30/1/1882
1896-1900
|
Sinh
tại Hyde Park, tiểu bang New York.
Theo học trường trung học Groton tại
Massachusetts
|
1900-04
|
Theo
học đại học Harvard, tốt nghiệp năm
1903
|
1904-07
|
Theo
học trường đại học Luật Khoa
Columbia
|
17/3/1905
|
Kết
hôn với cô Anna Eleanor Roosevelt
|
1907
|
Tham
gia Luật Sư Đoàn
|
1911-13
|
Thượng
Nghị Sĩ Tiểu Bang New York
|
1913-20
|
Thứ
Trưởng Bộ Hải Quân dưới thời
Tổng Thống Wilson
|
1920
|
Thất
cử Phó Tổng Thống trong liên danh đảng
Dân Chủ
|
1921
|
Bị
bại liệt
|
1929-32
|
Thống
Đốc Tiểu Bang New York
|
1933-45
|
Tổng
Thống Hoa Kỳ thứ 32
|
12/4/1945
|
Qua
đời tại Warm Springs, tiểu bang Georgia.
|
Ông Franklin D. Roosevelt là nhân vật
duy nhất được dân chúng Hoa Kỳ bầu
cử vào chức vụ Tổng Thống bốn
lần, phục vụ đất nước Hoa Kỳ
trong hơn 12 năm, lâu dài hơn tất cả các
Tổng Thống khác, đây là một danh dự và
sự tín nhiệm mà chưa thấy một vị
Tổng Thống Hoa Kỳ nào đạt được.
Tổng Thống F. D. Roosevelt đă điều hành chính
quyền Liên Bang vượt qua được cuộc
Đại Khủng Hoảng Kinh Tế và tập hợp
một lực lượng quân sự hùng mạnh
nhất mà thế giới chưa từng thấy để
giải phóng các dân tộc trên ba lục địa
khỏi các chế độ độc tài áp chế.
Dùng chương tŕnh Thử Thách Mới (New Deal),
một kế hoạch về công bằng xă hội,
Tổng Thống F. D. Roosevelt đă mang lại sự an
toàn cho các người cao tuổi, sự trợ giúp cho
các người bị thất nghiệp, các thời gian
làm việc ngắn hơn và lương bổng cao hơn
cho giới công nhân. Ông Roosevelt cũng đă sửa
đổi chính quyền liên bang, thêm vào chính quyền
này hàng chục cơ quan và dịch vụ mới. Ông
đă cải tổ các nguyên tắc của đảng
Dân Chủ, làm tăng thêm quyền hạn của chính
quyền trung ương theo như niềm tin tưởng
của ông Alexander Hamilton và đă khiến cho Hoa Kỳ
trở nên thịnh vượng hơn.
1/ Từ một gia đ́nh
giàu sang.
|
Ngôi
nhà của ông Franklin Roosevelt ở New york
|
Franklin
D. Roosevelt là con trai duy nhất của một nhân viên
quản trị của công ty đường xe lửa
Delaware & Hudson, chào đời ngày 30/1/1882 trong miền
đất Springwood của người cha thuộc vùng
Hyde Park, trong tiểu bang New York. Gia đ́nh Roosevelt này có
nguồn gốc từ ông Klaes Martensen Roosevelt, là người
đă tới miền New Amsterdam lập nghiệp vào
thập niên 1640. New Amsterdam là khu định cư đầu
tiên của các người Ḥa Lan, về sau khi xứ
sở này thuộc về nước Anh th́ được
đổi tên là thành phố New York. Ông Klaes Van Roosevelt
cũng là ông tổ của Theodore Roosevelt, vị
Tổng Thống thứ 26 của Hoa Kỳ.
Theodore và Franklin là anh em bà con (fifth cousins). Franklin D.
Roosevelt là con của ông James và bà Sara. Bà mẹ Sara là
người trẻ hơn chồng 26 tuổi, thuộc
gia đ́nh Delano giàu có, đă là nhân vật điều
khiển trong gia đ́nh, ngay cả khi người con
trai của bà đă trở thành vị lănh đạo
quốc gia. Vào thuở thiếu thời, cậu Roosevelt
không theo học trường tiểu học mà
được giáo dục do các thầy giáo dạy kèm
(tutors) nhưng mỗi năm, cậu đều
được gia đ́nh đưa đi học
hỏi trong các chuyến du lịch tại châu Âu.
|
Franklin Roosevelt năm 18 tuổi
|
Năm
14 tuổi, cậu Roosevelt theo học trường trung
học Groton, một trường tư thục thuộc
tiểu bang Massachusetts, rồi qua năm 1900, vào trường
đại học Harvard, giống như người bà
con là Theodore Roosevelt. Franklin Roosevelt đă theo môn Lịch
Sử, tham gia các đội bơi thuyền và đội
bóng đá, làm chủ biên của tờ báo Harvard
Crimson, một nội san của nhà trường. Cũng
trong thời gian theo học này, Franklin đă đính hôn
với cô em họ xa Eleanor Roosevelt, trẻ hơn 2
tuổi, rồi mặc dù sự phản đối
của bà mẹ, họ đă kết hôn vào ngày
17/3/1905, đă có 6 người con nhưng một người
qua đời lúc mới được vài tuổi.
Khi theo học trường Luật Khoa Columbia, ông
Roosevelt nhận thấy bộ môn Luật Học không
hấp dẫn nhiều nên đă không thi tốt
nghiệp nhưng các kiến thức của ông đủ
để giúp ông đậu kỳ thi luật sư vào
năm 1907. Vào tuổi 28, ông Roosevelt đă tham gia vào
nhiều công tác chính trị với nguồn gốc gia
đ́nh thuộc đảng Dân Chủ. Năm 1910, ông
đă đóng góp nhiều vào quỹ vận động
tranh cử của đảng này và ngạc nhiên
thấy rằng ḿnh được lựa chọn ra
tranh chức vụ thượng nghị sĩ tiểu
bang (state senate) của hạt Dutchess (Dutchess County). Sự
việc này có vẻ khôi hài bởi v́ trong một
nửa thế kỷ, chưa từng có một ứng
viên Dân Chủ nào được bầu do hạt
Dutchess cả. Dù sao, ông Roosevelt vẫn cố gắng, dùng
chiếc xe hơi đi dạo trên mọi con đường
làng để vận động và kết quả là ông
đắc cử với đa số phiếu, hơn
một ngàn phiếu dư và làm ngạc nhiên các nhà chính
trị lâu năm.
Vào tuổi 29, ông Franklin D. Roosevelt đă hoạt động
trong thượng viện tiểu bang, chống lại các
nhân vật áp đảo chính trị của chính
quyền địa phương, đặc biệt là
không chịu khuất phục trước tổ
chức đảng Dân Chủ Tammany Hall của thành
phố New York. Sau khi được tái bầu vào thượng
viện tiểu bang năm 1912, ông Franklin Roosevelt đă
ủng hộ ông Woodrow Wilson trong cuộc bầu cử
Tổng Thống, đối nghịch với ông Theodore
Roosevelt. Khi ông Wilson đắc cử, ông Roosevelt đă
được Tổng Thống Wilson bổ nhiệm làm
Thứ Trưởng Bộ Hải Quân. Ông Franklin
Roosevelt rất vui mừng với chức vụ mới này,
bởi v́ chính trị là công việc làm của ông, c̣n
tầu biển và lịch sử hàng hải là sở thích.
Năm 1914, ông đă thất bại khi không được
đảng Dân Chủ đề cử ra tranh chức
vụ Thượng Nghị Sĩ của tiểu bang New
York, phần lớn cũng do sự phản đối
của tổ chức Tammany Hall.
Sau khi Hoa Kỳ tham gia Thế Chiến Thứ Nhất vào
tháng 4/1917, ông Franklin Roosevelt muốn gia nhập quân
đội nhưng ông Josephus Daniels là Bộ Trưởng
Hải Quân đă khuyên nên lo làm các kế hoạch khác
như thả ḿn chống tầu ngầm trong vùng
Bắc Hải và ông Franklin Roosevelt đă nổi
tiếng là người thực hiện được
nhiều công tác cụ thể. Năm 1918, ông Franklin
Roosevelt đă thăm viếng nhiều mặt trận
tại châu Âu và gặp gỡ nhiều nhân vật nước
ngoài, nhờ đó đă thu thập được
nhiều kinh nghiệm đối ngoại.
Vào năm 1920, Đại Hội Đảng Dân Chủ
đă được tổ chức tại thành phố
San Francisco vào tháng 6 và đă chỉ định ông
James Cox thuộc tiểu bang Ohio làm ứng viên Tổng
Thống và ông Roosevelt làm Phó Tổng Thống, là người
được coi như đại diện cho các
tiểu bang miền đông. Ông Roosevelt đă đi
khắp các tiểu bang, diễn thuyết để
cổ động cho đề tài tranh cử là Hội
Quốc Liên (the League of Nations) nhưng Thượng
Viện Hoa Kỳ đă bỏ phiếu, ngăn cản
việc Hoa Kỳ là một thành viên của Hội
Quốc Liên và hơn nữa, đa số cử tri vào
thời gian này c̣n lơ là với công việc của
Hội Quốc Liên.
Kết quả là đảng Cộng Ḥa đă thắng
lớn với liên danh của ông Warren G. Harding, thượng
nghị sĩ tiểu bang Ohio và Calvin Coolidge, thống
đốc tiểu bang Massachusetts. Sự thất bại
này không gây nhiều thiệt hại cho ông Franklin
Roosevelt bởi v́ ông c̣n quá trẻ, 38 tuổi, và ông
vẫn là một lănh tụ trong số các đảng
viên Dân Chủ cấp tiến. Năm 1920, ông Franklin
Roosevelt trở nên phó tổng giám đốc, điều
khiển văn pḥng tại thành phố New York, của công
ty Tín Dụng Fedelity & Deposit có trụ sở chính
đặt tại tiểu bang Maryland.
2/ Vượt qua các khó khăn v́
mắc bệnh tê liệt.
|
Franklin Roosevelt - H́nh chụp năm 1941
|
Từ
trước, gia đ́nh Roosevelt đă có một căn
nhà trên ḥn đảo Campobello, ngoài khơi của
miền New Brunswick, thuộc nước Canada. Vào ngày
9/8/1921, trong khi bơi thuyền, ông Roosevelt bị ngă
xuống nước và bị lạnh cóng. Ngày hôm sau,
ông cảm thấy mệt mỏi rồi sau khi tập bơi
trở lại, ông đă thấy một điều ǵ
bất thường. Qua ngày hôm sau nữa, ông đă ghi
lại: “chân trái của tôi không c̣n hoạt động
được rồi sau đó là chân phải”.
