngay. Anh cả tôi dắt đi. Tôi mặc cái áo dài
mới. Cái áo gọi là mới, chứ thực ra cái áo
này anh tôi đă mặc rồi, đă cũ, mẹ tôi
“soạn” lại, cắt ngắn đi cho tôi mặc
và mới được nhuộm thâm lại ngày trong năm.
Quần chúc bâu trắng sột soạt, đi đôi
guốc, bước lóc cóc trên đường
gạch, tôi đến nhà chị. Dọc đường
gặp biết bao nhiêu là người, ai cũng mặc
quần áo mới, có người đă bắt đầu
đi lễ ông vải. Có những anh lớn hơn tôi
độ vài ba tuổi cắp cái cháp đen đựng
trầu cau, theo người lớn đi lễ các nhà
thân thuộc. Ngoài chùa vẫn c̣n lặng lẽ.
Tiếng chuông êm ả chuyền đi. Qua góc ao đ́nh,
nơi có cây bàng nằm lả ngọn ra mé nước,
rẽ trái là lối vào nhà chị. Dinh cơ của các
ông bá, ông lư ở phía trong, tường gạch cao
ngất.
Nhà chị, nhà tranh nằm ngay phía ngoài, đầu
con ngơ. Hai cánh cổng có dán hai bức tranh thiên
bồng vẽ hai ông tướng mặt đỏ, râu
dài, cầm gươm canh cửa. Tôi chưa gọi
chị đă mở cổng đón tôi. Anh tôi dứng
đằng sau. Chị bảo: “Thôi chú về đi, lát
nữa tôi đem trả em…” Anh tôi cười
rồi về. Tôi xà vào ḷng chị. Chị mặc áo
mới, yếm mới. Tóc chị thơm thật là thơm.
Chị hôn lên má tôi. Rồi chị vạch túi áo cánh
trắng ra, đưa cho tôi một đồng xu đồng
mới tinh, đỏ au. Tôi sướng lắm, cầm
vào ḷng bàn tay thật chắc. Chị lại hôn tôi
nữa rồi mới dắt tôi vào nhà, lên nhà trên
mừng tuổi bác Đồ Gái. Bác Đồ Gái
ngồi sẵn trên phản ở gian giữa, bác cười:
“Lớn rồi đấy, sắp đi học rồi
đấy cháu nhỉ… Cháu tôi lên mấy rồi nào…”
Bác Đồ Gái mừng tuổi cho tôi một đồng
chinh màu vàng mỏng mảnh. Cám ơn Bác Đồ
xong, tôi lại chạy ra với chị.
Chị nh́n tôi, ôi đôi mắt chị sao mà âu
yếm thế. Tôi xà vào ḷng chị và quên mất
đồng xu, đồng chinh tôi đă buông ra, rơi
ở đâu rồi. Chị vuốt tóc tôi. Chị nói:
“Em được nhiều tiền mừng tuổi quá
nhỉ…” Lúc đó tôi mới hoảng hốt nhớ
đến các đồng tiền mừng tuổi, không
biết tôi đă để đâu rồi. Tôi khóc th́
chị cười. Chị x̣e bàn tay ra, đồng xu và
đồng chinh mừng tuổi nằm giữa ḷng bàn
tay chị. Chị lấy giải yếm lau nước
mắt cho tôi, rồi chị lấy giải rút quần
của tôi xâu các đồng tiền, buộc lại.
Buông tà áo dài của tôi xuống, chị kéo tôi vào ḷng
chị. Hơi ấm hoà trong mùi tóc của chị thơm
nồng bay tỏa bao phủ quanh tôi, chị nhẹ nhàng
gh́ cằm chị vào đầu tôi và chị đọc
những câu thơ mà sau này tôi mới biết là
của Nguyễn Bính:
…Bữa
ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa
xoan đă nát dưới chân giầy
Hội
chèo làng Đặng về ngang ngơ
Mẹ
bảo mùa xuân đă cạn ngày…
Lời thơ dịu dàng, lăng đăng ru tôi vào
giấc ngủ. Khi tôi tỉnh dậy, bác Đồ Gái
nói đùa: “Con trai lớn rồi đấy. Sắp lên
bảy rồi. Tuổi cắp sách đến trường
rồi.”
“Vâng, năm nay tôi lên bảy. Tôi đă lớn. Tôi
không chơi đùa lêu lổng như những năm c̣n
bé…” Đó cũng là đoạn văn đầu tiên,
sau khi tôi đă học hết vần bằng, vần
trắc trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư
lớp Đồng Ấu.
Buổi học đầu tiên của tôi chị
Đan cũng đưa tôi đi. Tôi học ở nhà
chú Phương, con cụ lang. Chú Phương mặc
quần áo trắng hồ lơ, tóc chải ngược
về phía sau và cài lại bằng một ṿng giây thép
uốn. Chú đi guốc, gót cân đỏ chót.
Ngồi bên cạnh tôi là Cái Gái. Cái Gái đă lớn
lắm, cao bằng chị Đan, là con Cô Thầy. Cái Gái
bị tật từ nhỏ, chân đi kḥng khoèo, tay
cầm bút thật là vụng, viết măi chẳng
được một chữ, nước răi c̣n
chảy ra nhoè cả mặt chữ. Cái Gái phải
gọi tôi bằng anh, v́ họ hàng sao đó, “bé
bằng củ khoai, cứ vai mà gọi”. Cái Gái
gọi tôi bằng anh ngọt sớt. Học được
mấy hôm tôi đă viết đủ các mặt
chữ cái kể cả “chữ in” cũng như
“chữ viết”. Và chỉ độ một tháng tôi
đă học hết vần bằng và vần trắc,
tôi đă đọc được các bài ngắn mà bài
đầu tiên là bài “Hôm nay tôi đi học…” Dưới
bài bao giờ cũng có câu cách ngôn như: Ăn vóc
học hay.
hậu. Khi th́ một quả chuối tây, khi th́
một cái kẹo bột. Và chẳng bao lâu tôi đă
viết ám tả được rồi. Tôi thích
lắm, tôi viết các câu thơ của Nguyễn Bính vào
một cuốn sổ nhỏ. Các câu
Cái Gái
lúc ấy vẫn c̣n lết bết với
mấy chữ n, m mà mực tím nhoè nhoẹt v́ nước
răi. Hàng ngày tôi phải viết hộ Cái Gái cho
hết trang. Bù lại Cái Gái bao giờ cũng trả công
cho tôi rất thơ này trước đó tôi đă
thuộc ḷng qua các câu hát của chị Đan và
của anh tôi nữa.
Cô Thầy là mẹ của Cái Gái. Cô Thầy làm
nghề Thầy Bói, hai mắt mù cả. Nhà cô ở
tận Ngơ Đồng Mát, cuối con đường
gạch, lối đi ra đồng. Cô rất là đông
khách. Nhất là các ngày ba, ngày bảy là ngày phiên
chợ Nủa, khách phải ngồi đợi ở sân.
Nhà cô tuy là nhà gianh nhưng cất cũng đẹp, có
nhà trên, nhà ngang và nhà bếp như h́nh chữ U mà các
cụ bảo là h́nh chữ Môn. Gian giữa để bàn
thờ ông vải. Gian bên có h́nh con cá hoá long mầu tím
vẽ thẳng vào tường. Những vảy cá xanh tím
ẩn hiện trong lớp thuỷ ba. Gần nóc nhà là bàn
thờ Thổ Công, cái mũ giấy óng ánh trang kim. Bên
cạnh là bàn thờ Ngũ Hổ, có h́nh vẽ năm
con hổ năm mầu thật là dữ ngồi quanh cái
hộp vuông như cái ḥm ấn vua ban. Sát bàn thờ chính
là cái ghế ngựa, nơi cô làm lễ và tiếp khách.
Tuy là ở nhà nhưng Cô Thầy ăn mặc rất
chỉnh tề, áo cánh bên trong, áo dài bên ngoài, cô c̣n
thắt lưng dài to bản mầu tím.
Bắt
đầu buổi xem bói bao giờ cô cũng ôm theo cái
cháp đen. Mở cháp ra, cô bày những đồng
tiền xám xịt mà người ta bảo đó là
những đồng tiền lấy từ trong mả người
chết, gọi là tiền cải mả, nên rất linh
thiêng. Cô sờ lên mặt những đồng tiền,
xếp úp các đồng tiền lại. Rồi cô cười
và nói với thân chủ:
– Nào cho tôi biết ngày sinh tháng đẻ nào”…
Người khách trịnh trọng xưng tên
tuổi. Cô lấy ngón tay cái bấm lên những đốt
tay, giương đôi mắt chỉ có ḷng trắng như
nh́n vào một cơi xa xăm huyền bí nào. Nếu là người
trẻ, thường th́ cô cười và nói: “Cô
đây xem về t́nh duyên phải không?…” Người
khách thưa “vâng”. Cô đốt một nén hương,
đặt ngang miệng đĩa đựng các đồng
tiền cải mả và tiền đặt quẻ, lâm
râm khấn “…thất thập nhị hiền thu
nhập tiền nhang…” Cô hạ đĩa tiền
xuống, lấy những ngón tay sần sùi bốc
những đồng tiền trên đĩa, dơ cao
rồi buông xuống đĩa. Cô nói: “Sơ vi
đơn”. Mỗi lần như thế gọi là
một lần gieo quẻ. Tùy theo những đồng
tiền xấp, ngửa, ba lần gieo là một quẻ.
Căn cứ vào đó mà cô đoán quẻ cho thân
chủ. Với những cô c̣n trẻ, mới lấy
chồng, tôi thường thấy cô nói: “Số cô
trắc trở. Tưởng là chuột sa chĩnh
gạo lại hoá ra chuột sa chĩnh nước đây,
phải không cô…” Thân chủ chỉ biết “vâng”.
Cô Thầy lại nói: “Thật là vui từ trong
cửa vui ra, buồn từ ngă bảy ngă ba buồn
về đấy cô ạ.”
Nếu là người già cả xem gia đạo, Cô
Thầy cũng gieo quẻ như trên, nhưng thường
là “Động mả ông tam đại đây bà
ạ. Mà như là có cái rễ cây nó đâm vào ngôi
mộ của cụ nhà đây…” Người đàn
bà thân chủ chỉ c̣n biết “lạy thánh mớ bái,
xin Thầy chỉ bảo cho.” Lúc ấy thường
th́ Cô Thầy bảo thí chủ ra ngoài bờ rậu,
ngoảnh mặt về phía đông, ngắt một cành
lá đem vào cho Cô xem lại. Cô đếm những
chiếc lá để định quẻ và thí chủ
phải đặt quẻ lần nữa. V́ động
mả rất là quan trọng, nên Cô thường nói:
“Phải lễ Phật trước, lễ quỷ
thần sau”. Người xem bói chỉ c̣n biết nghe
theo lời Cô dạy, sửa một cái lễ khá
cầu kỳ, “Phải lấy đủ đất
đ́nh, đất chùa, đất chợ, đất
ngă ba và đất giếng; nước vang hoà với
nước vôi; chín cái kim làm xương. Tất
cả trộn vào nhau, nặn thành h́nh con rùa, đem táng
ở đầu ngôi mộ ông tam đại. Nước
vang ḥa với nước vôi rảy quanh mả một
nửa, c̣n một nửa hắt qua mái nhà gian
giữa…” Ngoài ra c̣n phải sửa một cái
lễ: “mâm trên sôi chuối, vàng tốt một trăm,
mũ vàng một chiếc; mâm thứ hai cơm canh…”
Sợ gia chủ không nhớ được, Cô thường
bảo “Phải viết ra, và có thằng cháu tôi đây,
nó học giỏi lắm, viết cho bà…” Thường
th́ Cô bảo lấy cái bao hương xé ra, lộn
mặt trong, viết các lời chỉ dẫn, và bao
giờ tôi cũng đươc 5 xu. Đó là những
đồng tiền đầu tiên tôi kiếm được
trong đời. 5 xu của những năm đầu 40
mua được mấy cái bánh tẻ. Khi khách đă
về, Cô thường nói: “Biết khi nào Cái Gái
mới viết được thông thạo như cháu.”
