Điểm
sách:
Trật tự Thế giới của Henry Kissinger TS.Đỗ Kim Thêm |
Chúng ta
đang sống trong một thế giới hỗn
loạn và không có đối sách. Với cuốn sách World
Order, Henry Kissinger đă thảo luận
về những vấn đề trật tự cơ
bản cần giải quyết, đó là ngăn
chặn xung đột mà tất cả các nước
đồng ư thực hiện, ngơ hầu mang lại ḥa
b́nh cho thế giới. Qua
cuốn sách này, Kissinger tổng kết những
những trải nghiệm phong phú qua hơn sáu thập
niên trong chính trường thế giới. Là một người
theo trường phái Hiện thực cực đoan (Hard-core
Realist) trong lư thuyết Bang giao Quốc tế,
ông đă phân tích theo khảo hướng lịch
sử một cách xuất sắc về hệ thống
chính trị châu Âu, các nước theo Hồi giáo, Trung
Quốc và Mỹ, nhưng không đề cập đến
sự phát triển tại châu Mỹ La tinh. Ông
kết luận rằng, có một h́nh thái mới trong
quan hệ các siêu cường, nó dựa trên hệ
thống theo Hoà ước Westphalen, sự cân bằng
quyền lực trên toàn cầu và các nguyên tắc không
can thiệp, tất cả sẽ là một mệnh
lệnh chung cho việc xây dựng trật tự
thế giới ngày nay. Tuy nhiên,
nh́n chung, Kissinger không thể cung cấp các giải pháp
khả thi hay bước đầu hữu ích. Có
nhiều lư do để phản luận Kissinger mà bài
điểm sách sau đây sẽ đề cập. *** Đầu
tiên, một câu hỏi nền tảng trong các tranh
luận học thuyết của Bang giao Quốc tế
cần đặt ra: Lư thuyết Hiện thực (Realism)
có sai lầm nào? Tại sao lư thuyết này vẫn c̣n
chiếm ưu thế và vấn đề này vẫn c̣n
quan trọng hơn bao giờ hết? Nền
ngoại giao phần lớn tập trung vào cuộc tranh
luận giữa hai trường phái đối lập:
Lư tưởng (Duy tâm, Idealism)và
Hiện thực. Dựa theo tư tưởng của
Tổng thống Woodrow Wilson, chủ trương Lư tưởng
nhấn mạnh về vai tṛ của ư thức trong
sứ mệnh truyền bá đạo đức,
một học thuyết chiếm ưu thế trong quá
khứ. Nhưng chủ trương Hiện thực
cổ vũ cho các mối quan tâm thực tiễn trong
quyền lợi quốc gia và địa chiến lược,
lập luận này thu hút được Tổng
thống Theodore Roosevelt theo đuổi và đă khiến
chúng ta mù quáng tin theo. Thực
tế ngày nay cho thấy là chủ trương Hiện
thực thường bị gạt bỏ như một
tập hợp những sai lầm về chính sách đối
ngoại. Vào thời hoàng kim của chủ trương
Lư tưởng, chắc chắn họ đă bảo
vệ một số quan niệm dẫn tới việc
thúc đẩy cho dân chủ và nhân quyền. Như
Kissinger lập luận, người theo chủ nghĩa
Duy tâm không có độc quyền về các giá trị
đạo đức, những người theo chủ
nghĩa Hiện thực phải nhận ra rằng lư tưởng
là một phần của t́nh h́nh thực tế. Việc lư
giải này phụ thuộc vào một niềm tin cho là
chủ trương Hiện thực có thể giải
quyết các vấn đề hiện tại của chính
trị thế giới. Để trả lời là nó có
thể giải quyết được hay không, chúng ta
cần phải xem lại nguồn gốc của
cuộc khủng hoảng trong hiện tại. Thế
giới đang trải qua vô số thách thức nghiêm
trọng gây bao tai hoạ, bao gồm các t́nh trạng
biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên,
khủng hoảng tài chính, giáo dục bất toàn, nghèo
đói lan rộng, an ninh lương thực, y tế
bất công và cuộc chiến chống khủng bố.