Tới ngày 12/8, ông Roosevelt không thể đứng
dậy bằng hai chân; lưng, cánh tay và bàn tay cũng
bị tê liệt, không cầm nổi cây bút, ông đă
mắc phải bệnh tê liệt (polio) một cách
trầm trọng. Căn bệnh này đă khiến cho
hai chân của ông không xử dụng được, ông
Roosevelt đă phải tập đi bằng nạng và di
chuyển bằng xe lăn. Nhiều người đă
nghĩ rằng tương lai chính trị của ông
bị coi như chấm dứt nhưng ông Franklin
Roosevelt đă không nản ḷng, ông tiếp tục
viết thư, phổ biến các quan điểm và
hội họp tại nhà. Ông đă nhận được
sự giúp đỡ và khuyến khích của bà vợ
và người phụ tá là ông Louis Howe.
Khi cư ngụ tại Warm Spring, Georgia, ông Roosevelt đă
khám phá ra rằng bơi lội có thể giúp cho đôi
chân của ông hoạt động tốt hơn,
nhất là trong gịng suối nước ấm có
chất khoáng. Tại các suối nước nóng, ông
Roosevelt đă gặp nhiều bệnh nhân cũng bị
tê liệt như ông, nhưng v́ nghèo khó, họ không
đủ khả năng để theo đuổi cách
chữa trị bằng nước suối. Vào năm
1926, ông Roosevelt đă mua một vùng đất có
suối nước nóng rồi qua năm sau, 1927, cùng
với một số bạn bè, ông đă thành lập nên
Tổ Chức Suối Nước Nóng Georgia (the Georgia
Warm Spring Foundation) để giúp đỡ các bệnh nhân
bị tê liệt.
|
Franklin Roosevelt - h́nh chụp năm 1924
|
Trong
khi tập đi bằng nạng, ông Roosevelt đă
hoạt động trở lại trên đấu trường
chính trị, đă tiếp xúc với các lănh tụ Dân
Chủ trên toàn quốc. Tháng 6 năm 1924, ông đă
vận động cho ông Alfred E. Smith, thống đốc
tiểu bang New York, trong kỳ Đại Hội Đảng
Dân Chủ, rồi 4 năm sau, vào năm 1928, ông Roosevelt
một lần nữa đề cử ông Alfred Smith ra
tranh cử chức vụ Tổng Thống với ông
Herbert Hoover. Vào tháng 10 năm đó, đại hội
đảng Dân Chủ tiểu bang đă chọn ông
Roosevelt ra tranh chức Thống Đốc tiểu bang New
York và ông Franklin Roosevelt đă vận động ráo
riết và đă đắc cử với số
phiếu sai biệt nhỏ, thắng ông Albert Ottinger,
bộ trưởng tư pháp của tiểu bang New York.
Tại chức vụ thống đốc mới này, ông
Roosevelt đă thúc đẩy chính quyền địa phương
phải giảm thuế cho các nông gia khi gặp các khó
khăn kinh tế. Ông cũng cổ động cho chương
tŕnh trợ giúp người già và khi thị trường
chứng khoán sụp đổ và cuộc Đại
Khủng Khoảng Kinh Tế bắt đầu vào tháng
10 năm 1929, ông Roosevelt đă nổi tiếng về các
công tác cải cách xă hội. Sau khi được
bầu lại với đa số phiếu vào năm
1930, ông Roosevelt đă kêu gọi chính quyền cung
cấp 20 triệu Mỹ kim cho các người thất
nghiệp, đây là thứ trợ giúp thất
nghiệp trực tiếp đầu tiên.
Kỳ Đại Hội Đảng Dân Chủ năm
1932 đă đề cử ông Franklin D. Roosevelt ra tranh
cử Tổng Thống và ông Roosevelt đă nói: “Tôi
hứa với quư vị, tôi hứa với tôi, là
sẽ có một chương tŕnh Thử Thách Mới (a
new deal) dành cho dân chúng Hoa Kỳ”. Ông Franklin D. Roosevelt
đă viếng thăm 38 tiểu bang, chứng tỏ cho
các cử tri thấy rơ là ông có đủ khả năng
thể chất để lănh nhận chức vụ
Tổng Thống. Ông cũng hứa sẽ trợ giúp các
người bị thất nghiệp, các nhà nông và làm
cân bằng ngân sách.
Trong cuộc bầu cử năm 1932 này, dân chúng Mỹ
đă coi đảng Cộng Ḥa và ông Hoover thất
bại trước cuộc Đại Khủng Hoảng
Kinh Tế, nên đă bầu ông Franklin D. Roosevelt với
đa số phiếu (landslide) gồm 22,809,638 phiếu
phổ thông so với 15,758,901 phiếu của ông Hoover,
và 472/59 phiếu cử tri đoàn (electroral votes). Để
chào mừng chiến thắng của ông Franklin D.
Roosevelt, nhiều người đă ca bài hát phổ thông
“Ngày Hạnh Phúc Trở Lại” (Happy Days are Here
Again). Đây là bản nhạc vận động tranh
cử của đảng Dân Chủ.