Từ khi tôi đi học th́ chị Đan không c̣n
ở nhà tôi nữa. Bác Đồ gái ra bảo với
mẹ tôi rằng: “Thím cho cháu nó về. Em bé cũng
đă lớn, mà cháu nó cũng gần 20 rồi đấy,
th́ cũng phải có thời giờ cho người ta
trông vào…” Chị Đan về nhà chị. Chị giúp
Bác Đồ Gái dệt cửi. Những hôm tan học
sớm, tôi ra nhà chị. Thấy tôi bao giờ chị cũng
mỉm cười, ngừng tay thoi và thế nào cũng
có cái ǵ cho tôi ăn. Khi th́ một quả hồng ngâm,
khi th́ bát cơm nguội ăn tép kho. Ăn xong tôi
đọc cho chị nghe các bài học thuộc ḷng
mới nhất, như:
Xuân đi học coi người hớn hở
Gặp
cậu Thu đi ở giữa đàng
Hỏi
rằng sao đă vội vàng
Trống
chưa nghe đánh đến tràng làm chi
Thôi
hăy gượm đừng đi anh ạ
Này
con khăng tôi đă sẵn rồi…
Tôi
lớn dần lên với các bài học ấy và tôi cũng
dần xa chị. Chị chỉ ra nhà tôi “làm giúp”
khi nhà tôi có giỗ ông, giỗ bà mà thôi. Năm
ấy, năm Ất Dậu 1945, đêm mùng 9 tháng 3, có
tiếng súng lốp bốp từ miệt trên tỉnh
vọng về. Sáng ra người ta kháo nhau rằng
Nhật nó đảo chính Tây rồi. Ở Ngă Ba, gia
đ́nh ông Tây Kư Rượu đă đóng cửa
trốn đi đâu mất tăm. Rồi máy bay hai ḿnh
của Đồng Minh bay trên bầu trời cao vút,
thật nhanh. Nhanh gấp mấy lần những
chiếc máy bay của Tây bốn cánh vuông vức kêu ̣
oè, bay chậm ŕ măi chưa qua khỏi vùng trời làng
tôi. Lúc ấy tôi vẫn hay ra nhà chị Đan, nhưng
có khi không gặp chị. Hỏi Bác Đồ Gái, bác
bảo: “Ấy độ này cô ấy cứ ăn
rồi lại đi. Bạn bè thậm thà thâm thụt,
bác cũng chả biết…”
Một hôm trước phiên chợ Nủa, chị ra nhà
tôi chơi, lúc về chị nói nhỏ cho tôi nghe: “Mai
em ra Ngă Ba, có cái này hay lắm…” Tôi hỏi gặng
chị th́ chị bảo: “Cứ ra Ngă Ba th́ sẽ
biết.” Hôm chợ Nủa, lúc phiên chợ bắt
đầu đông, từ phía Cổng Chợ Ḅ có
một đoàn người đi đến. Dẫn
đầu là một người vác một lá cờ
đỏ sao vàng thật lớn. Theo sau là đoàn người,
toàn là trai trẻ, và có cả đàn bà nữa, họ
ăn măc thật gọn ghẽ. Người th́ vác
con dao phạt bờ, người th́ vác cái giáo, cái mác.
Mặt ai cũng hằm hằm rất là dữ. Vừa
đi họ vừa dơ những nắm đấm lên
cao và hô vang những câu:
– Đả đảo phát xít Nhật!
– Đả đảo lũ tay sai phong kiến!…
Và đi cuối cùng có một anh tay cầm
khẩu súng lục, mắt sáng quắc. H́nh như anh
ta nh́n thẳng vào mắt tôi và tôi sợ. Đoàn người
đi qua mặt tôi thật nhanh, đông không biết
bao nhiêu mà kể. Họ đi qua chợ. Chợ đang
đông, muốn vỡ. Nhưng họ không rẽ vào
chợ. Họ đi tuốt ra Cổng Giếng, rồi
tụ lại ở G̣ Gai, hô vang những khẩu
hiệu tại đó, rồi họ tản đi
rất nhanh, biến đi đâu tài quá. Chợ lại
họp như thường. Các vị chức sắc
trong làng lo lắng. Có người bảo: “Phải
đi cáo quan huyện. Chứ để thế này có ngày
oan gia…” Từ đó trong làng người ta bàn tán,
người này “ở trong bóng tối”, người
kia được “móc nối”, toàn những tiếng
thật là mới mẻ.
Rồi những người đi buôn từ ngoài
tỉnh về bảo: “Ở ngoài tỉnh Mặt
Trận đă cướp chính quyền rồi…”
Cả làng rộn ră. Một buổi tối, thay v́ mơ
rao, là một người cầm loa, đến
những đầu ngơ lúc nửa đêm, bắc loa
gọi: “Alô, alô. Ngày mai, từ sáng sớm, tất
cả nam, phụ, lăo, ấu tập họp tại sân
đ́nh để đi biểu t́nh…” Đó là
một đêm thật lạ. Cả làng như cùng
thức dậy với tiếng loa. Mới sáng sớm,
mọi người ra đ́nh đă thấy có một lá
cờ đỏ sao vàng, buộc vào một cáo sào dài,
dựng ở giữa sân cỏ. Cả làng tụ
lại. Có mấy anh thanh niên, nghe đâu từ trên
huyện về, có súng lục giắt ở cạp
quần. Các thanh niên này mời mọi người
xếp hàng tề chỉnh, sẵn sàng gậy gộc,
giáo mác để lên huyện cướp chính
quyền. Trong đám thanh niên đứng ra hô hào
ấy, tôi thấy có cả chị Đan. Chị Đan
của tôi. Người đă bế ẵm tôi, đă hát
ru tôi những ngày tấm bé. Chị buộc tóc sau gáy.
Quần túm lại. Nhưng oai nhất và khiếp
nhất là chị cuốn quanh bụng một cái bao
lớn, và giắt ở đó một khẩu súng
lục, ḷi cái chuôi súng ra ngoài. Chị leo lên cái bàn, dơ
nắm đấm lên cao và hô “bài phong, phản đế”.
Tôi nh́n theo chị, vừa thấy xa lạ, vừa có
phần hănh diện với những đứa nhỏ
đứng xung quanh: “Chị Đan của tao đấy”.
Khi đoàn người xuất hành, chị nh́n thấy
tôi, mắt chị như dịu lại một khắc
và như mỉm cười, rồi chị khuất
đi rất nhanh theo đoàn người đi cướp
chính quyền.
Từ đó nhà Bác Đồ Gái chỉ có ḿnh bác.
Có người bảo: “Cái Đan nó làm to thế mai
kia tha hồ mà nhờ.” Bác Đồ Gái chỉ cười
và đáp: “Ối chao, nhờ đâu chả thấy,
chỉ thấy mấy tăm mất hút. Lâu lâu vác xác
về, cả bè cả lũ, ăn hại chứ báu ǵ…”
Từ đó cuộc sống mới đă cuốn hút
chị Đan của tôi và những thanh niên cùng
lứa tuổi đi khỏi lũy tre làng. Chị
từ giă cây khế, quên các bài ca dao t́nh tứ
thuở nào. Chị đi theo “đời sống
mới để giành cơm áo”. Cũng từ đó
tôi lớn dần. Cuộc chiến bùng lên với bao
nhiêu oan nghiệt, khủng khiếp. Cuộc chiến
đă hút tôi ra khỏi xóm làng, đưa tôi vào Nam,
đă đem tôi tới những vùng biển rộng.
Những đêm trăng sáng, biển lặng, ở trên
con tàu chiến lênh đênh, nh́n về núi non, đất
nước, ḷng tôi chất chứa những bồi
hồi. Tôi nhớ những người thân, nhớ con
đường cũ, gốc đa xưa, tôi nhớ
đến chị Đan, nhớ đến Cái Gái,
nhớ những người bạn một thời thơ
ấu cũ, nhớ cây khế của một thuở nào
xa… Rồi cuộc chiến đột ngột tàn và
đem tôi ra khỏi đất nước với bao cay
đắng, ngậm ngùi. Những năm sau 75, tôi sót xa
tự hỏi: “Càng lúc ta càng xa đất nước,
làng xưa. Có bao giờ trở lại” Chắc là vô
vọng…”
Vậy mà tháng tư năm 94, tôi đă trở
về quê cũ, làng xưa. Sau bao nhiêu ngậm ngùi tái
ngộ, tôi có hỏi đến Cái Gái, mới hay
“Ồ Cái Gái, con Cô Thầy đó hả, chết lâu
rồi”. Tôi hỏi đến chị Đan th́ “Bà
ấy đă mất. Chúng em có chuyển quà của bác
cho con gái bà ấy”. Mỗi người nói một câu
về chị Đan. Cuộc đời của chị
được chắp nối lại như một
huyền thoại đă xa, đầy bùi ngùi, chua sót:
“Ấy lúc đầu là thế, mọi người
cuồn cuộn ra đi. Cô Đan tham gia cách mạng
từ trong bóng tối, rồi thoát ly, bỏ làng đi
và đi măi. Chỉ những lúc đau ốm mới t́m
về. Bà Đồ đă già, bao năm c̣m cơi có
một ḿnh một bóng, lại phải cặm cụi săn
sóc cô ấy. Ăn trả bữa được ít ngày
rồi cô ấy lại ra đi. Nói ra dài lắm. T́nh
duyên th́ trắc trở. Cũng buồn. Xưa cô
ấy vui là thế, ở tuổi già th́ lặng
lẽ, ốm đau. Đôi lúc nhớ đến
những ngày c̣n trẻ, bà ấy vẫn thường
nhớ đến và hỏi thăm bác. Vâng, những lúc
như thế bà ấy thường lặng im, rớm
lệ… Đất nước hoà b́nh được
mấy năm th́ bà ấy được nghỉ hưu.
Cũng chả ai biết rơ trước đó bà ấy
đă làm ǵ, ở đâu. Nghèo khó c̣n hơn ngày xưa.
Sống trong lặng lẽ được mấy năm
th́ bà ấy mất, tính ra cũng đă trên mười
năm rồi. Tiếc rằng khi bác gửi quà biếu
bà ấy th́ bà đă không c̣n nữa để
mừng vui, để nhận…”
Trong nỗi bùi ngùi của ngày đoàn tụ, của
nhớ thương, xúc động, tôi luôn phải
tự nhủ: “Hăy b́nh tĩnh, b́nh tĩnh…” B́nh tĩnh,
nhờ đó tôi đă vượt được
nhiều xúc đông như muốn vỡ oà ra. Nhưng
đêm chót ở quê nhà, trước khi cả nhà đi
ngủ, các ngọn đèn đă được
tắt, bầu trời bỗng hiện ra tối đen.
Những con đom đóm ở đâu hiện về,
lập loè bên những ngọn tre. Tôi như vừa
được vứt từ bầu trời xuống, tôi
như vừa sống lại, thấy lại những
đêm như thế này từ trên năm mươi năm
cũ, những năm tôi c̣n bé. Bầu trời chi chít
những v́ sao. Những v́ sao lấp lánh, như chào
hỏi, như mời, như gọi, như chớp
mắt ngậm ngùi. Tôi bàng hoàng vô hạn. Một làn
gió lạnh tạt qua, ḷng tôi se sắt. Tôi vẫn nh́n
lên bầu trời. H́nh ông Thần Nông hiện ra đang
“cúi đầu cấy lúa”. Giải mũ dài là hai hàng
ngôi sao bao đời vẫn y như thế. Tôi nhớ
chị Đan quá. Tôi cứ nh́n măi lên bầu trời.
Thấp thoáng có một ngôi sao ánh lên, sa xuống
rồi tắt. Một ngôi sao đổi ngôi. Có
phải một người nào vừa mới mất
“Lúc chị Đan mất, có ngôi sao nào rơi lạc
như thế không?”…
Sáng hôm sau theo chương tŕnh đă định,
chúng tôi phải sẵn sàng để có xe từ Hà
Nội về đón. Nỗi vui đoàn tụ chưa
qua, nỗi buồn chia xa đă đến. Trên xe
chật ních những người. Khi xe bắt đầu
chạy, tôi bỗng thấy trong xe có thoảng mùi thơm
của tóc ai mới gội. Mùi bồ kết tan trong mùi
chanh phảng phất đâu đây. Tôi nhớ chị
Đan quá. Xe chạy qua cánh đồng làng, ven
đường có giải đất chi chít những
nấm mộ. Những cọng cỏ xanh trên chóp
mộ ngả nghiêng đùa đùa theo làn gió thổi,
tiệp với mầu lúa xanh bát ngát đang th́ con gái.
Trong các nấm mộ ấy, nấm mộ nào là mộ
chị Đan, nơi chị đă lặng lẽ
gửi tấm xương tàn. Tôi lặng đi,
buồn. Nỗi buồn chỉ một ḿnh tôi biết.
Ngoài trời nắng vẫn nhạt nḥa mênh mang. Tôi nói
nhỏ, nói thầm, lời nói bay tan theo làn gió
thổi: “Chị Đan, em xin lỗi chị. Bao nhiêu năm
chị em ḿnh xa nhau, nhớ nhau. Vậy mà từ ngàn trùng
xa cách em về thăm quê, em đă không đến thăm
mộ chị được…” Nước mắt tôi
ứ lên đầy mắt. Trong không gian bỗng như
vang động tiếng hát của chị Đan.
Chị đang hát trong làn gió mát dưới gốc cây
khế của bao năm nào đă xa, quá xa. Chị cười
mà hai hàng lệ chảy:
Trèo
lên cây khế nửa ngày
Ai
làm chua sót ḷng mày khế ơi!
Chị
Đan ơi!…
Phan Lạc Tiếp
|