Hồi
Ký từ Mặt Trận Khánh Dương. Đèo M’s
Drak – Cuối Tháng 3/1975
Lời
giới thiệu Của NT Trung Tá Bùi Quyền, TĐT TĐ5ND:
Bác
sĩ Liêm là Y sĩ trưởng cuối cùng của TĐ5ND
khi tôi là TĐT. Trong trận Khánh Dương, khi theo
lệnh BCH/ LĐ3ND triệt thoái về sau tuyến II,
tức phía sau khu vực TĐ6ND. Tôi quyết định
cho TĐ đoạn chiến và triệt thoái vào ban
đêm. Khi ĐĐ54 dẫn đầu cánh quân B
chạm địch, BS Liêm lại đi cùng cánh quân này
vì còn chuyện trò tâm sự với Đại úy
Huỳnh Quang Chiêu, ở gần nhà BS Liêm và là SQ
được tôi chỉ định kèm cho Trung úy Vũ,
tân ĐĐT/ ĐĐ54. Tr.Úy Vũ hy sinh và Đ.Úy
Chiêu cùng BS Liêm mất tích.
Khi về
đến Sài Gòn tôi đến nhà 3 SQ này để phân
ưu. Không ngờ khoảng 1 tuần sau, Quân cảnh Vũng
Tàu liên lạc với TĐ để xin xác nhận có
2 SQ tên Chiêu và Liêm theo thuyền dân cập bến Vũng
Tàu và nhất là họ mang theo chiến lợi phẩm
là súng AK-47 của VC. Sau khi xác nhận, ngày sau 2 vị
này về Sài Gòn. Tôi rất vui song lúc đó BS Liêm
chỉ kể qua loa chuyện vượt thoát của ông.
Hôm nay được đọc bài bS Liêm viết chi
tiết về cuộc vượt thoát này, tôi rất
vui và xin giới thiệu với bạn đọc câu
chuyện vượt thoát hy hữu của 1 y sĩ quân
y nhẩy dù.
Đã 42 năm
qua, tôi những tưởng câu chuyện vượt thoát
y như phim ảnh nầy đã chìm vào dĩ vãng. Nào
ngờ các bạn Mũ Đỏ gần xa yêu cầu tôi
nên ghi lại để được tỏ tường
Nhảy Dù là Cố Gắng. Tôi cố gắng nhớ
lại để không phụ lòng anh em mong đợi.
Ngày 1 (28/3/1975): Trời chiều của Tháng 3 thật là
nóng bức. TĐ5 ND đóng trên sườn đồi
gần đèo M’Drak. Đó là khúc đường trên
Quốc Lộ 21 dài khoảng 20 Km. Đầu đèo cách
Buôn Ma Thuộc (hay Ban Mê Thuộc) 96Km. Đoạn
đường đầu đèo dài 4 Km nằm
giữa hai dãy núi khá cao, vách núi dựng đứng. Núi
Chu Kroa cao 958 m về phía Bắc. Các triền núi nhỏ
hơn mà đỉnh cao nhất là 609 m về phía Nam. Các
bạn cũng biết, Quốc Lộ 21 nằm giữa
Quận Khánh Dương và Quận Ninh Hòa. Từ trên
đồi cao, tôi nhìn qua Quốc Lộ 21 là Buôn Làng
M’Mo của người ÊĐê với chừng năm
ba mái nhà sàn xưa cũ. Tiểu Đoàn có nhiệm
vụ ngăn chặn địch từ Ban Mê Thuộc kéo
về Nha Trang.
Tôi nhìn
thấy nhiều Thiết Vận Xa M113 án ngữ trước
Buôn M’Mo, gần cây cầu xi măng trên Quốc
Lộ 21. Tất cả đều ở tư thế
sẳn sàng chiến đấu. Pháo địch bắt
đầu rơi, băng qua ngọn đồi rồi
rớt ầm đâu đó dưới chân đồi.
Tiểu Đoàn vô sự. Đêm xuống dần, Trung Tá
Bùi Quyền, TĐT TĐ5 ND tiên liệu địch
sẽ trèo lên đồi theo chiến thuật tiền
pháo hậu xung nên ra lệnh cho mọi người
đều phải sẵn sàng. Trời tối đen như
mực, dưới đồi có tiếng chân người
đạp lá rừng nghe xào xạc, có vẻ như
rất đông người đang bò lên đồi.