Trước thời gian nhậm chức, ông F. D. Roosevelt
đă thoát hiểm vào ngày 15/2/1933 khi tên sát nhân Giuseppe
Zangara đă bắn ông tại Miami, Florida. Người cùng
ngồi chung xe hơi với ông là Thị Trưởng
Anton J. Cermak của thành phố Chicago bị chết.
3/ Nhiệm kỳ Tổng
Thống đầu tiên của ông Franklin D. Roosevelt
(1933-37).
Khi Tổng Thống F. D. Roosevelt ở tuổi 51 nhận
chức vụ vào ngày 4/3/1933, Hoa Kỳ ở vào t́nh
trạng kinh tế suy sụp một cách tuyệt
vọng. Đă có hàng triệu người thất
nghiệp, hàng ngàn nông dân bị tịch biên tài
sản trong ngân hàng, hàng ngàn ngân hàng phải khai phá
sản, đa số cơ sở thương mại
phải đóng cửa để tránh khỏi bị
thiệt hại hơn nữa. Người dân Hoa Kỳ
vào thời gian này thường lắng nghe Tổng
Thống F.D. Roosevelt nói chuyện qua máy phát thanh: “Công
tác chính của chúng ta là phải giúp cho mọi người
có công việc làm... “.
Vào nhiệm kỳ đầu tiên, rất nhiều người
đă từng giúp ông Franklin D. Roosevelt vận động
tranh cử, vẫn tiếp tục làm việc trong các công
tác mới, như các ông Adolf A. Berle, Harry L. Hopkins, Raymond
Moley, Samuel I. Rosenman và Rexford G. Tugwell... Một tờ báo
đă gọi nhóm nhân vật này là “Bộ năo tin
cẩn của ông Roosevelt” (Roosevelt’s Brain Trust).
Chính phủ của Tổng Thống F. D. Roosevelt cũng
gồm bà Franes Perkins làm Bộ Trưởng Lao Động.
Đây là phụ nữ đầu tiên trong chính
phủ. Ngoài ra c̣n có ông Henry Morgenthau, Jr., Bộ Trưởng
Ngân Khố vào năm 1934 và ông John N. Garner, Bộ Trưởng
Nội Vụ.
Theo như lời hứa, trong 100 ngày Tổng Thống F.
D. Roosevelt đă cải tổ chính quyền Liên Bang
bằng một công thức làm việc chưa từng
thấy trong thời b́nh. Trong các năm của nhiệm
kỳ thứ nhất, Tổng Thống F. D. Roosevelt đă
tạo nên rất nhiều cơ quan mới trong chính
quyền trung ương. Vào ngày 6 tháng 3 năm 1933, ông
công bố một ngày “ngân hàng nghỉ làm việc”
(bank holiday) để đóng cửa tất cả các ngân
hàng trên toàn quốc, thanh tra từng ngân hàng một và
chỉ cho phép các cơ sở này mở cửa lại
khi thấy họ hội đủ các điều
kiện cần thiết. Tổng Thống F. D. Roosevelt cũng
đă triệu tập một hội nghị các
thống đốc vào ngày mồng 6, báo tin rằng chính
quyền liên bang sẽ can thiệp vào từng tiểu
bang để tránh cảnh nghèo đói nếu mỗi
địa phương thất bại trong các hành động
sửa chữa.
Ngày 9 tháng 3, Tổng Thống F. D. Roosevelt đệ tŕnh
Quốc Hội các đạo luật phục hồi và
cải cách, phần lớn các đề nghị này
đă được Quốc Hội chấp thuận
với đa số phiếu. Thời gian làm việc
của Quốc Hội này được gọi là
“100 Ngày” (the Hundred Days), thực ra là 99 ngày, kéo dài
từ ngày 9 tháng 3 tới ngày 16 tháng 6.
Vào ngày 13, các ngân hàng với cách hoạt động
đúng đắn đă được phép mở
cửa lại. Sau đó đạo luật Điều
Chỉnh Nông Nghiệp (the Agricultural Adjustment Act = AAA)
được Quốc Hội thông qua, đă giúp cho các
nông gia có thêm khả năng mua bán và giới hạn các
thặng dư nông sản. Đạo luật Phục
Hồi Kỹ Nghệ Quốc Gia (the National Industrial
Recovery Act = NIRA) là một phương pháp điều hành
thương mại mới. Luật Quyền Hạn Thung
Lũng Tennessee (the Tennessee Valley Authority = TVA) được
đặt ra để phát triển nguồn thủy
điện trong miền thung lũng Tennessee. Cơ Quan Cho
Vay Tiền các Chủ Nhà (the Home Owners Loan Corporation) đă
trợ giúp các chủ nhà khỏi bị siết nợ.
Bằng nghị định, Tổng Thống F. D.
Roosevelt đă quyết định không dùng vàng làm
bản vị tiền tệ để tránh cho kho dự
trữ vàng không bị thất thoát, đồng
thời Cơ Quan Cứu Trợ Khẩn Cấp Liên Bang
(the Federal Emergency Relief Administration) với ông Harry Hopkins
đứng đầu, đă cung cấp các món tiền
vay trực tiếp tới các tiểu bang để giúp
đỡ các người bị thất nghiệp, Cơ
Quan Bảo Toàn Dân Sự (the Civilian Conservation Corps = CCC)
đă được tổ chức để cung
cấp nhiều công việc làm cho giới trẻ.