Cần thiết quan trọng nhất cho chúng ta là t́m ra
một khái niệm mới để đóng góp cho
việc xây dựng ḥa b́nh thế giới, v́ bản
chất của binh pháp cho chiến tranh hiện đại
thay đổi. Tuy nhiên,
các nhà nghiên cứu về ḥa b́nh cho rằng, hầu
hết các cuộc chiến tranh hiện nay là trong
phạm vi quốc gia, không trên trường quốc
tế, 93% các cuộc xung đột vũ trang mang màu
sắc và bản chất dân tộc, tôn giáo và địa
phương. Chiến tranh giữa hai nước dân
chủ là một ngoại lệ. Để đáp
ứng vấn đề này, chúng ta nên khởi động
một sự t́m hiểu chung trong việc xử lư các
cuộc xung đột theo các phương pháp thuộc
về địa phương và gây ư thức về
nhiệm vụ trong khu vực và trong nước. Trường
phái Hiện thực vẫn c̣n tồn tại và hữu
hiệu, đó là một sự thật. Các cuộc xung
đột c̣n đang tiếp tục, trong khi các lư
thuyết gia c̣n tranh luận là khuôn khổ học
thuyết Thể chế (Institutionalism) và
Cấu trúc (Constructivism)có
thể định h́nh cho một động lực chính
của nền ngoại giao tương lai không. Hai
học thuyết này có thể bổ sung lư giải giúp
cho nhà nước củng cố quyền lực của
cơ quan trung ương để giải quyết các
vấn đề chính trị phức tạp trong nước
và thế giới. Các
lập luận trong quá khứ theo chủ trương
Hiện thực không c̣n hiệu quả đáp ứng
cho nhu cầu đang thay đổi, nó đơn
giản hoá sự phân hoá sâu xa xuất phát từ
nền tảng đạo đức để quy định
cho các quy tắc. Việc áp đặt các quy định
và thể chế cho cấu trúc cân bằng quyền
lực sẽ không tự nó xóa đi sự phẫn
nộ, hận thù và đấu tranh quyền lực. Do
đó, các nguyên tắc theo Hoà ước Westphalen không
nhất thiết cần thiết để xây dựng
trật tự cho thế giới ngày nay. Để
t́m ra một lối thoát, luật pháp và tôn giáo đang
đề ra các trách nhiệm nền tảng cho từng
các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức để
nhằm cải thiện trật tự cho thế
giới. Luật pháp quốc tế đang theo dơi và thích
nghi với các điều kiện thay đổi trong các
quy tắc của binh pháp chiến tranh. Tuy nhiên,
nếu Liên Hiệp Quốc, các tổ chức quốc
tế và khu vực, chính phủ, doanh nghiệp, xă
hội dân sự, tôn giáo và cộng đồng khoa
học cùng nhau xây dựng một nền tảng –
được suy đoán là tất cả cùng nhau
hoạt động hữu hiệu – để thúc
đẩy sự hiểu biết, ngăn chặn và
đáp ứng về vấn đề trật tự cho
thế giới, th́ chúng ta hy vọng rằng Liên
Hiệp Quốc có cơ hội chia sẻ giải pháp
hiệu quả nhất có thể, đó là một
mục tiêu đáng theo đuổi. *** Thứ
hai,
Kissinger đào sâu về các khía cạnh lịch sử
và văn hóa trong quan niệm ngoại giao và bối
cảnh căng thẳng giữa Mỹ đang suy tàn và
Trung Quốc đang trỗi dậy. Dựa trên lịch
sử lâu dài của hai khái niệm lănh đạo khác
nhau cho trật tự thế giới, Kissinger mô tả
rằng Mỹ phấn đấu cho Chủ nghĩa
thực dụng và Trung Quốc mơ làm bá chủ thiên
hạ. Kissinger viện dẫn các mô h́nh về thái
độ và kinh nghiệm để dự đoán
về cuộc xung đột Mỹ-Hoa. Tuy nhiên, khái
niệm tŕnh bày hoàn toàn sai lạc. Ngày nay, là
nhà xuất khẩu, sản xuất và dự trữ tài
sản lớn nhất thế giới, cách tiếp
cận của Trung Quốc đối với vấn
đề quản trị toàn cầu đang nổi lên.
Với sức mạnh kinh tế và chính trị đang
gia tăng, giới lănh đạo Trung Quốc đă
định h́nh lại thế giới theo trường
phái thực dụng. Có rất nhiều bằng
chứng cho vấn đề này. Trung
Quốc có yêu sách lănh thổ trên các đảo khác
nhau trong Biển Đông với Việt Nam, Brunei,
Philippines, Malaysia và Nhật Bản. Thật khó để
tiên đoán rằng những tranh chấp này sẽ
được giải quyết dưới ánh sáng
của luật pháp quốc tế. Phán quyết của
Toà Trọng tài Quốc tế trong vụ tranh chấp
giữa Trung Quốc và Philippines là thí dụ điển
h́nh. Do đó, triển vọng cho ḥa b́nh khu vực là
không hứa hẹn. Đối
với người Việt, chỉ khi nào ổn định
được mối quan hệ Hoa-Việt, th́ một
nền ngoại giao khu vực nhằm hỗ trợ cho ḥa
b́nh và thịnh vượng chung có thể đạt
được. Nhưng sự hợp tác như vậy
là không khả thi, Trung Quốc không công nhận
Việt Nam là một đối tác b́nh đẳng mà
chỉ có các lập luận hoa mỹ khoa trương t́nh
láng giềng huynh đệ, trong khi chúng ta lại
chứng kiến hải quân Trung Quốc tự do thao túng
trên Biển Đông của Việt Nam. Người
Việt đang lo lắng khá ồn ào về xu hướng
Việt Nam có thể bị xoá sổ trong thầm
lặng khi Trung Quốc có dă tâm quyết thống
trị kinh tế và chính trị ở Việt Nam.
Hiểm hoạ cho sự diệt vong này có lư do chính là
do tinh thần nô lệ tự nguyện của Đảng
Cộng sản Việt Nam, mà Mật ước Thành
Đô năm 1990 là cái bẫy tự tạo. Gần
đây, Trung Quốc đang tạo ra Ngân hàng Đầu
tư Cơ sở hạ tầng châu Á. Điều quan
trọng là khi bằng vành đai mới của Con
đường tơ lụa, Trung Quốc t́m đến
với các nước láng giềng; con đường
tơ lụa hàng hải mới tạo thuận lợi
cho thương mại cho Trung Quốc ở Thái B́nh Dương
và Ấn Độ Dương. Một tuyến
đường sắt cao tốc khoảng 8.100 dặm
kết nối Trung Quốc, Canada, Nga và Mỹ thông qua eo
biển Bering đă được lên kế hoạch.
Mọi con đường đều dẫn đến
Bắc Kinh về các phương diện chính trị và
kinh tế. Giới lănh
đạo Trung Quốc đang đấu tranh để
giữ ngọn đuốc soi đường của
chủ trương Thực dụng và hy vọng
thuyết này sẽ thực hành sống động,
mặc dù họ không bao giờ thừa nhận điều
đó. Nhiều nhà quan sát xem Trung Quốc rốt
cuộc chỉ theo chủ trương bá quyền.
Tất nhiên, không có ǵ đảm bảo rằng
tất cả những tham vọng b́nh thiên hạ
sẽ diễn ra trong suôn sẻ v́ sẽ có phản
ứng dữ dội ở trong nước và nước
ngoài đang xảy ra. Do đó,
không có biện pháp nào của Trung Quốc, dù là đàn
áp ở trong nước hay xâm chiếm lân bang, mà
họ mệnh danh là để xây dựng cho nền ḥa
b́nh là hợp pháp. Sự lănh đạo toàn cầu
mới của Trung Quốc là một thách thức nghiêm
trọng. Hành động sai trái này là ảnh hưởng
trực tiếp với lợi ích của Hoa Kỳ, thí
dụ như tự do hàng hải, ḥa b́nh thông qua chính
sách tự do thương mại và quyền tối thượng
của hải quân Hoa Kỳ ở Thái B́nh Dương. Đối
với các nhà hoạch định chính sách của
Washington, tự kiềm chế có thể là một
chiến thuật tốt nhất trong phản ứng linh
hoạt để tránh bị khiêu khích, nhưng nó không
thể thuyết phục được các gian ư
của Bắc Kinh. Các nước châu Á và các nước
khác c̣n lại của thế giới mong rằng là
một cường quốc Thái B́nh Dương, Hoa
Kỳ sẽ phản ứng gay gắt. Việc triển
khai quân sự để chống lại mối đe
dọa của Trung Quốc ở khu vực Thái B́nh Dương
có thể chỉ là một trong những lựa chọn
tốt nhất, nhưng hiện tại, Hoa Kỳ không
muốn làm như vậy. Đứng
trước t́nh h́nh này, làm thế nào Kissinger có
thể nhấn mạnh việc định h́nh lại
luật quốc tế dựa trên các nguyên tắc không
can thiệp? Trong việc tái cân bằng ở khu vực
Thái B́nh Dương, làm thế nào chiến lược
của Kissinger có thể áp dụng theo chủ thuyết
Thực dụng kiểu Mỹ đang lúc suy tàn? Làm
thế nào để Kissinger giải thích tầm quan
trọng của chủ nghĩa Thực dụng kiểu
Mỹ như ông đă giả định? *** Thứ
ba,
Kissinger xem trật tự cho thế giới như
một khái niệm khả thi do sự sắp xếp
trong toàn cầu. Sự chung sống của các tôn giáo và
chính phủ trong quá khứ lịch sử của châu Âu
là mô h́nh của sự cân bằng quyền lực, nó
có thể có tác dụng phù hợp cho một sự
hợp tác hiệu quả trong bối cảnh quốc
tế hiện tại. Các quyền lực được
định h́nh như Mỹ và châu Âu và quyền
lực đang lên như Trung Quốc, Ấn Độ và
Brazil sẽ có thể thỏa thuận về một
bộ quy tắc ứng xử cho tương lai. Nhưng
chiến lược này có thể yêu cầu các nước
tham gia thực hiện trong phương cách nào? Có ràng
buộc hay không ràng buộc về mặt luật
quốc tế? Theo
luật cứng rắn (Hard
Law) hay mềm dẻo (Soft
Law)? Đây là một vấn đề gây
tranh căi về chi phí tuân thủ (Compliance
Costs) mà Kissinger không thảo luận sâu xa hơn. Những khó khăn thực tế trong
việc áp dụng luật cứng là vi phạm chủ
quyền quốc gia, đó là một loại phí tổn
phải trả. Khi nào các quốc gia tham gia có thể hy
sinh chủ quyền tối thượng thế nào, và
buộc các chủ thể trong lụật quốc
nội phải tuân theo kỷ luật quốc tế,
thật khó tiên đoán. Chừng nào các nhà hoạch
định chính sách trên toàn thế giới không
thể thỏa thuận trong các mục tiêu chung trong h́nh
thức và tiến tŕnh thực thi, th́ chúng ta không có cơ
sở để tin rằng việc thực hiện theo
cách quốc tế ủy nhiệm sẽ suôn sẻ.
Sự hợp tác toàn cầu trong việc việc
biến đổi khí hậu là một bước
đột phá ngoại lệ, nhưng cũng không
thực hiện thành công khi Hoa kỳ trong thời
của Tổng thống Donald Trump bất hợp tác. Thay vào đó, phương sách dùng
luật mềm (soft
law approach) sẽ hữu ích trong việc
khắc phục những khó khăn hiện tại khi
giải quyết các vấn đề hợp tác kinh
tế quốc tế, ví dụ như luật quốc
tế về ngân hàng, chống độc quyền hay tài
chính. Tất cả các cách thực hành
tốt nhất (Best
practices) của các định chế
quốc tế như International
Organization of Securities Commission, International Association of
Insurance Supervisors và International Competition Networklà
thi dụ điển h́nh. Các cơ quan này đề ra
các tiêu chuẩn của luật mềm. Thử
nghiệm thành công này chứng minh rằng các luật
mềm là các lựa chọn hợp lư và hiệu
quả trong tiến tŕnh lập pháp quốc tế. Theo Kissinger, với một hệ
thống như theo châu Âu trong thế kỷ XIX là
một mô h́nh thích hợp, thực ra, là không hợp
thời sau Chiến tranh Lạnh. Chúng ta không thể
triển khai một tầm nh́n từ quan điểm
lịch sử của Kissinger. Do đó, trong bối cảnh toàn cầu
hiện nay, cách phối hợp hai phương sách
của luật mềm và hợp tác khu vực được
coi là lựa chọn khả thi tốt nhất để
hợp tác trong chính sách và luật quốc tế *** Thứ tư,
trong việc định h́nh cho trật tự thế
giới, Kissinger thừa nhận các hậu quả trong các
cuộc xung đột tôn giáo là vấn đề đặc
biệt và nhấn mạnh đến vai tṛ của các
nước Hồi giáo và phương sách của Iran.
Thay v́ tập trung cho củng cố ḥa b́nh thông qua
đối thoại liên tôn, Kissinger kêu gọi t́m
một định nghĩa mới về tính hợp pháp
trong chính trị quốc tế khi đề nghị
cấm can thiệp trong nội bộ của các quốc
gia khác. Kissinger tạo ra một chiến lược hướng
tới tương lai mà không xem xét rằng trong bối
cảnh an ninh quốc gia vẫn c̣n mong manh và chúng ta
cần nhiều biện pháp cụ thể hơn cho
việc xây dựng ḥa b́nh như sau Chiến tranh
Lạnh. Ngược lại, chính phủ dân
chủ có thể xuất hiện từ sau một t́nh
trạng chiến tranh. Để có khả năng này,
đ̣i hỏi chúng ta phải đề ra các quy tắc
pháp luật. Những nỗ lực để đạt
được dân chủ này thường không thành công,
v́ giới lănh đạo không muốn từ bỏ
quyền lực của ḿnh. Hơn nữa, hành sử
bạo lực hoặc đe dọa bạo lực
vẫn tồn tại. Lập luận thuyết phục nhất
đề chống lại chủ trương bất can
thiệp của Kissinger là thế giới có phần nào
sẽ tốt đẹp hơn, nếu chúng ta ngăn
chặn bạo lực và nhận ra tiềm năng xây
dựng ḥa b́nh ngay từ trong nội bộ với cán
cân sức mạnh trong quá khứ. Những nỗ
lực đem lại ḥa b́nh có thể được
biện minh về mặt hợp pháp và đạo đức.
Kissinger không quan tâm tới vai tṛ đóng góp của
Phật giáo và triết lư ḥa b́nh của Immanuel Kant là
hai khởi điểm khả thi. Thời đại của cuộc
chiến chống khủng bố trong toàn cầu đ̣i
hỏi một con đường mới dẫn đến
ḥa b́nh cho thế giới. Trong tiểu luận Toward
a Perpetual Peace: A Philosophical Sketch, 1795 Immanuel
Kant chỉ ra rằng sự tuần tự tiến hóa
của các thể chế con người là ch́a khóa cho
ḥa b́nh thế giới và các nguyên tắc của
luật pháp, đạo đức và chính trị có
thể được thiết lập một cách toàn
diện và thúc đẩy một cách hệ thống
về quyền tự quyết của cá nhân, dân
tộc và toàn thể nhân loại. Một liên minh
quốc tế v́ ḥa b́nh, một hiến pháp theo
nền cộng ḥa quốc gia và luật công dân thế
giới là những công cụ pháp lư cần được
thực thi. Hơn nữa, Phật giáo coi trọng ḥa
b́nh cả về hai khiá cạnh vừa trong bản
chất và là một công cụ. Phật giáo xác định
bản chất con người và nguyên nhân cấu trúc
của bạo lực. Từ trong giáo lư nền tảng tâm
b́nh, thế giới b́nh,Phật giáo có sức
mạnh văn hóa để thúc đẩy và giữ
mọi người có trách nhiệm đạo đức
để đạt được những lư tưởng
ḥa b́nh: đó là các cơ sở chung của các giá
trị, đức hạnh, quyền và trách nhiệm,
bất bạo động, đoàn kết và khoan dung.
Bằng cách đồng hành với các Phật tử,
mọi người trên khắp thế giới có
thể cảm thấy đủ mạnh mẽ để
đối phó với các vấn đề bất
ổn trong thế giới đương đại. Do đó, đạo đức Phật
giáo được xem là một kỹ năng cho
một dự án giáo dục v́ ḥa b́nh trong khi đạo
đức theo Kant được xem là một kỹ năng
chuyên biệt cho một phong trào phát triển về tinh
thần trọng pháp. Cả hai là phương tiện
bảo đảm tối hậu cho ḥa b́nh, trở thành
một mô h́nh mới có thẩm quyền trong việc thúc
đẩy sự hiểu biết về các phương
tiện để đạt được ḥa b́nh.
Sự hợp tác địa phương như vậy có
thể góp phần vào việc xây dựng và ǵn giữ
ḥa b́nh trên toàn thế giới. Hiện nay là thời
điểm chín muồi cho việc du nhập một cách
tiếp cận tích hợp như vậy. *** Cuối cùng, cuốn sách World
Order cũng đem lại một số
biện minh cho hành động trong quá khứ của
Kissinger. Tuy nhiên, trong chuyện chiến tranh Việt Nam,
Kissinger vẫn giữ một chút ǵ đó cho riêng ḿnh.
Cảm tưởng chung của độc giả là sách
lặp lại những điều quen thuộc trong
những cuốn sách khác đă xuất bản trước
đây. Bi kịch Việt Nam kết thúc, nhưng đáng
chú ư nhất là Kissinger, người tạo dựng bi
kịch, không kể thật toàn bộ câu chuyện.
Hiện nay, khi đối phó với các cáo buộc
về sự sụp đỗ của miền Nam,
Kissinger t́m cách hạ thấp vai tṛ của ḿnh,
tiếp tục đổ trách nhiệm cho quyền định
đoạt số phận của người miền
Nam, Nixon trong vụ Watergate và Quốc hội không
tiếp tục viện trợ. Trong thực tế, Kissinger là người
định h́nh chính của Hiệp định Paris năm
1973. Chúng ta sẽ c̣n khó khăn v́ chưa bao giờ
biết sự thật về Hiệp định này.