Lệnh triệt thoái, đi hàng một, im lặng, súng
cầm tay, đạn lên nòng; cả tiểu đoàn di
chuyễn theo nhau về hướng Đông Nam.
Lúc đó là
7 giờ tối. Tôi đi theo theo Tr. Tá Quyền, cố
gắng đi gần ông. Phải cố gắng lắm
vì trời tối quá, đường đồi
nhiều cỏ tranh và khó bước vì trơn
trợt. Cũng may có Đại Úy Chương lâu lâu
gọi khẻ “Bác Sĩ đâu rồi”. Khoảng 10
giờ đêm thì Tiểu Đoàn dừng lại trên
một ngọn đồi thấp. Pháo địch
từ chân đồi phóng lên, nhìn rất đẹp y
như mấy trái hỏa châu, hướng về TĐ
5 và nổ loạn xạ. Phân tán nhanh. Phân tán nhanh.
Mọi người phóng nhanh về điểm hẹn
để trực thăng xuống bốc. Tôi lạc
đàn từ phút ấy!!!
Ngày 2 (29/3/1975): Nhiều tiếng hét đồng loạt
“hàng sống chống chết” vang lên hung bạo và
đầy hận thù từ dưới đồi
dần dần to hơn, rõ hơn. Miệng tôi đắng
lạ thường, tay chân tôi luống cuống,
mắt tôi may còn kính cận thị chưa bị
rớt. Tôi chui lẹ vào đám rể cỏ tranh
rậm rạp mọc cao hơn đầu người,
sau khi còn đủ trí khôn lăn long lóc xuống chân
ngọn đồi nhỏ. Lúc này, địch dàn hàng
ngang, cầm AK có lưỡi lê nhọn gắn đầu
súng, vừa đi vừa xâm xoi tìm lính Dù để
đâm cho chết hoặc bắt làm tù binh. Trong số
đó không có tôi.
Tôi bình an vô sự. Lục soát đã ngưng, địch
rút lui trong yên lặng. Suốt đêm đó tôi nằm
yên, lạnh và ướt dưới đám cỏ
tranh. Trổi dậy khi trời vừa sáng, tôi nghe có
tiếng gọi của ai đó, nằm rất gần.
Té ra là Minh, y tá Dù của tôi. Thầy trò mừng quá,
ôm nhau và tôi lại có một túi cứu thương khá
đầy đủ thuốc men do Minh trao lại “Em
giao lại cho Bác Sĩ”. Hai thầy trò cứ nhắm
hướng Đông mà đi vì nghĩ đó là hướng
biển, hy vọng gặp lại những người cùng
cảnh ngộ với mình. Băng rừng mà đi,
bụng đói, miệng khát. Nhưng hai thầy trò may
mắn gặp được Thiếu Úy H. và Trung Sĩ
Q. cùng 3 lính Dù của TĐ5. Riêng Th. Úy H. còn bản
đồ hành quân và địa bàn, và mọi người
vẫn còn súng M16 và lựu đạn. Ngày nghĩ,
đêm đi, cả đoàn 7 người đều còn
sức khỏe.
Chúng tôi đạp nước theo dòng suối mà đi
để địch không tìm ra dấu giày. Dọc
đường dây điện thoại màu đen
lẫn với lá rừng, nằm chơ vơ khi ẩn
khi lộ thiên, đi không khéo đụng chạm, địch
sẽ biết. Chúng còn khắc chữ K lên thân cây
để chỉ hướng tiến quân về Nha Trang
(dấu I và dấu < nhập lại thành chữ K,
dấu < mũi nhọn là hướng tiến của
địch) Nhờ có thuốc lọc nước Iodine
mà chúng tôi uống nước dơ ngon lành. Lại có
rau tàu bay và mấy con cua kẻ đá, chúng tôi ăn
sống cho khỏi chết vì đói. Nhưng tôi bị
kiết lỵ, dài dài cho đến ngày về đến
Sài Gòn. Bình thường lính Dù ai cũng khỏe
mạnh nên túi cứu thương không có thuốc
trị kiết lỵ!