Về ngoại giao, Tổng Thống F. D. Roosevelt đă
phục hồi các liên lạc với Liên Xô do mối
quan hệ này đă bị cắt đứt sau cuộc
Cách Mạng Nga năm 1917. Vào năm 1933, lần đầu
tiên sau 16 năm trường, hai nước Hoa Kỳ và
Liên Xô trao đổi các đại sứ.
Trong các năm gần cuối của nhiệm kỳ
đầu tiên, Tổng Thống F. D. Roosevelt đă hướng
dẫn Quốc Hội thành lập nhiều cơ quan
mới thuộc chính quyền liên bang, kể cả Cơ
Quan Quản Trị Truyền Thông Liên Bang (the Federal
Communications Commission = FCC), Cơ Quan Trao Đổi
Chứng Khoán Liên Bang (the Securities Exchange Commission), Cơ
quan Quản Trị Gia Cư Liên Bang (the Federal Housing
Administration), Hội Đồng Tài Nguyên Quốc Gia (the
National Resources Board), Cơ Quan Quản Trị Điện
Hóa Nông Thôn (the Rural Electrification Administration)...
|
Tổng Thống F.D. Roosevelt kư đạo
luật an toàn xă hội
14 tháng Tám, năm 1935
|
Vào
năm 1935, Tổng Thống F. D. Roosevelt cũng thúc
dục Quốc Hội thông qua các biện pháp an toàn xă
hội (social security) để cung cấp tiền hưu
cho các người cao niên, tạo ra loại bảo
hiểm thất nghiệp, giúp đỡ trẻ em
thiếu thốn và tổ chức các dịch vụ y
tế.
Vào năm 1936, Tổng Thống F. D. Roosevelt đă đắc
cử lần thứ hai, thắng lớn ứng cử
viên Cộng Ḥa là ông Alfred M. Landon, thống đốc
tiểu bang Kansas, theo một tỉ lệ rất cao:
27,752,869 phiếu so với 16,674,665 phiếu phổ thông
của ông Landon. Phiếu cử tri đoàn là 523/8. Ông
Landon chỉ thắng lợi tại hai tiểu bang Maine và
Vermont.
4/ Nhiệm Kỳ Tổng
Thống lần thứ hai (1937-41).
Trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai
vào ngày 20/1/1937, Tổng Thống F. D. Roosevelt
thẳng thắn nh́n nhận rằng đất nước
Hoa Kỳ chưa đạt được t́nh trạng
của thứ “thung lũng hạnh phúc” (happy valley) như
ông đă h́nh dung trong nhiệm kỳ đầu. Ông
đă hứa rằng sẽ làm việc để
giải tỏa một phần ba số người
của quốc gia c̣n chịu cảnh thiếu ăn,
thiếu mặc, thiếu nơi ở.
Từ năm 1935, Pháp Viện Tối Cao Hoa Kỳ
bắt đầu gây khó khăn cho chương tŕnh
Thử Thách Mới của Tổng Thống F. D. Roosevelt
bằng cách công bố rằng các cơ quan như NIRA và
AAA không hợp hiến. Phần lớn các vị quan ṭa
thuộc Pháp Viện Tối Cao là những người
bảo thủ, đă từng được bổ
nhiệm do các Tổng Thống Taft, Harding, Coolidge và
Hoover, sáu trong số chín vị đă trên 70 tuổi. V́
thế Tổng Thống F. D. Roosevelt đă đề
nghị dự luật đ̣i hỏi các vị quan ṭa
trên 70 tuổi phải về hưu, công bố rằng
ông muốn thấy “một ngành công lư nh́n các
vấn đề mới qua các cặp kính mới”. Khi
Quốc Hội ngăn cản chương tŕnh của
Tổng Thống F. D. Roosevelt, gọi đó là
một cố gắng để “đóng gói Ṭa Án
Tối Cao”, Tổng Thống Roosevelt đă tŕnh bày cho
dân chúng biết qua các “buổi nói chuyện bên ḷ sưởi”,
bảo vệ nhu cầu cần phải thay đổi nhân
sự của các ṭa án.
Thế rồi bỗng nhiên, không cần tới một
cải cách nào trong ngành Tư Pháp, Ṭa Tối Cao đă
dùng một đường lối cấp tiến hơn,
không cho phép các tiểu bang ấn định số
tiền lương tối thiểu và chấp nhận
rằng các đạo luật về an toàn xă hội
của liên bang (the federal social security laws) th́ hợp
hiến. Thời gian trôi dần qua, Tổng Thống F.
D. Roosevelt đă có cơ hội bổ nhiệm vị Chánh
Án Tối Cao Pháp Viện mới và tám vị khác đều
có quá tŕnh cấp tiến.
Vào thời gian này, các đám mây u ám của chiến
tranh tại châu Âu đang dần dần xuất
hiện. Khối Trục (the Axis powers) gồm các nước
Đức, Ư và Nhật càng trở nên hùng mạnh hơn
và hiếu chiến hơn trong thập niên 1930, vẫn
đang tấn công và chiếm cứ các nước
nhỏ lân bang. Tổng Thống F. D. Roosevelt đă
cảnh cáo Hitler và Mussolini rằng nếu họ gây ra
chiến tranh, họ sẽ phải chịu trách
nhiệm trước lịch sử.