Dựa trên những ǵ Kissinger đă làm, có những
cuốn hồi kư hoặc sách khác viết về
thời đó đă được xuất bản. The
Trial of Henry Kissinger (2001) của Christopher
Hitchens và No
Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam (2001)
của Larry
Berman là hai trong số những tác phẩm
được giới chống đối Kissinger trích
dẫn nhiều nhất. Liệu những cáo buộc
trong hai tác phẩm này có đúng không, vấn đề
c̣n đang được thảo luận sâu xa hơn. Thời gian trôi qua, lịch sử sang
trang, vết thương chiến tranh với Mỹ
được Việt Nam hàn gắn thành công. Báo chí và
công luận thế giới biết nhiều chi tiết
hơn về những ǵ mà Kissinger đă làm. Hầu
hết người miền Nam nguyền rủa Kissinger là
một kẻ cơ hội v́ xem Hiệp định
Paris là một món quà triều cống cho Trung Quốc,
Sự hạ ḿnh đầy sĩ nhục này đă vượt
quá giá trị sống c̣n của người miền
Nam, đó chính là một tác hại nghiêm trọng
về mặt đạo đức của Hiệp định.
Trong những năm gần đây, sự căm thù
của người miền Nam dành cho Kissinger ch́m trong quên
lăng, v́ thế hệ tham chiến lần lượt ra
đi và thế hệ trẻ không quan tâm nghiêm túc
để xem lại những thao túng của Kissinger. Mặc dù với tất cả sự thông
tuệ của ḿnh, Kissinger không thể đối phó và
giành chiến thắng trên bàn đàm phán Paris. Kissinger
đă bị Hà Nội, kẻ thù gian trá nhất,
lừa đảo trong toàn diện, đó là việc không
c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Tại sao khi lường đoán
là Hà Nội không tôn trọng Hiệp định,
Kissinger không chuẩn bị các biện pháp ngăn
chặn hậu quả tàn khốc của Hiệp định.
Đây là những câu hỏi vế mặt đạo
đức rơ ràng là quan trọng cần biện minh hơn
bao giờ hết Nhưng điều đó có thể
chỉ là mơ khi Kissinger hồi tưởng mà không
bị ràng buộc, nó vượt ra ngoài những
lời buộc tội cay đắng. Cho đến nay,
nhiều người Việt không biết hết
những ǵ thực sự xảy ra với họ trong quá
khứ. Lịch sử về sự tham chiến của
Mỹ ở Việt Nam sẽ phong phú hơn với
sự hồi tưởng trung thực của Kissinger. Nó
sẽ là một điều công ích cho mọi người
muốn hiểu về những ǵ đă xảy ra trong
hậu trường của Hiệp định mà
Kissinger dàn dựng. Sự biện minh bổ sung của
Kissinger làm cho cuốn sách có thể thú vị hơn. Ngược lại, trong các cuộc
thảo luận công cộng và ngay trong tác phẩm này,
Kissinger tiếp tục né tránh đặt vấn đề
đạo đức trong Hiệp định Paris. Khi
tham gia tranh luận, Kissinger đă miễn cưỡng
khiến chúng ta phải kết luận về những
thao túng của ông là các thù thuật vô đạo
đức. Kissinger là nhân vật quan trọng trong chính
trường quốc tế và người đang ở
tuổi lăo niên đáng kính, nhưng không muốn
biện minh cho những sai lầm trong quá khứ.
Những hành động vô đạo đức này là
không thể tha thứ khó quên và đáng ghê tởm.