Ngày 3 (30/3/1975): Đêm nay cả 7 người tiếp
tục băng rừng, đi đầu là Th.Úy H.
kế đó là tôi, sau tôi là y tá Minh, rồi đến
A Chãy (Chãy có nghĩa là Trai) và 2 lính Dù, Tr. Sĩ Q.
đi đoạn hậu. Chúng tôi yên lặng đi cách
nhau 2 sãy tay, vậy mà đôi lúc người không nhìn
thấy bóng bạn phía trước. Tôi nhiều
lần kêu khẽ “Th.Úy chậm bước chút xíu”.
Cây rừng đan dày đặc, có cây to gốc 3 người
ôm mới giáp vòng. Trong đêm tối có cây màu đen,
có cây màu trắng do vỏ cây có lân tinh chiếu sáng.
Tôi đưa tay vịn một sợi dây mây, ai ngờ
“rột một cái” dây đó rút lẹ lên trên cành
cây to, đó là một con rắn lớn thòng xuống rình
mồi. Thật hú hồn! Đoàn người cả
đêm đi không ngừng vì ngó lại hướng
đóng quân cũ thấy ánh lửa sáng rực xa xa,
chắc là địch đang đốt cháy tại nơi
chúng vừa chiếm đóng. Th. Úy H. nói “mình phải
đi thật nhanh hơn nữa”.
Ngày 4 (31/3/1975): Gần sáng, cả đoàn mệt và chân
đã mỏi nhừ, tìm được một chổ
ẩn núp khá an toàn là dưới một thân cây
thật to bị đốn ngã nằm ngang do dân làm
rừng để lại. Bố trí an toàn xong, cả
đoàn nghỉ, nằm với lá cây phủ đầy
người mà không dám thở mạnh. Đó đây,
nhiều tiếng vượn hú “Húhu u u…Chóc chóc chóc”
chúng gọi nhau trên các cây chà là rừng to cao để
báo động có người. Lại còn có tiếng
chim gì kêu nghe lạ tai “cọc cọc cọc” y như
điệp khúc, nghe cũng ơn ớn. Những con
vắt, đĩa và sâu đo, mấy ngày qua hút máu
ở kẻ ngón chân và trong nách được chúng tôi
“giải phóng” với cái bụng no nê đầy máu
sau khi chúng tôi cởi giày ra và giủ áo mới
thấy chúng còn bám chặt trong nách và các kẻ ngón
chân. Miệng tôi đã khô đến nỗi không còn
đủ nước bọt mà quyện với cỏ
để dùng tay rứt chúng ra!
Ngày 5 (1/4/1975): Đã xa vùng hỏa tuyến, chúng tôi
thử đi ban ngày và ngủ vào ban đêm, nhưng
vẫn cảnh giác đề phòng địch. Đang
đi, bất chợt Th.Úy H. ra dấu dừng lại.
Phía trước mặt, chỗ mấy cây cổ
thụ to, có một đám lá rừng chất đống
bất thường, một bầy ruồi nhăng bay lên
với mùi hôi thối của xác chết!!! Địch
đã giết chết nhiều lính Dù và lính Bộ
Binh, tháo giày vì các xác đều chân trần, rồi
phủ lá rừng che lại. Chúng tôi đứng nghiêm
chào kính và ngậm ngùi chào tiễn biệt các anh hùng
tử sĩ đã vị quốc vong thân. Mong các anh thông
cảm cho chúng tôi phải vượt thoát lẹ,
cầu mong các anh phù hộ cho chúng tôi về được
đến nhà. Bước đi rồi, tôi mới
thấy mặt mình sao ướt ướt! Có thể
vì tôi vẫn còn nhớ khi học “Chinh Phụ Ngâm Khúc”
của Đặng Trần Côn:
“Hồn
tử sĩ gió ào ào thổi.
Mặt
chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh
phu tử sĩ mấy người.
Nào
ai mạc mặt, nào ai gọi hồn!”
Trên đường đi, chúng tôi còn gặp các
tử sĩ dụm năm dụm ba, phủ lá đầy
ruồi nhặng và đã phân hủy, do địch
giết hại. Đếm được 4 chỗ như
vậy, chúng tôi nghĩ là còn nhiều nữa trong cánh
rừng Khánh Dương này.
Ngày 6 (2/4/1975): Vẫn di chuyển hàng một với Th.
Úy H. đi đầu và Tr. Sĩ Q. đoạn hậu.
Ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi đang đi vào vùng
đất Cọp Khánh Hoà Ma Bình Thuận. Nhiều
dấu chân Cọp được chúng tôi nhìn thấy
gần các bụi tre gai rừng màu vàng sẩm. Đang
đi cả đoàn phải ngồi thụp xuống, ô
kìa, phía trước mặt, một bầy nai lông xám,
chừng 8 con đang cúi đầu xuống uống nước
hố bom, có một con nai đực có gạc to đứng
canh chừng. Đừng bắn, đừng bắn,
địch nghe tiếng súng M16 sẽ bao vây và chúng ta
khó thoát. Cả đoàn nghe lời tôi, mặc dù ai cũng
đói vì đã đi 5 ngày rồi. Đàn nai đánh hơi,
thấy động, thoáng một cái đã biến nhanh
vào rừng. Chúng tôi lấy bi đông ra lấy nước,
sau khi bụm tay lấy nước rửa mặt và
uống thật no.
Tôi cảm
thấy cũng không xong vì đói lâu ngày chỉ nên
uống vài ngụm. Tiếp tục đi, độ
nửa giờ sau, chúng tôi gặp một cái chòi che
đậy bằng cành cây lá rừng. Chắc là địch
di chuyển nhanh về Nha Trang nên bỏ trống. Dưới
nền đầt đào sâu đủ cho 3 người
núp, chúng tôi gom được nhiều lương khô,
là các bánh cơm và các thẻ đường vàng
bọc ngoài giấy in đầy chữ tàu. Bây
giờ, đoàn gặp phải một cái hào nước
không sâu nhưng chạy dài về hướng Đông.
Thôi đành phải lội, nước ngập tới
ngực, súng phải kê cao khỏi đầu, đoàn
lội hàng dọc, vén lau sậy mà đi.
Vừa lên bờ, chúng tôi chạm trán 2 cán binh địch
với 2 súng AK 47 chỉa thẳng vào và bắt tất
cả chúng tôi buông súng. Gần đó có một ngôi chùa,
chúng tôi bị 2 tên cán binh này dẫn độ về
đó. Đến nơi chúng bắt chúng tôi ngồi
chung một chỗ ngoài hiên chùa. Chúng gom hết súng và
lựu đạn của chúng tôi để một
chỗ xa hơn trong chùa, xong cả 2 đứa bình tĩnh
đi chiên cá chờ đơn vị bộ đội
của chúng sắp về ăn cơm chiều. Chúng gác
2 cây súng AK gần bên chảo dầu đang sôi sùng
sục thơm nức mùi cá chiên chừng 5 con vừa
bắt ở dưới hào.
– Hành động ngay. Hành động ngay.
Th.Úy H. và Tr. Sĩ Q. bàn chuyện cướp súng và
hạ 2 tên này. Kế hoạch được thi hành
ngay trong chớp nhoáng, 2 tên ngã quỵ vì đòn hội
đồng với que củi tạ. Chúng tôi gom hết
cá chiên vào 2 nón cối, quơ luôn 2 súng AK, dép râu cùng
dây nịt bằng da nâu. Toàn là chiến lợi
phẩm rất hữu dụng sau này trên đuờng vượt
thoát gian nan. Thật nhanh và thật gọn, 7 người
chúng tôi chạy nhanh ra khỏi chùa để tránh địch
trở về biết được và truy lùng.
Trời đã về chiều, ống cống thông
thủy gần quốc lộ hiện ra cứu chúng tôi.
Cả đoàn chui ngay vào và chạy thật lẹ trong
đường cống có đường kính cao hơn
đầu người.
Đường
tối om om, chân tôi đạp nước cống bì bõm,
mồ hôi nhể nhại, người nóng, tim đập
thình thịch. Ra khỏi đoạn đường
ống cống là khoảng đất trồng bắp
của dân quê vắng ngắt, chúng tôi dừng lại,
xúm nhau bốc cá chiên còn nóng và ăn vội vàng.
Thật tuyệt vời làm sao! Đói quá nên tôi chưa
kịp nhai đã nuốt, may mà không bị hóc xương
cá, hay là đã nuốt luôn xương cá nhỏ
rồi chăng?! A. Chãy còn đi vào rẫy bẻ
trộm bắp non được vài trái, xong cả
đoàn chạy bang vào lùm cây trước mặt, thì
trời đã tối hẳn, bỏ lại sau lưng
tiếng la của dân làng và tiếng chó sủa truy
đuổi. Lại một đêm ngủ trong rừng lá
thấp, chúng tôi lấy Iodine bỏ vào bi đông nước
để lắng chết mấy con đĩa nhỏ,
uống ngon lành, chia phiên gác xong, tôi ngủ thiếp
đi.
Ngày 7 (3/4/1975): Khi mặt trời đã lên cao, chúng tôi
tiếp tục đi về hướng Đông do địa
bàn chỉ hướng. Khi qua một bụi tre cao có hai
con chim nhỏ như chim cu, cứ bay trên đầu chúng
tôi, một con kêu “te te”, con kia kêu “hoạch
hoạch”, ai nuôi hay chim rừng? Chúng tôi sợ bị
lộ nên cứ chạy thật nhanh để rút vào
rừng cây trước mặt. Đến nơi,
vừa lăng xuống đất nằm để
thở, tôi nhớ lại chuyện Tấm Cám mà
mỉm cười một mình “Te Te hoành hoạch,
giặt áo chồng tao, phải giặt cho sạch, đừng
phơi hàng rào, rách áo chồng tao”.
Đường
đi bây giờ là con đường quanh co và
xuống dốc, không còn những cây to và gai rừng
cản trở nữa, nhưng vượt qua những
khoãng trống thật không phải dễ. Để tránh
địch thấy và bao vây bắt trọn, chúng tôi
ngụy trang, người cắm đầy cành lá cây
rừng địa phương. Bảy bụi cây người
di chuyển chậm qua các khoảng trống. Đến
chân một gò cao, ô kìa có cây cam rừng nặng trĩu
trái chín xanh xanh vàng vàng. Thế là chúng tôi xúm nhau rung
gốc cây, thu được vài chục trái cam chín
rụng xuống.
Thôi rồi, nước cam đắng như nước
trái khổ qua! Đàng kia có một cái mương nước
đã khô nhưng kẽ đá chặn có nước
nhỏ giọt, chúng tôi hứng được nửa
bi đông. Đến chiều chúng tôi lọt vào vòng
đai của Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ (Nha
Trang). Tối hôm đó chúng tôi yên lặng nằm
nghỉ bên mấy gò mả, nhưng lại thức
giấc vì tiếng thở phì phò của vài con bò
bị chủ chạy giặc bỏ lại. Tr.Sĩ Q. và
ba lính Dù thịt con bò nhỏ, cắt một cái đùi
bỏ vào ba lô và lấy lá gan còn nóng hổi chia
cả đoàn cùng ăn sống cho đỡ đói.
Gan bò sống, tanh, còn ấm, khó nuốt, nhưng đói
quá, tôi cũng nuốt được. Bây gờ,
bệnh kiết lỵ của tôi đã bớt
nhiều, người gầy ốm và râu cũng
mọc dài lưa thưa. Nhờ trời, hai chân tôi
vẫn còn đi khỏe lắm.
Ngày 8 (4/4/1975): Trời gần sáng, chúng tôi chạy
vội lên một ngọn đồi, lên cao, ngắm nhìn
biển đã hiện ra về phía Đông. Xa xa có
một hòn đảo nhỏ, bản đồ hành quân
ghi là Hòn Bà Lớn. Mặc kệ là Bà Lớn hay Bà
Nhỏ, bằng mọi cách cả đoàn phải bơi
qua bên đó vì Nha Trang sắp mất hay đã mất.
Qua hòn đó rồi coi có chiến hạm Hải Quân mình
vớt hay không? Cả đêm nằm suy nghĩ liên miên,
tôi khấn vái liên tục mỗi khi thấy một sao
sa trên bầu trời đầy sao, rồi khấn
nữa khi nhìn xuống quốc lộ xa xa, cả
một đoàn xe Molotova chở đầy lính địch
ngụy trang lá rừng tiến về hướng Nha
Trang.
Ngày 9 (5/4/1975): Hừng sáng, cả đoàn chạy như
điên xuống mé nước. Thật là kỳ
diệu, nói ra không ai chịu tin, một chiếc ghe
nhỏ cắm sào ở mé nước trong bờ lau
sậy và rong biển. Tôi định gọi chủ ghe
xin quá giang nhưng ghe vắng chủ. A. Chãy nhảy vào
khoang ghe và kêu to “có cá kho. Có cá kho, Bác Sĩ ơi!”
Thế là cả đoàn lại được một
bữa tiệc Trời cho. Lập tức, 7 người
chúng tôi leo lên ghe, nhưng A. Chãy xin ở lại về
với bà Dì còn kẹt ở Nha Trang, nên cậu ta khóc
từ giã, cởi hết quân phục bỏ lại,
chỉ mặc áo thun quần đùi, đi chân không,
chạy về phía cây số 4 trên quốc lộ hướng
về Nha Trang.
Sáu người
còn lại, chia nhau 2 tay chèo, 2 tay gỡ ván làm chèo
phụ, còn 2 người thì dùng 2 nón cối tát nước
trong ghe để ghe nhẹ đi nhanh. Chúng tôi hì
hục, vội vã chèo ghe qua Hòn Bà Lớn. Nắng lên
cao, sóng biển không to, nhưng gió thì mạnh và
lạnh. Ghe lại bị lỗ mọt, hở, nước
biển tràn vô. Phải chèo gấp, nước vô ghe
sẽ chìm giữa biển! Độ 30 phút sau, ghe
cập bến cát và đá ngầm, chúng tôi ướt
át hoàn toàn, đem chiến lợi phẩm vào gấp và
núp trong một góc đá để nghe ngóng tình hình,
chờ hết mệt mới tính tiếp. Đến 10
giờ sáng, cả đoàn họp lại bàn chuyện.
Nếu không thoát khỏi đây, thì chắc 6 người
sẽ là tù binh của địch.
Ngoài khơi, tuyệt không thấy bóng một chiếc
tàu của Hải Quân Việt Nam mình. Mọi người
buồn và suy nghĩ lung lắm. Tôi nghĩ không lẽ
mình sẽ chết ở đây?! Ý nghĩ loé lên, đề
nghị với Th.Úy H và Tr. Sĩ Q., tôi nói “Đã
nằm trong lòng địch, tại sao mình không ăn
mặc và nói năng giả làm địch, Th.Úy, Tr. Sĩ
và tôi đội nón cối, mang AK và đi dép râu, còn
3 lính Dù thì trói lại, cởi giày làm như tù binh
ngụy bị ta bắt được giải về
Nam điều tra gì đó theo lệnh cấp chỉ
huy. Tôi có cây súng lục nhỏ đi đầu làm
chỉ huy, kế đó là Th. Úy, còn Tr. Sĩ cầm AK
đi đoạn hậu canh 3 tù binh giả đi ở
giữa.
Tất
cả quần áo Dù và giày, súng M16, nón sắt coi như
chiến lợi phẩm, mình tọng vào cái bao tải
lớn của bộ đội này rồi Tr. Sĩ mang
đi sau chót. Phải đóng kịch cho thật khéo,
lộ ra là chết cả đám”. Cả đoàn đồng
ý làm theo kế hoạch của tôi, mọi sự phó
cho Trời Phật giúp đỡ. Hoá trang xong, cả
đoàn theo thứ tự di chuyễn về phía Nam trên
Hòn Bà Lớn.
Chúng tôi gặp một nhà sư tuổi trạc trung niên,
mặc áo vàng, trong cái chòi nung than cây bán vào đất
liền đang làm việc đốt than. Nhà sư
thấy chúng tôi, đứng lên, từ tốn hỏi
“quý vị có cần bần tăng giúp gì không?” Tôi
trình bày là tiến quân vào Nam, bắt được 3
tên ngụy hết sức nguy hiểm, lệnh Đảng
chỉ thị dẫn độ chúng vào Nam, ở đây
có phương tiện đường thủy gì không.
Sư bèn chỉ về cuối đảo này, có dân quân
và dân làng chài có thể giúp đỡ cho các đồng
chí. Chúng tôi cảm ơn nhà sư, và tiếp tục
đi thong thả về phía cuối đảo mà trong lòng
vô cùng căng thẳng, chưa biết lành dữ ra sao.
Lúc đó là 6 giờ chiều, trời nhá nhem tối.
Đang
đi, chúng tôi bị rất nhiều dân quân bao vây, chúng
nổ AK đùng đùng chỉ thiên bắt chúng tôi
dừng lại. Xong chúng tiến lại gần, tên
chỉ huy trông có vẻ nhà quê, hắn hỏi, tôi
trả lời y như khi gặp sư làm than. Chúng
tạm tin và dẫn chúng tôi về làng chài mà không
hỏi giấy tờ gì cả. Độ 1 giờ sau,
chúng thắp đèn dầu và mời tôi ngồi,
rồi rót trà mời uống và nói chuyện. Đến
10 giờ đêm, tên chỉ huy cho mấy dân quân
dẫn chúng tôi ra một chiếc ghe chài lớn, trên
đó có vợ chồng chủ ghe và 1 em bé còn ẳm
trong tay, còn có 1 cậu dân làng theo phụ. Đám dân quân
chào tạm biệt chúng tôi y như chúng chào các đồng
chí của chúng. Ghe bắt đầu nhổ neo, chúng tôi
thở phào thoát nạn.
Máy ghe chạy tạch tạch thật mau, Nhưng Tr. Sĩ
Q. vội la lên “Ê! chạy đi đâu? Tính chạy vào
nội à?” Nhanh như chớp, Th.Úy H nhảy vào
buồng lái, kê súng AK vào ngực chủ ghe bắt
hắn lái về Nam theo hướng Sao Nam Tào đang loé
sáng trên nền trời đêm. Cậu phụ ghe
thấy mưu gian bị lộ, nhảy ùm xuống
biển thoát thân Vợ chồng chủ ghe khai thật,
là dân quân bắt họ lái ghe vào đất liền
(nội) để giao cho bộ đội lập công.
Bây giờ xin các ông tha cho, tụi tôi không dám về
lại Hòn nữa, mà theo các ông về Nam, nhưng ghe
sắp cạn dầu, không đủ dầu để
về đến Vũng Tàu. Sẵn ngụy trang là
địch, chúng tôi phải liều một phen nữa.
Th.Úy H.
đứng đầu ghe, Tr. Sĩ Q. ghìm súng AK ở
buồng lái canh chừng tên chủ ghe đang cầm tay
lái. Ở phía ngược lại đi về hướng
Nha Trang có một ghe chài lớn mang cờ đỏ sao
vàng đang lướt tới, đầu ghe có một
cán binh địch cầm AK. Th.Úy H. cho ghe chậm
lại. Tr. Sĩ Q. hét tên chủ ghe hãm tốc. Ghe bên
kia, chưa biết chuyện gì, cũng hãm tốc. Khi 2
ghe cập lại, Th. Úy H. xưng đồng chí,
nhờ giúp dầu để về đến Vũng Tàu
giao 3 tên ngụy nguy hiểm này theo lệnh đảng.
Lập tức 4 thùng dầu được chuyển qua
ghe chúng tôi. Nhờ vậy chúng tôi đi suốt đêm,
hướng về Nam.
Ngày 10 (6/4/1975): Dọc đường biển, ghe
chạy ngoài khơi, đất liền khó thấy. Nhưng
Th. Úy H. canh địa bàn đúng hướng, im re không
nói gì, tôi cũng yên bụng, nhưng lại ói vì say sóng.
Uống thuốc vào thì bụng tôi lại yên. Ghe có ghé
vào một đảo nhỏ để mua thêm dầu,
chúng tôi kè sát vợ chồng chủ ghe vì sợ
họ trốn mất. Cả đoàn bây giờ ăn
mặc quân phục Dù lại như cũ. Chúng tôi cám
ơn lẫn nhau cho màn đóng kịch gạt địch
quá phiêu lưu mạo hiểm như thế này. Binh pháp
Tôn Tữ chắc cũng có câu “phải đặt mình
vào đường chết mới mong tìm ra lối
sống”.
Ngày 11 (7/4/1975): Phải mất thêm một ngày ghe chúng tôi
mới cập bến Bãi Trước (Bãi Tầm Dương)
của Vũng Tàu. Sống thật rồi! Sống
thật rồi! Cả đoàn hân hoan nhìn rất
nhiều ghe chạy giặc đang bỏ neo, nhấp nhô
lên xuống theo sóng biển vỗ vào bờ đá Bãi
Trước. Lúc đó là 11 giờ đêm. 12 giờ
đêm là giờ giới nghiêm. Sáu anh em chúng tôi từ
giã và cám ơn vợ chồng chủ ghe, sau khi tôi
tặng 1 số tiền vài ngàn gọi là đền
ơn. Chúng tôi phóng lẹ lên bờ, đi tìm một cái
quán gần đó, gọi chủ quán nấu cho 1
nồi canh chua cá bông lau với chục trái ớt
dầm nước mắm thật cay. Chủ quán
chịu chơi còn mang ra 3 gói thuốc Salem và hộp
quẹt. Chưa bao giờ anh em chúng tôi vui mừng ăn
cơm canh chua và uống bia, hút thuốc đầy tinh
thần Mũ Đỏ sống chết có nhau, tương
thân tương ái đến như thế này. Giờ
giới nghiêm đã tới. Chủ quán đóng cửa.
Đường phố vắng tanh. Anh em chúng tôi lúc này
vô gia cư nên đành nằm ngoài sân trước quán
mà ngủ.
Ngày 12 (8/4/1975): Trời đã hừng đông, người
qua lại thật tấp nập, lộn xộn, ngơ
ngác. Loạn lạc có khác. Sáu anh em Nhảy Dù ra đón
xe đò về Sài Gòn. Mọi người nhìn chúng tôi
với ánh mắt ngạc nhiên, chắc có một chút
thán phục và thương hại vì Th. Úy H. luôn
miệng nói “chúng tôi về từ mặt trận Khánh
Dương và đây là Bác Sĩ Liêm, người
về từ cõi chết”. Xe đò dừng lại,
phụ xế mời anh em chúng tôi lên xe đang đông
nghẹt khách, cho ngồi ghế “súp” vì xe hết
chỗ, không tính tiền vì nể lính Nhảy Dù.
Xe về đến Ngã Tư Hàng Xanh thì Quân Cảnh
chận lại để xét. Chúng tôi ngồi yên. Quân
Cảnh 204 (là Quân Cảnh của Sư Đoàn Nhảy
Dù) lên xe và kêu “Ồ! Bác Sĩ Liêm còn sống à! Chào
Bác Sĩ, cả Sư Đoàn đều nói Bác Sĩ
đã chết. Mời BS và Th.Úy, Tr.Sĩ và 3 anh em đây
lên xe Jeep về thẳng Bộ Tư Lệnh. Các nón
cối, súng AK, dây nịt, dép râu của địch,
tụi tôi xin phép mang về Bộ Tư Lệnh luôn”.
Tôi xin phép đi riêng về nhà để tắm
rửa, cạo râu và mặc quân phục chỉnh
tề, rồi tôi sẽ vào trình diện diện
Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng và Trung Tá Bùi
Quyền sau. Vừa về đến nhà, chưa kịp
hàn huyên với gia đình thì “Két” một cái, xe Jeep
của Tiểu Đoàn 5 ND do đích thân Trung Tá Bùi
Quyền lái, đến nhà đón tôi về hậu
cứ của TĐ là trại Ngô Xuân Soạn ở Tam
Hiệp, Biên Hòa, mổ một con bò khao quân và mừng
Bác Sĩ Liêm trở về bình an vô sự.
Nhảy Dù
Cố Gắng.
Mũ
Đỏ BS. Nguyễn Thanh Liêm,
Cựu
Y Sĩ Trưởng/ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù
|