Năm 1935, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo
luật Trung Lập đầu tiên (the first Neutrality Act),
ngăn cấm Hoa Kỳ cung cấp vơ khí và tiếp
liệu cho bất cứ quốc gia nào đang lâm
chiến. Tổng Thống F. D. Roosevelt không bằng ḷng
với đạo luật này bởi v́ theo đó
mọi quốc gia đều bị coi như nhau, dù là
nước xâm lăng hay bị xâm lăng. Đạo
luật kể trên c̣n khiến cho Hoa Kỳ không thể
giúp đỡ các nước bạn đang lâm vào hoàn
cảnh nguy hiểm trong khi các nước trong khối
Trục là Đức, Ư và Nhật đang làm hại
nền Dân Chủ trên thế giới.
Vào giữa thập niên 1930, Nhật Bản đă
tấn công Trung Hoa, tạo nên sự đe dọa cho
nền ḥa b́nh của thế giới. Tổng Thống
F. D. Roosevelt đă nhắc nhở các quốc gia khác
về sự nguy hiểm này và cùng với Ngoại Trưởng
Cordell Hull, tin tưởng rằng Hoa Kỳ cần
phải giúp đỡ các nước khác trang bị quân
lực để tự vệ. Dưới sự thúc
dục của Tổng Thống F. D. Roosevelt, Quốc
Hội Hoa Kỳ đă xét lại các đạo
luật trung lập vào năm 1939, cho phép Hoa Kỳ có
thể bán các tiếp liệu cho các nước bạn
chống lại khối Trục.
Khi quân đội của Hitler tiến vào đất Ba
Lan vào ngày 01 tháng 9 năm 1939, khởi đầu
cuộc Thế Chiến Lần Thứ Hai, Tổng
Thống F. D. Roosevelt đă tŕnh bày với quốc dân
trong cuộc nói chuyện bên ḷ sưởi rằng: “Tôi
đă nh́n thấy chiến tranh và tôi ghét chiến
tranh. Tôi hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ ở ngoài
cuộc chiến tranh này”.
Đạo luật Trung Lập năm 1939 (the Neutrality Act
of 1939) đă cho phép các nước chống lại
khối Trục được quyền mua tiếp
liệu chiến tranh của Hoa Kỳ rồi qua tháng
11/1941, Quốc Hội Hoa Kỳ c̣n cấm đoán các
tầu bè Mỹ ở trong vùng chiến tranh và cấm
mang theo súng.
Năm sau, khi Đại Hội đảng Dân Chủ
diễn ra th́ nước Pháp đầu hàng quân đội
Đức và nước Anh đang đứng một ḿnh,
bị bao vây và chịu đựng các hiểm nguy.
Mặc dù khước từ nhiệm kỳ thứ ba nhưng
Tổng Thống F. D. Roosevelt đă được
mọi người đồng thanh chỉ định làm
ứng viên, với ông Henry A. Wallace, cựu bộ trưởng
Canh Nông, làm ứng viên Phó Tổng Thống. Đảng
Cộng Ḥa đưa ra một nhân vật mới là ông
Wendell L. Willkie, tổng giám đốc một đại
công ty thuộc tiểu bang Indiana với nhân vật phó
là Thượng Nghị Sĩ Charles L. McNary của
tiểu bang Oregon. Cuộc vận động tranh cử
đă diễn ra trong khi châu Âu lâm vào t́nh trạng u
tối của chiến tranh.
Vào tháng 9, Tổng Thống F. D. Roosevelt đă thương
lượng với nước Anh, bằng ḷng cho nước
Anh mượn 50 khu trục hạm cũ để đổi
lấy căn cứ hải quân trong miền Tây Ấn.
Trong cuộc bầu cử lần này, ông Roosevelt đă
được đa số phiếu, dù không nhiều
bằng lần trước: 27,307,819 phiếu so với
22,312,018 phiếu của ông Willkie, phiếu cử tri
đoàn là 449/82.
Tổng Thống F. D. Roosevelt tái đắc cử
lần này là do dân chúng Hoa Kỳ tin tưởng vào tài
lănh đạo và kinh nghiệm của ông, là hai thứ
rất cần thiết trong hoàn cảnh thế
chiến. Trong bài diễn văn gửi cho Quốc
Hội vào tháng 1 năm 1941, Tổng Thống F. D.
Roosevelt đă nói rằng: “Trong các ngày sắp tới,
chúng ta trông mong thế giới được đặt
trên căn bản của bốn thứ tự do của
con người. Thứ nhất là tự do ngôn luận
và tư tưởng, ở mọi nơi trên thế
giới. Thứ hai là mỗi người được
tự do thờ phượng Thượng Đế theo
cách riêng, ở mọi nơi trên thế giới.
Thứ ba là tự do về nhu cầu (freedom from want), có
nghĩa là mọi quốc gia đều được
hưởng đời sống ḥa b́nh an lạc.
Thứ tư là tự do không bị sợ hăi (freedom
from fear), có nghĩa là cắt giảm binh bị trên
thế giới khiến cho không một quốc gia nào
ở vị trí xâm lăng nước láng giềng”.
5/ Nhiệm kỳ thứ ba
(1941-45) và thứ tư (1945- ).
|
Tổng
Thống Roosevelt và Winston Churchill
trên
khu trục hạm HMS Prince of Wales (1941)
|
Vào
tháng 8 năm 1941, Tổng Thống F. D. Roosevelt đă
gặp Thủ Tướng Anh Winston Churchill trên một
khu trục hạm bỏ neo trong miền bắc Đại
Tây Dương để thảo ra một tài liệu
gọi là “Hiến Chương Đại Tây Dương”
(the Atlantic Charter) trong đó có 8 nguyên tắc chung để
dùng cho nền ḥa b́nh sau này. Các nguyên tắc này
bảo đảm sự tự do trên mặt biển,
khiến cho các quốc gia có quyền tự do chọn
lựa chính thể và theo đuổi nền mậu
dịch ḥa b́nh trên thế giới.
Từ nay, Hoa Kỳ chấm dứt thương mại
với Nhật Bản bởi v́ nước này đă xâm
lăng vùng Đông Nam Á. Vào tháng 12 năm 1941, một
đoàn đại biểu đặc biệt của
Nhật Bản đă tới thủ đô Washington để
đàm phán với chính phủ Hoa Kỳ. Vào ngày 7 tháng
12, Nhật Bản đă oanh tạc căn cứ Hải
Quân Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng (Pear Harbor) mà không
tuyên chiến và tấn công các ḥn đảo Phi
Luật Tân. Gọi đây là “ngày ô nhục”,
Tổng Thống F. D. Roosevelt đă kêu gọi Quốc
Hội tuyên chiến với Nhật Bản. Ba ngày sau
đó, 11/12/1941, Hoa Kỳ cũng tuyên chiến với
Đức và Ư. Vào thời gian này, Hoa Kỳ đang
ở vào t́nh trạng rất khó khăn. Chiến tranh
đang lan rộng trên cả hai vùng Đại Tây Dương
và Thái B́nh Dương. Hải Quân Hoa Kỳ đă
bị tê liệt sau trận tấn công Trân Châu
Cảng do Nhật Bản. Tại miền tây Hoa Kỳ,
đa số dân chúng coi Nhật Bản là kẻ thù quan
trọng nhất trong khi tại miền đông,
nhiều người muốn Hoa Kỳ đánh bại
Đức Quốc Xă trước tiên.
Dưới quyền lănh đạo của Tổng
Thống F. D. Roosevelt, Hoa Kỳ đă làm mọi cách
để chiến thắng, với các cách kiểm soát
về giá cả và lương bổng, hàng trăm
tỉ mỹ kim được phân phối, hơn
một triệu người bị gọi nhập ngũ
và được huấn luyện quân sự ít
nhất một năm, nhân lực được
vận dụng tối đa, nhiều cách kiểm
duyệt được áp dụng, các cuộc đ́nh
công bị cấm đoán... trong khi đó một dự
án vơ khí khủng khiếp được che dấu, không
cho dân chúng và quân địch biết rơ: bom nguyên
tử.
Vào tháng 12/1941 và tháng 1/1942, Tổng Thống F. D.
Roosevelt đă hội họp với Thủ Tướng
Churchill trong Ṭa Nhà Trắng và cả hai nhà lănh đạo
đồng ư rằng Hoa Kỳ chưa thể đánh
trả thật mạnh quân đội Nhật Bản
cho đến khi nào Hải Quân được hồi
phục, trong khi đó cả người Anh lẫn người
Nga đều mong mỏi Đức Quốc Xă bị tiêu
diệt sớm nhất, v́ vậy hai nhà lănh đạo
Mỹ và Anh đă quyết định rằng sẽ
đánh bại quân Đức trước tiên. Tổng
Thống F. D. Roosevelt cũng khuyên các quốc gia
Đồng Minh nên dùng danh nghĩa Liên Hiệp Quốc
khi chống Đức, Ư, Nhật. Sự hợp tác này
đă là căn bản cho Tổ Chức Liên Hiệp
Quốc được thành lập vào thời b́nh trong
năm 1945.
Vào ngày đầu năm 1942, 26 quốc gia đồng
ư ghi tên ủng hộ Hiến Chương Bắc Đại
Tây Dương và đồng ư chiến đấu
chống khối Trục tới thắng lợi cuối
cùng. Trong cuộc chiến tranh, Tổng Thống F. D.
Roosevelt đă nhiều lần thảo luận với
Thủ Tướng Churchill và các nhà lănh đạo
Đồng Minh khác. Ông là Tổng Thống Hoa Kỳ
đầu tiên ra khỏi nước trong thời kỳ
chiến tranh. Ngày 8/11/1942, quân đội Đồng
Minh đă đổ bộ lên Bắc Phi. Đây là
cuộc hành quân lớn lao nhất trong lịch sử tính
tới thời đại đó. Sau cuộc hội
nghị năm 1943 tại Casablanca thuộc xứ Morocco,
Tổng Thống Mỹ và Thủ Tướng Anh đă
công bố rằng chiến tranh sẽ tiếp diễn
cho tới khi Khối Trục phải đầu hàng vô
điều kiện.
Trong thời kỳ chiến tranh này, Tổng Thống F.
D. Roosevelt đă giảm bớt các giải trí tại Ṭa
Nhà Trắng, các quy luật an ninh được áp
dụng tại đây, súng pḥng không được
đặt trên nóc nhà và các kỹ sư đă xây
dựng một hầm trú bom ở sâu dưới đất.
Vào năm 1943, hơn 10 triệu người Mỹ đă
bị gọi nhập ngũ và lực lượng Đồng
Minh bắt đầu đẩy lui quân đội
của phe Trục. Quân đội Đồng Minh dưới
quyền chỉ huy của Tướng Dwight Eisenhower
đă đổ bộ lên đất Pháp vào tháng 6 năm
1944. Cùng vào tháng này, Đại Hội Toàn Quốc
của Đảng Cộng Ḥa đă hội họp và
đề cử ông Thomas E. Dewey, Thống Đốc New
York, làm ứng viên tổng thống và Thống Đốc
Ohio là John W. Bricker, đứng chung liên danh.
Vào tháng 7, ông Roosevelt tuyên bố: “Nếu Đại
Hội của đảng Dân Chủ đề cử tôi...
tôi sẽ nhận lời”. Lại một lần
nữa, ông Roosevelt đă thắng cử với ông Harry
S. Truman làm Phó Tổng Thống, nhưng với đa
số phiếu nhỏ hơn, 25,606,585 so với số
phiếu phổ thông 22,014,745 của ông Dewey, và số
phiếu cử tri đoàn có tỉ lệ là 432/99,
nhờ thắng lợi tại 36 trong số 48 tiểu
bang.
Trong lễ nhậm chức vào tháng 1/1945, Tổng
Thống Franklin D. Roosevelt đă đọc bài diễn văn
ngắn nhất trong lịch sử, chỉ dài 6 phút, qua
đó ông đă xác nhận rằng “chúng ta không
thể sống một ḿnh trong ḥa b́nh và sự an
lạc của chúng ta tùy thuộc vào sự an lạc
của các nước khác ở xa hơn”.
|
Churchill,
Roosevelt, và Stalin
tại hội nghị Yalta, tháng Hai năm 1945
|
Vào
tháng 2/1945, Tổng Thống F. D. Roosevelt đă đi
tới Yalta thuộc miền tây nam của Liên Xô để
thảo luận các chương tŕnh ḥa b́nh với
Thủ Tướng Winston Churchill của nước Anh và
với nhà độc tài Joseph Stalin của Liên Xô. Vào
ngày 11/2/1945, cả ba nhà lănh đạo này đă ra
Bản Tuyên Cáo Crimea (the Crimea Declaration) qua đó xác
định lại các nguyên tắc của Bản
Hiến Chương Đại Tây Dương (the
Atlantic Charter) và của các buổi họp tại
Casablanca. Các nhà lănh đạo cũng đặt ra các
kế hoạch tấn công cuối cùng, chiếm đóng
các nước địch sau chiến tranh và đặt
nền móng cho tổ chức Liên Hiệp Quốc. Sau
cuộc họp thượng đỉnh này, Tổng
Thống Franklin D. Roosevelt bắt đầu nghi ngờ các
thiện chí của phe Xô Viết và lo lắng trước
các thái độ của những người Cộng
Sản.
|
Tượng
của TT F.D. Roosevelt
tại
công viên Grosvenor, Anh Quốc
|
Khi
trở lại Hoa Kỳ từ Yalta, Tổng Thống F.
D. Roosevelt trông già nua hơn số tuổi 63. Vào
cuối tháng 3 năm 1945, ông về Warm Springs, Georgia,
để nghỉ ngơi. Vào ngày 12/4, trong khi làm
việc tại bàn giấy và bà họa sĩ Elizabeth
Schoumatoff vẽ chân dung của ông, bỗng nhiên Tổng
Thống F. D. Roosevelt kêu đau đầu. Vài giờ
sau, vào lúc 4:45 chiều, Tổng Thống F. D. Roosevelt qua
đời v́ bị chảy máu năo. Tổng Thống Franklin D. Roosevelt
được chôn cất tại Hyde Park, thuộc
tiểu bang New York.
Tin buồn về Tổng Thống Franklin D. Roosevelt qua
đời đă khiến cho hàng triệu người
trên khắp thế giới phải buồn rầu, thương
tiếc. Nước Anh đă nhớ các công lao đóng
góp của ông vào việc bảo vệ quê hương
này khỏi bị xâm lăng và tàn phá, nên đă xây
dựng một bức tượng để tưởng
niệm Tổng Thống Franklin D. Roosevelt trong Công Viên
Grosvenor.
Giống như Tổng Thống Abraham Lincoln, Tổng
Thống Franlin D. Roosevelt qua đời khi ông đă làm
xong nhiệm vụ, khi ḥa b́nh sắp tới gần.
Tổng Thống Franlin D. Roosevelt đă đảm trách công
việc lănh đạo xứ sở trong những ngày tháng
đen tối nhất và đă đưa Hoa Kỳ
trở thành một quốc gia thịnh vượng và
vinh quang v́ chiến thắng.
Phạm
Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica Encyclopedia,
The Complete Book of U.S. Presidents by William A. Degregorio, Gramercy
Books, N.Y. 2002.
|