Ngày
Xuân ở Biển Hồ, Pleiku
Vương Mộng Long |
Trung Úy Vương
Mộng Long và Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 11
Biệt Động Quân – 1968 Năm 1968 Đại đội 1 Tiểu Đoàn 11
Biệt Động Quân có hai người tên là Sanh đó
là Hạ sĩ Lưu Sanh và Binh nhứt Ngô Sanh. Lưu Sanh, vốn người xứ
Sịa, Thừa -Thiên, là xạ thủ đại liên
xuất sắc số một của tiểu đoàn. Lưu Sanh có dáng dấp một tay anh chị, đô
con, tháo vát, nhanh nhẹn, liến thoắng. Anh vác
khẩu đại liên 30 trông nhẹ nhàng như người
ta vác khẩu carbine M2. Lưu Sanh rất kỷ
luật, nhưng cũng rất cứng đầu. Anh
này c̣n có biệt danh là “Sanh Bi Đông” v́ lúc nào
bên hông anh cũng kè kè một bi đông rượu
đế. Người tải đạn cho Hạ sĩ
Lưu Sanh là Binh nhứt Ngô Sanh. Ngô Sanh quê quán Vĩnh-Điện,
Quảng Nam. Ngô Sanh nhỏ con, mặt chuột, răng hô.
Thêm vào đó, miệng anh có ba bốn cái răng bịt
vàng sáng chóa. Khi cười, miệng anh như có
lửa. Anh em trong đại đội gọi đùa anh
là “Kim-Thành Công Tử” ư nói anh là công tử con
chủ tiệm vàng Kim-Thành nổi tiếng khắp nước
Việt-Nam. Ngô Sanh cũng đoạt danh hiệu “Người
Nhẹ Cân Nhứt” của Tiểu đoàn 11 Biệt
Động Quân thời bấy giờ. Lạ một điều, trọng lượng
của “Kim-Thành Công Tử” cân chưa tới bốn
chục kư lô, vậy mà “Công Tử” có thể
mang theo trên ḿnh đầy đủ, súng đạn
cá nhân, đồ ngủ, mười ngày gạo, cùng
với hai thùng đạn đại liên, lội
rừng hết ngày này qua ngày khác, không than mỏi. Mặc dù rất xấu trai, nhưng ai cũng thương
mến Ngô Sanh. Nếu ai đă sống chung với anh ít
lâu, sẽ cảm ra rằng, có lẽ trên đời
này, không ai lại hiền lành, tốt bụng như
anh. Chàng “Công Tử” này hiền như cục đất. Trong doanh trại, ngoài hành quân, hai anh Sanh lúc
nào cũng như bóng với h́nh, sát cánh bên nhau. Tôi và Thiếu úy Đặng Hữu
Duyên đại đội phó sẽ măi măi
không thể quên một kỷ niệm khôi hài
giữa hai ông Sanh này. Một đêm, bên đống lửa, trong
rừng Núi Voi, Liên-Khương, Đà-Lạt, cạnh
hố đại liên, Lưu Sanh nói với Ngô Sanh, – Này Sanh ơi!
Tau mắc cỡ v́ trùng tên với mi. Mi đần
độn quá mi ơi! Tau dạy hoài, mi chẳng khá. Ông
già mi đẻ ra mi thiệt uổng công. Nếu
ổng ỉa ra một cục cứt, cho chó nó
“lủm” chắc c̣n có ích hơn! Ngô Sanh ngây thơ nh́n Lưu Sanh, –
Anh nói chi lạ rứa? Nếu tui là cục cứt th́
ai tải đạn cho anh? Lấy mô ra đạn cho anh
bắn? Anh không cám ơn tui phụ giúp anh, anh c̣n chê
bai này nọ. Ngày nào anh cũng la mắng, chửi
bới tui. Tui chịu hết nổi rồi! Sau đó, Ngô Sanh quay mặt đi, đưa tay
quệt nước mắt, nghẹn ngào, –
Thôi! Sáng mai tui tŕnh với Thái Sơn cho tui ra
trung đội. Tui không phụ tải đạn cho
anh nữa! Anh kiếm người khác tải đạn
cho anh đi…Hu! Hu! Hu!… Ngô Sanh bật khóc. Tiếng thổn
thức càng lúc càng lớn. Tiếng khóc năo nuột rừng
đêm. Tôi thấy Lưu Sanh cuống quưt, vứt
vội ca cà phê đang uống xuống đất, –
Ấy! Tau xin lỗi mi! Tau giỡn mi đó thôi!
V́ hai đứa ḿnh là anh em, tau mới dám giỡn.
Nín đi! Đừng khóc nữa! Mi ở lại tải
đạn cho tau, giúp tau tiếp đạn lúc đánh
nhau. Mi mà không tải đạn cho tau, tau cũng bỏ
cây đại liên này cho đứa khác giữ. Chúng
nó sẽ không bắn hay như hai đứa ḿnh.
Nếu gặp lúc Việt Cộng xung phong, đại liên
không cản được Việt Cộng, Việt
Cộng sẽ xông vào vị trí. Tụi nó sẽ bắt
Thái Sơn, bắt tau, bắt mi! Rồi vừa vuốt lưng Ngô Sanh, Lưu Sanh
vừa nhẹ giọng dỗ dành, – Tau xin lỗi mi! Thôi!
Nín đi nhé! Cười lên đi! Cười lên
… cho ánh …răng vàng…sáng chói… Ngô Sanh đang thút thít cũng phải ph́ cười
khi bạn nó xuống giọng pha tṛ. Nó nh́n bạn, ánh mắt đầy t́nh mến
thương, nó nhoẻn miệng cười (răng vàng
sáng chói) – Ừ! Th́ thôi! Nhưng
anh phải hứa, từ nay không gọi em là cục
cứt nữa nhé! –
Tau hứa mà! Tau hứa từ nay sẽ không gọi
mi là cục cứt nữa. Tau sẽ gọi mi là “Cưng
của Liên” Chịu chưa? Ngô Sanh gục gục đầu, tay nó
cầm một khúc củi dài, cời cời những
cục than hồng trong bếp, than hồng bắn ra
những tia sáng “tí tách!” Trong ánh lửa bập bùng, tôi nh́n thấy
đôi mắt nó long lanh, đôi mắt nó đang cười
long lanh…Cưng của Liên”
là tên anh em trong đại đội đặt
cho Ngô Sanh. Trong khu gia binh đại đội, khi đi ngang
nhà vợ chồng Ngô Sanh, người ta thường
nghe vợ anh gọi anh, – Cưng
của Liên ơi! Cưng của Liên đâu rồi? Cưng
của Liên xách dùm em thau nước…Cưng của Liên
nhóm bếp dùm em chút coi…Cưng của Liên… Người ta gọi căn gia binh của
vợ chồng Ngô Sanh là “Lâu
Đài T́nh Ái” Chị Liên là cư dân Biển Hồ từ
lâu. Chị là con gái của ông Thượng sĩ Thường
Vụ Tiểu Đoàn 23 Biệt Động Quân. Chị Liên c̣n có tên là “Liên Mắt Biếc”
v́ đôi mắt của chị ta lúc nào cũng xanh, và
lóng lánh sắc như dao cau. Mười lăm tuổi, chị đă lấy
chồng và chị đă hai lần lănh tiền tử
tuất của chồng. Người chồng đầu tiên của
chị là lính ở Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân
và tử trận từ thời Thiếu tá Sách
làm tiểu đoàn trưởng. Vài tháng sau,
chị tái giá. Người chồng thứ nh́ của
chị là anh lính nấu cơm của Đại úy Đoàn
Ngân Bài, Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 23 Biệt
Động Quân. Anh này cũng đền nợ nước
trong trận Phù-Củ năm 1965. Biến cố Phật Giáo Miền Trung năm 1966
đă đưa Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân ra
Đà-Nẵng. Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân từ
Đà-Nẵng chuyển vào Biển Hồ, và Ngô
Sanh khù khờ đă tới Pleiku. Như có duyên có nợ, nhân một ngày dưỡng
quân, trong chợ Biển Hồ, “Kim-Thành
Công Tử” và “Liên
Mắt Biếc” gặp nhau. Người góa
phụ trẻ, chưa tiêu hết tiền tử của
người chồng thứ nh́, thấy anh tân binh này
hiền như cục bột, bèn thương. Ngày tôi tới Đại đội 1/11 th́ cặp
vợ chồng này đă dọn về ở khu gia binh
Biển Hồ từ lâu. Trong thời gian làm đại đội trưởng
Đại đội 1/11, tôi hay ghé trại gia binh, thăm
viếng thân nhân binh sĩ dưới quyền, vào
những ngày lễ Tết, hay sau những chuyến hành
quân có tổn thất. Tôi cũng nhiều lần tham dự những
đám cưới nhà binh. Những đám cưới mà
cô dâu chỉ có một bộ bà ba mới, không dây
chuyền, không bông tai, không nhẫn vàng. Chú rể
gọn gàng trong bộ rằn ri, không nơ, không cà
vạt. Tiệc cưới là một mâm hoa quả,
một mâm xôi gấc, xôi đậu xanh, một
rổ bún tươi, một chậu rau sống, một mâm
thịt heo xắt lát, một đầu heo, một
chồng bánh tráng sống, một chồng bánh tráng nướng,
một tô mắm nêm rắc mè, một can nhựa hai mươi
lít rượu đế, và một tô ớt tươi
đỏ ối… Ờ Biển Hồ, có những đám cưới
giản dị nhứt trần gian… Thuở đó, tôi c̣n độc thân, vậy mà
cũng dám hai lần, đứng ra làm chủ hôn cho hai
đứa đàn em, là chú Hạ sĩ Nguyễn Phượng
Hoàng và chú Binh 1 Phạm Công Cường. Có lẽ tôi cũng mát tay. Nhờ có tôi làm
chủ hôn, mà hai gia đ́nh này cứ “đầu
năm sinh con giai, cuối năm sinh con gái” đều
đều … chạy gạo bắt khờ luôn! Năm tháng trôi qua, khẩu đại liên
của hai ông Sanh luôn luôn là linh hồn của đại
đội qua các cuộc hành quân. Sau Tết Mậu-Thân ít lâu, khẩu đại
liên 30 bị thu hồi. Hai ông Sanh được trang
bị một khẩu M60 nhẹ nhàng hơn. “Con
gà cồ” này lúc nào cũng đi bên tôi,
để tôi có thể dễ dàng ban khẩu lệnh
cho nó. Trong lần đại đội tôi dừng quân
ở Đức-Trọng, khẩu đội đại liên
này được mang cái tên “Thu B́nh 1”, Thu B́nh là
tên cô cháu gái của ông chủ một xưởng
cưa, nơi chúng tôi tá túc trong thời gian dài hành quân
tăng phái cho Task Force South. o O o Cuối năm Mậu Thân, tháng 2 năm 1969, Thiếu
úy Đặng Hữu Duyên thuyên chuyển về giữ
chức Trưởng Ban 4 của liên đoàn, Thiếu
úy Trần Dân Chủ được đề
cử làm tân đại đội phó. Sau chiến dịch Chư Pa, nhân dịp
đơn vị ghé hậu cứ dưỡng quân, tôi
xin Trung tá liên đoàn trưởng cho tôi năm ngày phép
bằng Sự Vụ Lệnh để về Hội-An
thăm mẹ. Tôi măn phép, trở về th́ đại đội
tôi đă hụt mất hai người v́ Trung sĩ
nhứt Tánh, Hạ sĩ quan thường vụ
đại đội, đă bị Hạ sĩ Lưu
Sanh bắn chết, sau một vụ căi lộn. Lưu
Sanh lănh án, đi tù. Không c̣n Lưu Sanh, Ngô Sanh trở nên u sầu
ủ dột. Anh xin tôi cho anh về làm khinh binh dưới
quyền Thiếu úy Vy Trung đội 1. Trong trận Chư Pa, người mang đồ
ngủ, lều vơng cho tôi là Binh nhứt Trung đă
bị thương nặng phải giải ngũ, tôi bèn
giữ Ngô Sanh ở ban chỉ huy đại đội
làm công việc của Binh nhứt Trung. Từ khi về ban chỉ huy đại đội,
nhận việc lều vơng cho tôi, h́nh như Ngô Sanh không
được vui. Nó thường luẩn quẩn, loanh
quanh bên khẩu súng đại liên M60 của Hạ sĩ
Trần Đợi. Trần Đợi là người thay
thế Lưu Sanh, chỉ huy một trong hai khẩu súng
chủ lực của đơn vị. Khi rảnh rỗi, Ngô Sanh hay ră khẩu M60 ra thành
nhiều mảnh, ngâm các bộ phận trong một thau
dầu, rồi chùi khô, thoa nhớt, khẩu súng bóng loáng
như vừa xuất kho. Có một lần Ngô Sanh tŕnh diện tôi; nó găi
đầu, găi tai, lí nhí câu ǵ đó tôi nghe không rơ. Tôi
bực ḿnh nên to tiếng, –
Nói lí nhí trong miệng! Nghe không được th́ ai
biết mi muốn cái ǵ! Muốn chi th́ gặp Thượng
sĩ Thống thường vụ, nói với ông
ấy, ông ấy giải quyết cho! Thấy tôi có vẻ bực ḿnh, Ngô Sanh bỗng
cuống quưt, vừa run, vừa lắp bắp, –
Dạ! Không có chi! Không có chi Thái Sơn! Sau đó, nó găi đầu rồi lủi đi. Mấy giờ sau Thượng sĩ Thống
vừa cười, vừa nói với tôi, -Thằng
Sanh muốn xin Trung úy cho nó ra tải đạn cho
thằng Đợi. Nó sợ Trung úy la nên cứ ấp a
ấp úng không dám nói. Nó nhờ tôi giúp nó, xin với
Trung úy cho nó đi! – Ừ! Hôm nào ông
kiếm coi có đứa nào thay nó, rồi cho nó ra
với thằng Đợi. Rồi ông Thống cười tủm tỉm, – Trung úy có biết
tại sao thằng Sanh mê khẩu súng đại liên không? –
Ai mà biết? –
Nó mê súng đại liên chỉ v́ tên con vợ nó là
“Đại Liên” đó Trung úy ơi! –
????? Tiếp đó ông Thống giải thích, –
Bố vợ nó cùng thời với tôi. Ông ấy có ba
đứa con gái đặt tên là Hoàng Thị Đại
Liên, Hoàng Thị Trung Liên và Hoàng Thị Tiểu Liên.
Vợ nó là chị lớn trong nhà, tên Đại Liên. Sau
khi bố vợ nó bị thương và giải ngũ
th́ đưa gia đ́nh về Qui Nhơn, đem theo hai
con Trung Liên và Tiểu Liên. Nay chỉ c̣n ḿnh con Đại
Liên ở Biển Hồ. Nghe hết chuyện, tôi cũng bật cười, – À ra thế! o O o Sáng
Mồng Năm Tết năm Kỷ Dậu,1969, Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân làm lễ
xuất quân. Nghe đâu người vẽ phóng đồ hành
quân của Pḥng 3 Quân đoàn đă vẽ cho chúng tôi
đi về hướng Tây Pleiku v́ lịch chỉ hướng
chính Tây là hướng Cát Thần. Mục tiêu của Đại đội 1/11 là
một buôn Thượng tên là Plei Blo O’dung 3 bỏ
hoang, cách Đồi 37 Pháo Binh, Pleiku chừng bốn cây
số. Tôi đă dùng con lộ chính để làm
trục tiến quân. Mười giờ sáng, chúng tôi
tới mục tiêu, vô sự. Tới trưa, cơm nước xong, có lệnh
cho chúng tôi thu quân rút ra làng Plei Blang 3 để lên xe
về hậu cứ. Khi đi hành quân, tôi là một người
rất cẩn trọng. Sợ bị địch
phục kích, tôi cho đơn vị rút ra điểm
tập trung bằng con đường khác. Chúng tôi đi theo đội h́nh hàng dọc hai bên
đường. Chỉ nửa giờ sau tôi đă nh́n
thấy làng Plei Blang 3 bên kia một thung lũng đầy
cỏ dại, chạy dọc theo Tỉnh lộ
509. Nơi đây chỉ c̣n cách làng Plei Blang 3
chừng hai cây số. Bất th́nh ĺnh“Choác!
Choác!” súng nổ ran! Súng bắn từ hướng
trước mặt, từ bụi cây ở giữa ḷng
đường! Nơi này con đường
chẻ làm hai, ở giữa đường có một
cụm rừng như ḥn đảo nhỏ. V́ địch nằm ở giữa, nên quân đi
bên phải sợ bắn nhầm quân đi bên trái, quân
đi bên trái lại sợ bắn nhầm quân đi bên
phải, chúng tôi lâm vào thế vô cùng lúng túng! Đă có vài người đi trước mặt tôi
bị trúng đạn rồi. Trong số này h́nh như
Trung sĩ 1 Nguyễn Khôi, trung đội phó Trung
đội 2 bị địch bắn vỡ đầu. Tôi cùng hai cố vấn Hoa Kỳ đi với
hai anh lính truyền tin và một anh lính hộ tống
bị kẹt giữa hai lằn đạn phải
vội vàng nằm sát mặt lộ tránh đạn. Tôi
la to: “Một
nằm xuống! Hai bắn về bên phải! Xung phong bên
phải!” Lập
tức mọi người hô theo: “Một
nằm xuống! Hai xung phong bên phải!” Cũng
may v́ đă có nhiều lần quen tập luyện “Phản
ứng cấp thời” nên vừa nghe tiếng
la của tôi, các trung đội đă phản ứng
rất nhanh và ăn khớp. Ông
Chuẩn úy Đàm Quang Hạ Long, Khóa 27
Thủ Đức, trung đội trưởng Trung đội
2, là một tân sĩ quan của đơn vị này
nhưng cũng tỏ ra là một tay “Can
trường khí phách” Chuẩn
úy Hạ Long một tay ôm khẩu M 16, tay kia giơ
cao khoát lia lịa, miệng la oang oang: “Xung
phong! Xung phong bên này!’’ Sáu
tên Việt-Cộng nằm trong bụi th́ bốn tên
bị giết, c̣n lại hai tên đă nhanh chân thoát
chạy về bên kia đường rồi biến
mất trong bụi rậm. Bên
kia băi đất trống là rừng cỏ tranh cây
thấp. Băi đất trống này là một nương
rẫy cũ, nằm song song với con đường
xe be. Cái
nương này có chiều dài cỡ hai trăm mét,
chiều ngang chừng một trăm mét. Tôi
lồm cồm ngồi dậy, anh Trung
úy Mỹ cũng lồm cồm ngồi dậy.
Anh ta là một Trung úy Pháo Binh Hoa-Kