Dr. Rupert Neudeck, người đă cứu 11.300 người Việt trên biển Đông Nguyễn Hữu Huấn |
Dr. Rupert Neudeck, người đă
cứu 11.300 người Việt trên biển Đông Nguyễn Hữu Huấn Dr.
Rupert Neudeck: Sống thanh đạm, hoạt động
cao cả Rất
nhiều người đă cho rằng: Chúa Giêsu và
triết gia người Pháp Albert Camus (1913-1960) là hai
thần tượng của Dr. Rupert Neudeck, xuyên qua
dụ ngôn “Người Samirita nhân hậu” trong Kinh Thánh
và “huyền thoại Sisyphos” của Albert Camus, người
đoạt giải Nobel văn học qua các sáng tác
của ông đă đưa ra ánh sáng những vấn
đề phải đặt ra cho lương tâm loài người
trong thời đại này. 77 năm trên dương
thế của Dr. Neudeck đều được tóm
gọn trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa
với ḷng nhân hậu cứu độ tha nhân, bất
chấp bất cứ chống đối nghịch
cảnh nào, không khác ǵ một Sisyphos nhỏ bé
phải lăn một tảng đá tṛn khổng lồ
lên đỉnh một ngọn núi dốc cao chót vót.
Suốt cuộc đời hành sự nhân đạo
cứu người của ông đều được
phát xuất từ tinh thần bác ái Thiên Chúa Giáo,
cộng với ư tưởng nhân bản qua lời
của Albert Camus: “Con người không phải xấu
hổ khi ḿnh đang được hưởng
hạnh phúc, nhưng họ sẽ phải xấu hổ
khi chỉ biết giữ lấy hạnh phúc đó cho
riêng ḿnh.” Tôi
may mắn – có thể nói là một diễm phúc –
lần đầu tiên được hội ngộ
với Dr. Rupert Neudeck vào tháng 4 năm 1980, khi ông dẫn
đầu phái đoàn của Ủy Ban Cap Anamur có ông
Hans Voss (chủ tàu Cap Anamur – người đă
hiến tặng tàu này để vớt thuyền nhân
VN trong 3 năm mà không nhận tiền thuê mướn)
và bà bác sĩ Bärbel Krumme, đến trại tỵ
nạn Singapore thăm các thuyền nhân tỵ nạn VN
được tàu Cap Anamur cứu vớt. Ông linh
hoạt, nhanh nhẹn, áo chemise trắng, quần jean, vai
đeo lủng lẳng túi xách màu xám ḷng tḥng dây
nhợ từ cái máy thu băng và tươi cười
hỏi thăm từng thuyền nhân ông gặp. Cái
tên “Rupert Neudeck” thật rất lạ và chẳng có
ư nghĩa ǵ cho lắm đối với một
thuyền nhân tỵ nạn vô danh vừa được
tàu Cap Anamur cứu sống trước đó chỉ
một tháng. Không thể ngờ rằng, từ hôm
đó cho đến ngày ông ĺa đời, tôi
được theo chân ông và cùng với ủy ban Cap
Anamur và Hội Mũ Xanh (cả hai đều do ông sáng
lập), đă có những liên hệ mật thiết,
từ các công tác thiện nguyện cứu người
đến những sinh hoạt b́nh thường cá nhân,
từ những chuyến công tác xa xôi đến
những sợi dây vô h́nh gắn bó giữa hai gia đ́nh
thành một đại gia đ́nh. 34 năm làm việc
với gia đ́nh ông, tôi đă học được
rất nhiều điều cần phải học; 34 năm
cùng chung niềm vui mỗi khi công tác hoàn thành như ư;
34 năm được ông hướng dẫn để
vượt qua những khó khăn trong nhiều dự án…
và 34 năm cũng là thời gian đủ để
hiểu rơ con người ông, cá tính của ông và
cả những ước vọng của ông. Sống
nhân đức, khổ hạnh, tự nghiêm khắc
với ḿnh, rất giản dị, hiền hoà và có
đầu óc khôi hài dí dỏm, nhưng lại có
những suy nghĩ táo bạo khác người, bướng
bỉnh, nhiều khi độc đoán, thẳng
thắn chỉ trích chống đối, ĺ lợm và
liều mạng, dám nói dám làm những ǵ mà người
khác chưa nghĩ đến hoặc không dám nghĩ
đến: đó là 2 con người đối
nghịch trong cùng một con người mang tên Rupert
Neudeck, nhưng ông lại thành công trong hầu hết
những công việc nhân đạo mà ông muốn
thực hiện, khiến những kẻ chống đối
đả kích ông trước đây, sau này đều
phải cảm phục kính trọng ông. Trong
suốt quá tŕnh cứu vớt thuyền nhân tỵ
nạn VN từ năm 1979 đến năm 1988, Dr. Rupert
Neudeck là người đứng mũi chịu sào trước
những chống đối mănh liệt của hầu
hết các chính trị gia trong chính quyền Đức
thời đó. Bây giờ, 37 năm đă trôi qua và Dr.
Rupert Neudeck cũng không c̣n nữa, tôi xin kể vài câu
chuyện rất ít người biết sau hơn 34 năm
học hỏi theo gót chân ông, để tưởng
nhớ đến ông và cũng để chúng ta
thấy được con người của ông
với những táo bạo liều lĩnh và tấm ḷng
nhân hậu của ông đối với các thuyền nhân
tỵ nạn VN cũng như người tỵ nạn
trên thế giới nói chung. Thuở
ban đầu, ít ai biết chuyện có nhiều
phần tử cực đoan quá khích người Đức
đă ném từng gói phân vào nhà ông như một hành
động chống đối việc ông đang kêu
gọi cứu vớt thuyền nhân VN. Ông không nản ḷng
và bà th́ chỉ thấy tội nghiệp cho họ, v́
khi họ phải tự gói đóng những thứ này
th́ chính họ đă phải ngửi trước mùi
vị của nó. Nhiều người gọi ông là “tên
quái gở” hay là “kẻ buôn người”. Ông
chỉ trích thẳng thừng chế độ quan liêu
cứng ngắc của chính quyền Đức và
sự thờ ơ của các chính trị gia Đức
thời đó. Mặc dù là người tu xuất theo Ḍng
Tên (Jesuits), một tín đồ Công Giáo thuần thành,
sau này ông vẫn phê b́nh cả Giáo Hội Công Giáo
Đức là quá hoang phí tiền của để
sửa sang nhà thờ, trưng bày hoa nến một cách
xa hoa, hay chỉ biết ngày đêm cầu nguyện
trong pḥng kín mà không thực sự bằng hành động
cứu giúp tha nhân đang khốn cùng chết chóc, nghèo
đói v́ chiến tranh hay thiên tai. Ông kêu gọi
phải chấm dứt việc này v́ theo ư ông, đó
chính là Giáo Hội Công Giáo của ngày mai. Ông cũng
không tán thành việc thu thuế nhà thờ từ các tín
đồ Thiên Chúa Giáo mà ông cho rằng đó là
một trong những nguyên nhân giới trẻ Đức
bỏ đạo. Bù lại, ông vui mừng và hănh
diện là thuyền nhân tỵ nạn VN đă đóng
góp cho Giáo Hội Công Giáo Đức hơn 10 vị
Linh Mục và nhiều tu sĩ nam nữ, thí dụ
chỉ trong một ghe tỵ nạn được
cứu vớt vào đầu năm 1982 đă có đến
3 vị Linh Mục, 2 hiện ở Đức và 1 ở
Úc. Ông c̣n can đảm công khai chỉ trích và lên án
chính sách chà đạp nhân quyền của chính
phủ Do Thái đối với người Palestine,
một việc mà giới truyền thông Đức không
bao giờ dám làm mà chỉ đưa tin và không bao
giờ dám phê b́nh chỉ trích. Hai
lần con tàu Cap Anamur bắt buộc phải chấm
dứt trở về cảng Hamburg là hai lần đă
cứu vớt đủ số lượng thuyền nhân
tỵ nạn VN đă được chính quyền
Đức phê chuẩn chấp nhận vào định cư
tại Đức. Ông đă liều mạng bất
chấp luật lệ và hậu quả, ra lệnh cho chúng
tôi mỗi lần trước khi trở về phải
kéo dài thêm thời gian t́m cứu người vượt
biển và cố gắng vớt thêm được càng
nhiều càng tốt. Chính v́ thế mà lần thứ
nhất, tháng 5 năm 1982, chuyến cuối cùng của
tàu Cap Anamur I đă mang theo 178 thuyền nhân tỵ
nạn cập cảng Hamburg, trong khi con số được
chấp thuận chỉ c̣n vỏn vẹn vài chục.
Rồi đến tàu Cap Anamur II sau hơn 3 tháng hoạt
động đă phải trở về Hamburg vào tháng 6
năm 1986 với 357 thuyền nhân, trong khi chỉ c̣n hơn
100 được chấp thuận trước đó.
Ông đă mạo hiểm cố t́nh đẩy chính
quyền Đức lúc bấy giờ vào thế
tiến thoái lưỡng nan, bắt buộc phải
nhận thêm số người thặng dư này v́
cả hai con tàu đều mang quốc tịch Đức
và cảng mẹ cũng tại Đức (theo luật
tỵ nạn LHQ lúc bấy giờ). Cũng trong thời
gian này, chính quyền Đức đă hai lần trao
tặng ông Huân Chương Danh Dự (Bundesverdienstkreuz),
loại huân chương cao quư nhất của Đức;
Hai lần ông đều từ chối và sẵn sàng
đổi 2 huy chương đó lấy 2 chuyến tàu
tiếp tục đi vớt thuyền nhân tỵ nạn
VN. Năm
1987, nước Đức cương quyết không
nhận thêm thuyền nhân VN nữa, ông hợp tác ngay
với hội Y Sĩ Thế Giới của Pháp (Médecins
du Monde) cho ra con tàu Cap Anamur III, mang quốc tịch Pháp,
nước Pháp nhận hết thuyền nhân (905 người)
và ủy ban Cap Anamur chịu tất cả mọi phí
tổn. Khi các trại tỵ nạn đóng cửa không
tiếp nhận thuyền nhân Cùng
với chương tŕnh thanh lọc và cưỡng
bức hồi hương, th́ năm 1989 ông lại âm
thầm cho ra khơi liên tiếp 2 con tàu (tháng 6 Cap Anamur
IV và tháng 10 Cap Anamur V) với hai mục đích là đánh
đuổi bọn hải tặc Thái Lan và giúp đỡ
hướng dẫn thuyền nhân VN cập đảo.
Đây là một hành động đi ngược
lại luật lệ, ngược lại chính sách
của Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ và các chính quyền
đang có trại tỵ nạn tại Đông Nam Á
thời bấy giờ. Mỗi khi phát hiện được
ghe vượt biển, chúng tôi đưa họ lên tàu,
câu luôn cả chiếc ghe. Các thủy thủ có
nhiệm vụ kiểm soát an toàn cho chiếc ghe
hoặc sửa chữa máy nếu bị hư hại. Các
nhân viên y tế khám sức khỏe, phát thuốc và chúng
tôi phân phát lương thực cho mọi người.
Tất cả đều được đựng trong
những túi nylon hoặc chai bằng nhựa, không nhăn
hiệu, không xuất xứ để tránh có thể
bị phát hiện sau này. Thuyền trưởng có
nhiệm vụ chọn ngày giờ tối đen
nhất, không trăng sao, tắt tất cả đèn tàu
trên boong, lái tàu tiến vào chỗ gần bờ
nhất, rồi câu ghe xuống. Chúng tôi dùng đèn pin
đưa từng người xuống ghe, giao tận
tay anh tài công 1 búa tạ lớn và 1 súng bắn hỏa
pháo, dặn ḍ khi vào đến bờ phải đập
tan nát ghe và máy ghe, rồi bắn hỏa pháo để
chúng tôi biết được họ đă an toàn
cập bờ. Vừa nh́n thấy hỏa pháo, thuyền
trưởng tức khắc cho tàu chạy ra xa, chờ
khi trời vừa sáng lại tiến vào chạy ngay
bờ quan sát. Không cần ống nḥm chúng tôi cũng
thấy được chiếc ghe đen đậm màu
vỡ nát trên bờ cát trắng với tiếng reo ḥ
của những thuyền nhân trong trại thức
sớm. Cứ thế, hơn một chục chiếc ghe
cập bờ với hàng trăm thuyền nhân được
b́nh an do quyết định âm thầm đầy táo
bạo và liều lĩnh của Dr.Rupert Neudeck! Chúng tôi
âm thầm ra đi và yên lặng trở về, giới
báo chí truyền thông cũng chẳng hay biết ǵ. Phải
nói rằng, nơi nào trên thế giới chiến tranh
khốc liệt nhất, người dân bị đầy
đọa khốn cùng nhất, nơi nào không ai dám
đến nhưng cần phải được
cứu giúp th́ đều có mặt Dr. Rupert Neudeck,
bất chấp hiểm nguy, bất chấp luật
lệ. Vào cuối thập niên 80, Nga Sô xua quân xâm
chiếm Afghanistan và tàn sát dă man, khiến hàng trăm
ngàn người dân vô tội tỵ nạn phải
trốn chạy vào các hang hóc trong những dẫy núi
hiểm trở tránh bom đạn, không nước
uống, không thực phẩm, không thuốc men…. Năm
1986, ông đơn thân độc mă với bộ râu hàm,
quấn khăn phủ đầu, cưỡi con lừa
tả tơi không khác một tín đồ Hồi Giáo
đi vào vùng kháng chiến quân Afghanistan (Mudschaheddin)
chống quân xâm lăng Nga Sô gần biên giới Pakistan
để quan sát và giúp đỡ thực phẩm
thuốc men cho họ. Lần đó, đoàn của ông
bị trực thăng Nga Sô phát hiện và bắn đuổi
bằng súng máy và hỏa tiễn Ông phải trốn
chạy hơn 30 tiếng đồng hồ mới thoát
qua được biên giới Pakistan. Hai người trúng
đạn và 1 con lừa bị đạn. Sau này ông
kể lúc đó ông nghĩ ḿnh sẽ không thoát
khỏi cái chết nát thây, nhưng ông vững tin vào
Thiên Chúa, nhớ về ba người con c̣n nhỏ
dại và như một phép lạ, ông đă thoát
chết trở về b́nh an. Năm
1987 tại Uganda, nhà độc tài quân phiệt Milton
Obote tàn sát tập thể dân chúng khiến họ
phải chạy trốn đến biên giới Süd-Sudan,
ông cũng có mặt tại đây và bị bọn lính
chĩa súng bắt phải uống rượu trước
khi chúng thả ông. Năm
1988 khi đang cứu trợ dân tỵ nạn Eritrea th́
hàng loạt máy bay Migs của quân đội Äthiopie
thả bom xối xả. Ông theo đoàn tỵ nạn
phải trốn lánh trong hầm sâu hàng giờ và ông
thoát chết. Năm
2001, khi nước Đức và nhiều quốc gia Âu
Châu đang khủng hoảng v́ bệnh dịch thịt
ḅ (BSE), dân chúng sợ hăi căn bệnh chết người
không dám ăn và hàng trăm ngàn con ḅ bị thiêu
hủy không cần biết chúng có bị nhiễm hay không,
trong khi người dân CS Bắc Hàn đang chết
đói hàng loạt v́ thiếu lương thực. Ông
mướn ngay tàu chở theo hàng trăm con ḅ chưa/
không nhiễm bệnh từ Âu Châu cứu đói người
dân CS Bắc Hàn. Cho đến nay, tôi cũng không
biết làm cách nào ông được phép mua lại
những con ḅ ấy, tại sao chính quyền Đức
cấp giấy phép cho ông và lư do ǵ một quốc gia
CS khắc nghiệt Bắc Hàn lại đồng ư cho
một con tàu viện trợ từ một quốc gia Âu
Châu cập cảng. Ông chỉ cười và nói
rằng, đây là căn bệnh cố hữu của tư
bản nhà giàu, họ luôn… sợ chết, mà dân
Bắc Hàn có ai chết v́ thịt ḅ ông cứu trợ
đâu? Tháng
5 năm 2013 trong khi cứu trợ người tỵ
nạn tại Syrien, 3 thành viên người Đức
của ông trong tổ chức “Hội Mũ Xanh”
bị phiến quân bắt cóc. Ông không sợ hăi hay
nản ḷng, không yêu cầu chính phủ can thiệp, không
thông tin với báo chí mà tự giải quyết với
năng lực và sự khôn khéo của ḿnh. Cuối cùng
cả 3 thành viên đă tự giải thoát trở
về sau gần 3 tháng bị cầm tù. Những
câu chuyện trên cho người ta thấy rơ được
con người nhân đạo quyết liệt của
Dr. Rupert Neudeck: cứu sống sinh mạng con người
phải cấp tốc tức khắc, không chần
chừ do dự, không sợ hăi, không ràng buộc luât
lệ, không tính toán hơn thiệt, không câu nệ phương
thức, không phân biệt màu da, không phân biệt chính
kiến… v́ theo ông, tất cả đều là con người,
và mỗi người đều có trách nhiệm
hỗ trợ và cứu giúp lẫn nhau để cùng
chung sống an b́nh. Người
ta vẫn không giải thích được, từ đâu
và tại sao, một con người mang tên Dr. Rupert
Neudeck, với đôi mắt luôn luôn suy tư, mũi to
sần sùi với bộ râu trắng phau quanh hàm,
một con người làm việc không ngừng nghỉ
bất chấp thời gian và không gian, một con người
lặn lội khắp nơi, bất chấp khó khăn
hiểm nghèo… lại là một con người có
một cuộc sống khổ hạnh, gầy c̣m, da
bọc xương nặng chưa đầy 50 kư, ăn
mặc giản dị, luôn luôn với cái túi xách ḷng
tḥng trên vai, nhưng lại làm được những
việc mà ít ai có thể làm được. Nhiều
người phỏng vấn ông, ông trả lời: “Nói
thật ḷng, đây là một câu hỏi duy nhất mà
tôi không có câu trả lời”. Nhiều nhà báo đă
mô tả ông là “một cụ già trên 70 nhưng mang
một thân xác của chàng thanh niên 18… gầy c̣m
ốm đói”. Tôi
không tài nào quên được lần tháp tùng ông
về Việt Nam sửa soạn cho hai dự án xây
dựng nhân đạo tại Đồng Tháp Mười
và U Minh (2006 và 2007) qua đóng góp tài chánh của
cựu thuyền nhân VN tại Đức. Ông chọn hăng
máy bay thật rẻ, giờ giấc bất tiện và
phải chờ đổi chuyến bay rất lâu. Hành
tŕnh Frankfurt-Saigon kéo dài đến hai ngày trời v́
phải chờ đổi chuyến bay tại xứ CS
Bắc Hàn (Pjöngjang-B́nh nhưỡng) 10 tiếng đồng
hồ, cộng thêm 3 tiếng v́ thời tiết
xấu. Ông an ủi tôi rằng ít nhất ông có th́
giờ yên tĩnh để đọc và viết sách.
Ông với tôi gật gù trên hàng ghế vắng tanh,
thay phiên nhau canh chừng mấy túi xách tay trước
những cặp mắt cú vọ của bọn an ninh
Bắc Hàn làm tôi lo sợ không ít. Tôi
mua cho ông 1 miếng bánh ḿ kẹp nhỏ hơn bàn tay và
1 ly cola khoảng 20 ml. Họ đ̣i 12 US cho miếng bánh
ḿ kẹp và 8 US cho ly coca. Tôi hết hồn! Ông vứt
trả lại hết, miệng lẩm bẩm “Die
Kommunisten! Unglaublich!” (Bọn Cộng Sản! Không
thể tưởng tượng nổi!). Ông bỏ
đi trước tiếng la hét chửi bới đ̣i
tiền của tên đàn ông bán hàng. Ông mở túi khoe
hai ổ bánh ḿ kẹp của vợ ông gói cho ông đi
đường rồi ăn ngon lành. Chúng tôi đến
Saigon khoảng 2 giờ sáng, phi trường vắng
tanh. Chúng
tôi về nhà của một cựu thuyền nhân Cap
Anamur tên M., hiện đang làm thương mại
tại đây và cũng là đại diện Hội Mũ
Xanh tại VN. Bảy giờ sáng ông đă thức
giấc đ̣i chở lên vùng cao nguyên lúc bấy
giờ rất sôi động v́ giáo dân Tin Lành nổi
dậy chống đối sự đàn áp tôn giáo
của chính quyền CS. Anh M. sửa soạn ăn sáng,
nhưng ông nhất định lôi chiếc bánh ḿ
kẹp c̣n lại trong túi xách ra ăn. Khi vừa mở
bánh ḿ ra, tôi thấy có mấy … con ǵ đó lúc nhúc
bên trong v́ ông quên vẫn để trong túi xách hầm
hơi nóng đă hơn 2 ngày. Ông b́nh thản nhặt
từng con ra, rồi nói với chúng tôi rằng,
nhiều người trên thế giới đang đói
khát không có mà ăn, ḿnh vứt ra rồi ăn có sao
đâu, đừng hoang phí; hơn nữa đây là bánh
ḿ mà bà Christel (vợ ông) đă làm cho ông. Suốt
quăng đường Saigon-Kontum-Gia Lai-Saigon ông không ăn,
không uống, mà chỉ xem xét, hỏi han và ghi chép,
đến nỗi anh tài xế vừa mệt vừa
đói không muốn lái xe nữa. Tôi năn nỉ ông
cho dừng lại một quán bên đường, ông
vẫn ghi chép rồi chau mày hỏi tôi “Cậu cũng
phải ăn hay sao?”. Tất cả chúng tôi mệt
lả người và đói khát trong khi ông vẫn…
tỉnh bơ, âm thầm ghi chép làm việc. Chỉ 5 ngày
ở VN, ông đi từ vùng cao nguyên xuống tận U
Minh qua Rạch Giá, Vũng Tàu và đến cả Ṭa Thánh
Cao Đài, Tây Ninh. Ông muốn nh́n tật mắt
những nơi thuyền nhân VN đóng ghe vượt
biển năm xưa như Bến Đá, Rạch
Dừa, bến Ninh Kiều Cần Thơ, Rạch Giá…
Tiếc thay những nơi này không c̣n như xưa. Tôi
chở ông bằng xe gắn máy đi thăm nhà thờ
Đức Bà, Chùa Vĩnh Nghiêm… rồi ngồi
ghế đẩu uống nước quán vỉa hè
rất thoải mái. Đêm cuối cùng trước khi
về lại Đức, anh M. có nhă ư mời ông dùng cơm
tối trên một chuyến tàu lớn chạy ṿng quanh
trên sông Saigon. Ông đi với vẻ miễn cưỡng.
Sau chuyến đi anh M. hỏi ông nghĩ sao, ông trả
lời không nhân nhượng: “Uổng phí 3 tiếng
đồng hồ làm việc, dùng số tiền ấy
đi giúp người nghèo đói có phải tốt hơn
không!”. Năm
1986, gia đ́nh ông nhận một chú bé thuyền nhân
VN không cha mẹ thân nhân làm con nuôi. Ba năm sau th́
được tin người cha ruột của chú bé
này vừa được định cư tại Hoa
Kỳ và có ư muốn nhận lại con. Ông muốn chính
ḿnh đưa chú bé giao tận tay cho gia đ́nh (cha nuôi
gặp cha ruột – như ông nói). Tôi liên lạc và
thu xếp để ông đi. Người Việt
tỵ nạn bên Hoa Kỳ muốn tiếp đón ông như
một đại ân nhân thật trang trọng. Cả
một phái đoàn người Việt áo quần
chỉnh tề với bó hoa thật đẹp. Máy bay
đáp xuống, hành khách lần lượt bước
ra gần hết nhưng vẫn không ai thấy ông đâu
và ai cũng lo sợ nhầm chuyến bay hoặc
khả dĩ liệu ông đổi ư vào giờ chót chăng.
Bỗng có người thấy một ông già với
bộ râu xồm xoàm, gầy đét, quần jean áo
bỏ ngoài đang ngồi trong một góc vắng cười
đùa nói chuyện với một chú bé VN. Có người
đến hỏi ông, ông mỉm cười tự
giới thiệu. Lúc đó cả phái đoàn giật ḿnh,
đồng loạt cởi bỏ áo vét và cravattes, ngượng
ngùng trao ông bó hoa. Ông từ chối mọi phỏng
vấn, từ chối mọi tiếp đón để
trao tận tay cậu bé cho người cha ruột. Ông
từ chối đến khách sạn đ̣i nghỉ
đêm tại nhà cha ruột của cậu bé và
trở về lại Đức ngay sáng hôm sau. Năm
1987 sau khi con tàu Cap Anamur III về Pháp, nhiều đoàn
thể tổ chức người Việt tỵ nạn
tại Hoa Kỳ (sau này là Úc và Canada), đă nhiều
lần mời Dr. Rupert Neudeck và một số vị ân
nhân khác của thuyền nhân tỵ nạn VN sang Hoa
Kỳ để vinh danh, đồng thời quyên góp cho
những công tác cứu người vượt biển
của ủy ban Cap Anamur và tổ chức Medicins du Monde
của Pháp do ông Bernard Kouchner và Alain Deloche lănh đạo.
Dr. Rupert Neudeck luôn luôn từ chối không tham dự
mặc dù tôi cố gắng đốc thúc. Ông suy nghĩ
khác, v́ theo ông, vinh danh là thừa thăi vô ích, ông không
thích được vinh danh và ông muốn tôi nói
với người Việt bên Hoa Kỳ rằng, nước
Mỹ phải có trách nhiệm với thuyền nhân VN và
người Mỹ gốc Việt có dư thừa điều
kiện và khả năng sao không vận động cho
ra một con tàu như ông để tự cứu chính
dân tộc ḿnh !!! Dr.
Rupert Neudeck được rất nhiều đài
truyền h́nh, đài phát thanh hay các tổ chức người
Đức mời phỏng vấn hoặc diễn
thuyết. Ông yêu cầu chuyển tất cả mọi
thù lao vào trương mục của Cap Anamur hay Hội
Mũ Xanh. Ông từ chối không nghỉ trong khách
sạn 5 sao và cũng yêu cầu chuyển chi phí khách
sạn cho hai tổ chức của ông. Bất cứ
đi đâu trong nước Đức ông đều
đi xe lửa và có vẻ thích thú khoe với tôi
rằng ông có vé xe lửa bớt 50% nên rẻ lắm.
Mỗi lần có việc lên Hamburg hay vùng Bắc Đức
ông đều nghỉ đêm trong nhà tôi. Ngại ông không
hợp thức ăn VN, tôi mời ông đến nhà hàng.
Không những ông từ chối mà c̣n không cho vợ tôi
nấu nướng ǵ rồi tự xuống bếp, khi
th́ chọn hộp xúp gà với nui, khi th́ ăn
miếng bánh ḿ lát chấm với súp thịt hộp
Gulasch và một ly nước suối, nói chuyện dăm
câu rồi đi ngủ. Lần nào ông cũng thức
giấc rất sớm, uống vội tách cà phê không
đường, đem theo một chai nước
suối nhỏ, ít lát bánh ḿ và một trái táo, đủ
làm hành trang cho một ngày của ông. Tôi
chở ông đến trạm xe lửa, khi th́ đi Bá
Linh, khi th́ Stuttgart, München hoặc nơi nào đó v́ ông
liên tiếp có những cuộc hẹn quan trọng.
Nhiều lần vào mùa đông, buổi sáng giá rét, ông
mượn tôi chiếc áo len để mặc v́
vội đi nên quên. Có lần trước khi chở
ông đến đài truyền h́nh ARD, tôi chợt
thấy ông choàng chiếc khăn quấn cổ màu xanh
của hội đá banh FC Schalke 04. Ông giật ḿnh
cởi ra ngay rồi hỏi mượn tôi chiếc khăn
khác. Ông bảo có một thanh niên Đức gần nhà
ông biết ông là Fan của hội này nên mang đến
tặng ông và khi đi ông vơ đại chiếc khăn
đó choàng vào cổ. Tôi nghĩ đá banh là sở thích
của ông, nhưng ông lại bảo, ông chưa
từng đi xem đá banh, kể cả trên truyền h́nh.
Tôi nghĩ sở thích của ông là… “làm việc nhân
đạo, cứu giúp người tỵ nạn”. Một
lần khi sửa soạn tổ chức đại
hội Cap Anamur tại Troisdorf, ông bảo tôi và một
số anh em trong ban tổ chức ghé nhà ông nghỉ
đêm. V́ mang sẵn túi ngủ nên chúng tôi xin ngủ
trên sàn nhà trong pḥng khách. Ông bà và con cái ngủ
hết trên lầu. Đang đêm khuya có ai bật đèn,
chúng tôi choàng dậy thấy ông mặc quần áo lót
trắng cụt ngủn, tay ôm chiếc gối vuông, lum
kum lần ṃ trong ánh sáng ngọn đèn mờ. Ông
bảo ông đang t́m chỗ ngủ và nói chúng tôi xích
gọn lại cho ông nằm chung, v́ tối hôm ấy bà
Neudeck cũng rủ một người bạn gái bác sĩ
trong Cap Anamur về nhà. Ông bảo ông không thể
nằm chung một pḥng với cả hai người
đàn bà. Trong khi chúng tôi th́ thầm với nhau
vừa buồn cười vừa thấy kính mến vô
vàn một con người nổi tiếng được
cả thế giới biết đến, lại b́nh thường
giản dị đến thế… th́ ông đă ngáy kḥ
kḥ ngủ say bên cạnh từ lúc nào. Chắc các anh
em này vẫn không thể quên được đêm hôm
ấy. Cũng
có lần tôi hướng dẫn một số anh
chị em đến nhà ông để bàn họp. Vợ
tôi v́ đă quen nhà ông nên rủ vài chị đi pha cà
phê và nước trà. Gia đ́nh ông vẫn sử
dụng b́nh pha cà phê thời thập niên 80, cái máy cũ
rích kêu rồn rột như ṿi nước bị
nghẹt. Cả một ngăn tủ ly tách hiệu Ikea
th́ đủ màu, đủ kiểu, đủ cỡ không
có cái nào giống cái nào, cứ như ngoài chợ
trời. Một chị khệ nệ bưng khay cà phê
vừa đi vừa nói tiếng Việt: “Quư vị
coi chừng nhé, uống cà phê phải để ư coi
chừng bị rách môi đó” v́ chị thấy
nhiều ly tách bị mẻ miệng. Tuy
thế, ông rất vui tính và dí dỏm. Một
nhà báo Đức hỏi ông tại sao mỗi lần ông
xuất hiện th́ có hàng trăm người VN xếp
hàng nối đuôi nhau muốn chụp ảnh với ông,
ông trả lời: “Bạn không biết sao? Tôi là người
được chụp ảnh nhiều nhất nước
Đức đến nỗi các ông bà chính trị gia
phải phát ghen lên đấy!” Ông
kể cho tôi rằng thuở ban đầu, ông có 2 người
bạn chính trị gia kiên quyết ủng hộ ông,
đó là ông Dr. Ernst Albrecht (thủ hiến tiểu bang
Niedersachsen) và ông Johannes Rau (thủ hiến tiểu bang
Nordrhein-Westfalen, sau này là tổng thống Đức) và
hai chính trị gia chống đối ông mănh liệt
nhất là ông Franz Josef Strauß (thủ hiến tiểu
bang Bayern) và ông Holger Börner (thủ hiến tiểu bang
Hessen). Ông dí dỏm đại ư rằng, cứ để
2 phe cấu xé nhau đi, ḿnh ở giữa, làm… ngư
ông hưởng lợi. Và “cái lợi” đó chính là
11.300 thuyền nhân VN tỵ nạn đă được
cứu sống – ông nói. Khoảng
15 năm trước, trong một lần ghé thăm gia
đ́nh ông, bà Christel Neudeck bới trong đống cây
cỏ héo ngoài góc vườn nhỏ chỉ cho chúng tôi
một đầu người được đúc
bằng đồng rất nặng. Một điêu
khắc gia nổi tiếng tại Đức v́ cảm
phục và quư mến ông nên đă khắc và đúc tượng
đầu của Dr. Rupert Neudeck và chính tay mang đến
tặng gia đ́nh ông bà và bà miễn cưỡng
phải nhận. Bức tượng rất đẹp và
rất giống ông. Bà Neudeck cũng… dị đoan,
thắc mắc nói với chúng tôi rằng, chồng bà
vẫn c̣n sống, sao lại có người mang đến
tặng như thế, nên bà đem ra giấu ở góc
vườn dưới đám lá khô. Bà bảo chúng tôi
mang về nhà và phải hứa khi hữu sự th́
phải mang trả lại cho ông… Nhưng thật ḷng
chúng tôi không bao giờ muốn trả lại cho ông! Cách
đây vài năm ông bị mổ tim lần thứ
nhất. Khi tỉnh dậy ông mới biết vị bác
sĩ mổ tim cứu sống ông lại là một
thuyền nhân VN được tàu Cap Anamur cứu
sống gia đ́nh anh, khi anh mới được 3
tuổi. Ông nắm tay vị bác sĩ này và nói: “Năm
xưa tôi cứu sống anh và người VN, năm nay
anh cứu sống tôi, như thế người
Việt tỵ nạn và tôi huề với nhau, chúng ta
không ai c̣n nợ nần ai nữa!”. Ông
nhiều lần kể cho tôi những chuyện thật
hy hữu với khuôn mặt rạng rỡ thích thú
rằng, một lần sau khi dự hội nghị
về người tỵ nạn thế giới của
Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (UNHCR) tại Hoa Thịnh
Đốn, ông gọi một chiếc taxi. Anh tài xế
vừa lái vừa ngoảnh cổ nh́n ông hỏi: “Ông
có biết ông Neudeck ở bên Đức không?” Ông cười
và trả lời “Ông ta là ai? Tôi không biết”. Anh
taxi hơi ngượng nói lại: “Tôi nh́n ông sao
giống ông Neudeck quá, ông ấy cứu vớt tôi
từ ngoài biển đấy!”. Cả hai cùng cười…
để rồi anh taxi nhất định không
nhận tiền ông. Ông nói với tôi: “Th́ ra cuốc
xe này đáng giá cả một mạng người”. Một
lần khác trên phố Manhattan/New York khi ông đang
lững thững đi bộ qua toà nhà World Trade Center (cũ),
chợt có một chị từ trong ṭa nhà bước
ra ôm chầm lấy ông la lớn: “Ông là ông Neudeck-Cap
Anamur phải không? Tôi là Cap Anamur 6 đây, ông nhớ không?”.
Lại một anh khác chạy đến nắm tay ông nói:
“Kính chào ông Neudeck, tôi Cap Anamur 12 đây”… Ông
chẳng hiểu Cap Anamur 6 hay Cap Anamur 12 là ǵ nhưng
vẫn tươi cười trả lời: “Tôi
nhớ chứ! Tôi nhớ chứ!”… Ông kể cho tôi
rồi hỏi: “Không nhẽ tôi nổi tiếng đến
thế sao?”. Tháng
giêng năm 2014, một phụ nữ VN được
chọn tham dự chương tŕnh “Wer wird Millionär ?”
của Günther Jauch và thắng được 125.000 Euro.
Cô tên là Đinh Quỳnh Anh Rohm, cô và gia đ́nh
được tàu Cap Anamur cứu sống năm 1982 khi
cô mới 5 tuổi. Dr. Rupert Neudeck vui và hănh diện
lắm. Ông đến thăm vợ chồng cô và đích
thân mời gia đ́nh cô đến tham dự lễ
kỷ niệm 35 năm con tàu Cap Anamur ngày 09 tháng 8 năm
2014 tại cảng Hamburg. Ông bảo đó chính là
nguồn an ủi nhất của ông và gia đ́nh khi ông
đă khổ công tranh đấu đem những người
tỵ nạn VN này vào nước Đức và ngày
nay, họ là những “nhà vô địch thế
giới về sự hội nhập”, thành công trên
tất cả mọi lănh vực trong xă hội Đức
này. Có
lẽ trong thời gian cuối đời, niềm an
ủi thảnh thơi nhất của ông là quây
quần đùa nghịch với 5 đứa cháu nội
ngoại. Ông không muốn bất cứ ai quấy
rầy ông trong thời gian đàn cháu nội ngoại
đến thăm ông. Tôi đă từng chứng
kiến cảnh tượng một ông già gầy tong
teo gập chân quỳ xuống ḅ rạp trên sàn làm con
ngựa già để đứa cháu 3 tuổi cưỡi
quanh nhà. Chính đứa cháu này đă muốn hóa phép
cho ông sống lại nhưng không t́m được cây
đũa thần – như bà Neudeck rưng rưng
kể lại. Ít
người biết được là ông bà Dr.Rupert
Neudeck có những liên hệ mật thiết với
rất nhiều nhân vật quan trọng và chính trị
gia nhiều quyền lực khi xưa và đương
thời. Có ai biết rằng sau hai lần tái nhiệm
chức vụ thủ tướng nước Đức
(2009-2013 và 2013-2017), bà Angela Merkel đều mời ông bà
Dr.Rupert Neudeck đến tư gia tṛ chuyện. Các
vị cựu chủ tịch quốc hội Đức
như bà Rita Süssmuth và ông Wolfgang Thierse, cựu Tổng
Thống Đức ông Johannes Rau (75), đương kim
bộ trưởng tài chánh Đức ông Dr. Wolfgang Schäuble,
cựu chủ tịch đảng SPD cũng là cựu
phó thủ tướng Đức ông Franz Müntefering,
cựu phó chủ tịch liên đảng CDU/CSU tại
quốc hội Đức ông Arnold Vaatz, cựu giám
đốc cơ quan t́nh báo và bộ trưởng
ngoại giao Đức ông Klaus Kinkel… nhiều thống
đốc tiểu bang hay cựu bộ trưởng liên
bang Đức như ông Dr.Ernst Albrecht (84), bà Sabine
Leutheusse-Schnarrenberger, ông Gerhard Rudolf Baum, ông Dr.Norbert Blüm….
và rất nhiều vị khác kể không hết, trong
đó phải nhắc đến bà Marion Gräfin Dönhoff
(93 sáng lập tuần báo Die Zeit) và ông Karl-Heinz Böhm (86
tài tử điện ảnh Áo, với nhiều
hoạt động nhân đạo tại Phi Châu). Tất
cả đều là bạn bè thân hữu sát cánh bên ông.
Ông coi cựu phó tổng thống Đức gốc
Việt Philipp Rösler như một người con và
rất thích thú khi ông này biết và hiểu rất rành
mạch về thuyền nhân tỵ nạn VN. Ông Peter
Scholl-Latour (90, nhà báo nổi tiếng, trước đây
ủng hộ việc gởi con tàu “Cap Anamur” cứu
vớt thuyền nhân VN của Dr. Rupert Neudeck, sau này
lại hỗ trợ ông qua mục đích nhân đạo
của “Hội Mũ Xanh”), hay ông Günter Grass (88, văn
hào với giải Nobel văn chương) cho đến
khi qua đời vào tháng 4 năm 2015 cũng đều
là bạn đồng hành với ông. Ngay đến ông
Aiman A. Mazyek (chủ tịch hội đồng trung
ương Muslime tại CHLB Đức) và ông Musa Ataman
(chủ tịch cộng đồng Kurden tại Bonn) cũng
đă từng cộng tác và ủng hộ ông. Tôi
hẹn gặp lại ông nhân dịp lễ trao giải
“Erich Fromm Preis 2016” ngày 6 tháng 4 năm 2016 tại
Stuttgart. Đây là lần đầu tiên giải này
được trao tặng cho một đôi vợ
chồng là ông Rupert Neudeck và bà Christel Neudeck. Ai có
ngờ đâu, đây là lần cuối cùng tôi gặp
ông. Sức khỏe ông suy sụp thấy rơ. Trong
phần diễn thuyết ngày hôm đó, tôi thấy ông
ngập ngừng qua dấu hiệu quên trước quên
sau. Ông mệt mỏi đi xuống và nói tôi lấy
cho ông một ly nước suối. Bà Christel Neudeck thay
ông trả lời phỏng vấn của giới
truyền thông hoặc cám ơn quan khách đến chia
vui cùng ông bà. Trước đó, ngày 30 tháng 1 năm
2016, ông tham dự ngày hội Tết Nguyên Đán Bính
Thân của người Việt tỵ nạn tại
Bielefeld. Ông cảm thấy mỏi mệt, tức
ngực và khó thở nên đi ra khỏi pḥng và yêu
cầu tôi chở ông về, trong khi chương tŕnh
vẫn c̣n đang tiếp tục. Chính bà Christel Neudeck
đă nhiều lần lo lắng và cảnh cáo ông, nhưng
ông vẫn nói ḿnh c̣n rất nhiều việc phải làm. Dr.Rupert
Neudeck lần đầu tiên bị mổ tuyến
tiền liệt (Prostata) khoảng 2 tuần trước
lễ khánh thành bia ty nạn thuyền nhân VN ngày 28 tháng
4 năm 2007 tại Troisdorf, nơi gia đ́nh ông cư trú.
Ông gắng gượng lững thững một ḿnh lái
xe đạp đến tham dự và tuyên bố
rằng: “Troisdorf chính là thủ đô của người
Việt tỵ nạn tại Đức”. Cũng
hai tuần trước đại hội Công Giáo VN
tại Đức kỳ thứ 40 tại Aschaffenburg
từ 14 đến 16 tháng 5 năm 2016, ông phải
nhập viện mổ tim lần thứ 3 chỉ trong ṿng
4. Lần này ông không đến tham dự được
năm sau này và nằm hôn mê trên giường bệnh
cho đến khi ĺa đời lúc 8 giờ sáng ngày 31
tháng 5 năm 2016, hưởng thọ 77 tuổi
(1939-2016). Có những lúc ngón tay ông đă cử động,
cũng có những lúc ông đă mở mắt nh́n
vợ và con cháu ḿnh và gật đầu khi được
hỏi ông có muốn nghe nhạc Mozart không. Những
niềm hy vọng chợt lóe lên trong sự mong đợi
khát khao của gia đ́nh, nhưng ai ngờ đâu
đó chỉ như ngọn nến chợt bừng sáng
trước khi thật sự lịm tắt. Ông đă
thật sự vĩnh viễn ra đi. Lễ
mai táng ông được tổ chức âm thầm và
giản dị trong gia đ́nh và thân hữu vỏn
vẹn chưa đến 30 người vào ngày 8 tháng 6
năm 2016. Quan tài dành cho ông là 6 miếng ván gỗ thô,
không sơn màu, không chạm trổ, không hoa, không
nến, nằm cô đơn dưới bậc thềm
Cung Thánh trong ngôi nhà thờ nhỏ gần nhà ông. Con cái
và thân nhân ông tự khiêng ông đến nơi an
nghỉ cuối cùng trong một nghĩa địa
nhỏ tại Troisdorf. Người
thân vĩnh biệt ông với từng nắm đất
và những cánh hoa dại mọc bên đường.
Giữ đúng lời hứa với bà Christel Neudeck trước
kia, tôi kính cẩn đặt tượng đồng
khắc đầu ông trên mộ. Một
tuần sau, ngày 14 tháng 6 năm 2016, Toà Tổng Giám
Mục Tổng Giáo Phận Koeln và tang quyến tổ
chức Thánh Lễ tưởng niệm ông tại Vương
Cung Thánh Đường St.Aposteln do Đức Hồng Y
Rainer Maria Woelki chủ tế cùng với 12 Linh Mục
Việt Nam (đa số đều được tàu
Cap Anamur cứu sống trước đây). Gần 2.000
người tham dự, hầu hết là thuyền nhân
Việt Nam đến từ các nơi trong nước
Đức và các quốc gia lân cận. Hầu
hết các Chùa Việt Nam và các cộng đoàn Công Giáo
Việt Nam trên toàn nước Đức đồng
loạt tổ chức lễ tưởng niệm và
cầu hồn cho ông như một nghĩa cử cám
ơn và thương tiếc vị ân nhân đă
cứu sống họ và gia đ́nh. Ngày
25 tháng 6 năm 2016, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam
tại Đức cũng tổ chức Thánh Lễ
cầu nguyện cho linh hồn ông tại Thánh Đường
St. Hippolitus trong thành phố Troisdorf, nơi gia đ́nh ông
cư ngụ, với 9 Linh mục Việt Nam và hơn
500 giáo dân. Không
những người Việt tỵ nạn thương
tiếc ông mà người dân Đức cũng bày
tỏ ḷng quư mến một con người đă thay
đổi được bộ mặt của nước
Đức qua nhiều hành động khác nhau. Trên
một chuyến xe lửa trong thành phố Koeln ngay trong
ngày lễ tưởng niệm ông (14.6.2016) có người
đă viết trên 1 toa xe ḍng chữ “R.I.P. Rupert
Neudeck” (Rest InPeace – Rupert Neudeck – Yên Nghỉ Trong An B́nh). Dr.
Rupert Neudeck ra đi với nhiều ước mơ chưa
trọn vẹn. Ông ước mơ một thế
giới an b́nh không chết chóc chiến tranh. Ông ước
mơ tiếp tục cứu giúp người tỵ
nạn trên thế giới. Ông ước mơ ngày nào
đó sẽ chạy Marathon trên suốt giải Gaza
tại Palestine. Ông ước mơ đi trên chuyến
xe lửa xuyên hết đất nước Sudan. Ông
ước mơ học tiếng Việt và tiếng
Ả Rập và ông ước mơ ḿnh sẽ sống
tại Phi Châu trong những tháng năm cuối đời…. Kính
thưa ông Dr.Rupert Neudeck, Cho
dù bây giờ ông có thể sống tại Phi Châu hay
Palestine, hay trên bất cứ đất nước nào
như trong mơ ước của ông, nhưng có
một điều chắc chắn rằng, ông vẫn c̣n
sống măi trong ḷng những người tỵ nạn
Việt Nam và tất cả mọi người trên
thế giới. Để
tưởng nhớ Dr. Rupert Neudeck Nguyễn
Hữu Huấn Hamburg,
tháng 7 năm 2016 |