Trong việc xây dựng hoà b́nh cho Việt Nam, Kissinger không
có thiện chí, chúng ta có thể kết luận chung là
cuốn sách World
Order là một Bad
World Order. *** Phụ chú cập
nhật Tác phẩm World Order ra đời
trong năm 2015, nên tác giả không thể đề
cập đến các chuyển biến quốc tế
cực kỳ bất ổn và dồn dập như
Brexit, Donald Trump, Thương
chiến Mỹ-Hoa và gần
đây nhất
là Covid-19. Trong một bài b́nh luận cho
nhật báo Wall Street Journal ngày 3 tháng 4 năm 2020, The
Coronavirus Pandemic Will Forever Alter the World Order, Kissinger
có tŕnh bày về dịch Covid-19, nhưng không đi vào
chi tiết để bổ sung cho tác phẩm World Order. Theo Kissinger, virus corona sẽ thay đổi
triệt để trật tự thế giới và
vấn đề trị liệu sẽ trở thành
mối quan tâm cấp thiết cho các quốc gia. Để
nâng cao khả năng phục hồi sau khi virus corona
bị tận diệt, Mỹ có thể học kinh
nghiệm qua chương trỉnh viện trợ Marshall,
các quốc gia tiếp tục duy tŕ các nguyên tắc cơ
bản của thế giới tự do và phát huy các thành
quả khoa học như thời kỳ khai sáng của
châu Âu; để ngăn chận mọi xung đột
trong tương lai, thái độ kiềm chế càng
quan trọng hơn bao giờ hết. Cho dù có cập nhật vấn đề
thời sự, nhưng tụu chung, Kissinger đă không
thuyết phục được độc giả v́ các
lư do chính. Một là, bốn trụ cột nền
tảng của văn minh phương Tây là dân chủ
đại nghị, kinh tế thị trường,
thể chế pháp quyền và xă hội dân sự không
c̣n đứng vững. Dù phương Tây có ư thức
là phải cải cách toàn diện, nhưng suy trầm
kinh tế kéo dài, nợ công chồng chất, khí
hậu biến đổi khắc nghiệt, nạn
khủng bố lan tràn nghiêm trọng, làn sóng di dân ào
ạt và dân số lăo hoá đáng ngại, tất
cả trở lực này làm cho t́nh h́nh chung trầm
trọng hơn. Hai là, chính quyền ở các nước
nghèo (như tại châu Phi) c̣n phải đấu tranh
chống bất công xă hội, tham nhũng, bảo
vệ môi trường, kiểm soát an ninh nội địa
và gia tăng hợp tác khu vực và quốc tế. Chính
quyền ở các nước độc tải (như
tại Trung Quốc và Việt Nam) không muốn thay đổi
chính thể trong khi dân chúng không quan tâm đến dân
chủ hoá, nên triển vọng chung càng bi quan hơn. Ba là, về mặt học thuyết,
Kissinger không nhận ra vai tṛ của các mạng lưới
dân sự trong việc tăng cưồng hiệu năng
phát triển cho
các thể chế quốc nội và quốc tế;
hiệu ứng lan toả của soft law trong tiến tŕnh
thành lập luật quốc tế. Bồn là, về mặt thực tế,
ông không quan tâm đến vai tṛ năng động
của châu Mỹ La tinh đang là một hậu phương
chiến lược của Hoa Kỳ. Thật ra, đối sách cho dịch
Covid-19 là vấn đề hợp tác y tế
quốc tế, nó cần
có các mục tiêu toàn diện. Đầu tiên, y học
phải tập hợp các nguồn lực nghiên cứu
để sản xuất các phương pháp điều
trị mới và vaccine phát minh phải được
coi là dược phẩm công ích cho nhân loại.
Thứ hai, để hạn chế thiệt hại kinh
tế do dịch bệnh gây ra, chính quyền cần có
các biện pháp hợp tác thông tin, khích lệ tài chính
và huy động tiền tệ. Thứ ba, ngay khi
được cơ quan y tế cho phép, chính quyền
mở lại biên giới và bảo vệ cho việc lưu
thông thương mại hàng hóa. Sai lầm của Kissinger là đề cao
vai tṛ của Mỹ trong việc điều hành kế
hoạch tái thiết Marshall. Thực tế cho thấy
dịch bệnh c̣n kéo dài cho đến cuối năm
2021 và sẽ làm cho nền kinh tế Hoa Kỳ bị lâm
vào cảnh suy trầm mà các nhà kinh tế học so sánh
với khủng hoảng trong những năm của
thập niên 1930. Ở châu Âu, sản lượng kinh
tế sẽ xuống dưới mức -7% trong năm
2020, nghĩa là bị đ́nh trệ hơn sau Đệ
nhị Thế chiến. Để ứng phó cho
t́nh h́nh bất trắc, châu Âu đang thiết lập
một kế hoạch hồi phục trị giá trên 500
tỷ Euro. Kinh tế Trung Quốc cũng không
thể hồi phục nhanh hơn khi ch́nh quyền không
dám công bố chính thức mức tăng trương
cho năm 2020 trong khi các lĩnh vực hàng không, du
lịch, vận chuyển đều tê liệt, trừ
công nghiệp chế biến và thiết bị y tế. Trong bối cảnh này, không ai có
thể lường đoán một mô h́nh nào thích
hợp cho thế giới. Do khả năng hồi
phục sẽ tŕ trê, nên
không thể đề ra trong lúc này việc đáp
ứng hữu hiệu giống như các chương tŕnh
tái thiết sau Đệ nhị Thế chiến. Do đó, Mỹ chưa thể đóng
vai tṛ chủ động như đă áp dụng kế
hoạch Marshall. Châu Âu tê liệt và phân hoá càng
trầm trọng, tinh thần châu Âu bài Mỹ c̣n
nặng nề và bây giờ đến lượt bài
Hoa cũng trỗi dây, nó làm cho các phong trào dân túy gây
thu hút mạnh và phe cánh tả thắng cử. Triển
vọng bi quan nên không thể so sánh chung với hậu
qủa của nạn đại dịch Covid-19 với
Đệ nhị Thế chiến. Tuy nhiên, Covid-19 đem lại các tín
hiệu khác. Cộng đồng quốc tế nhận
ra nhiều điều là: Gian trá của Trung Quốc
đối với dân trong nước và quốc tế
đă phơi bày, lệ thuộc vào kinh tế của
Trung Quốc như là một công xưởng của
thế giới sẽ mang đến thảm hoạ, hung đồ của Trung Quốc
trong việc giải phóng Đài Loan, b́nh định
Hong Kong và đồng hoá Việt Nam làm cho an ninh khu
vực càng bất ổn, tốc
độ toàn cầu hoá tại các nước sẽ
chậm lại, phong trào bài ngoại sẽ tăng lên,
hợp tác về truyền thông xă hội dân sự
sẽ chặt chẽ hơn, tinh thần đoàn kết
tương trợ và ư thức về giá trị
sức khoẻ và môi trường được đề
cao hơn. Riêng Việt Nam, vấn đề có khác
hơn. Thành công trong việc ngăn chận dịch
Covid-19 lan truyền đem lại một điểm son
cho chế độ. Tác động bài Hoa khắp
thế giới làm cho mơ ước “Thoát Trung”
dễ có cơ may thành hiện thực, nhất là khi các
doanh nghiệp quốc tế
t́m cách tháo chạy khỏi thị trường
Trung Quốc, thị
trường Việt Nam sẽ “toả sáng“ hơn bao
giờ hết. Thực ra, Covid-19 là một đại
nạn cho nhân loại, không liên quan đến
chuyện thoát Trung của Việt Nam, bản chất thoát
Trung cho Việt Nam là tránh hiểm hoạ diệt vong và
mang lại sự vẹn toàn lănh thổ mà giải pháp
là ư chí chính trị của chính quyền và quyết tâm
của dân chúng. Đảng phải bỏ tinh thần nô
lệ tự nguyện và dân chúng thoát ra t́nh trạng vô
cảm. Đó là hai yếu tố chính. Khi nào cả hai
cùng nhận ra và can đảm hành động bài Hoa th́
vấn đề thoát Trung có thể đặt ra. Về
khía cạnh kinh tế, khi doanh nghiệp quốc tế
lo thoát Trung, không đương nhiên có nghĩa là
Việt Nam là thị trường duy nhất thay
thế. Việt Nam không có tiềm năng là một công
xương toàn cầu thay cho Trung Quốc. Nhưng
Việt Nam có thể chuẩn bị gây cho môi trường
đầu tư thu hút hơn bằng cách cải
cảch cơ chế thị trường, không duy tŕ các
nhóm lợi ích hay bám theo cơ chế tư bản thân
tộc và cải cách giáo dục để tăng năng
xuất lao động. C̣n quá sớm để lo cho
điều kiện chuẩn bị thoát Trung, nên cũng
không thể kết luận một chiều như
hiện nay trong
khi quyền sở hữu một phần đất
đai, quàn trị doanh nghiệp và nhân dụng c̣n
nằm trong tay thân nhân của Trung Quốc. Hung
đồ của Trung Quốc th́ người Việt
đă biết từ lâu trong lịch sử. Nhưng
tại sao vấn đề thoát Trung không phải là
chuyện đă không thể và vẫn c̣n không thể
tránh khỏi? Tại sao chúng ta phải chờ cho đến
sau khi doanh nghiệp quốc tế thoát Trung và đại
dich Covid-19 chấm dứt mới
lo bài Hoa? Tại sao vẫn có “ nhà
nghiên người Việt“ hô hào chúng ta nên khôn ngoan
tiếp tục bám lây thị trường Trung Quốc? _______ World Order: Reflections on the Character of Nations
and the Course of History, 420 pp, 2015 Penguin Press. Nguyên tác: Kim Them Do, Book
Review Essay – World Order by Henry Kissinger. The
Contemporary Way to World Peace without a little Help of Soft Law and
Buddhism is questionable. TS.Đỗ
Kim Thêm |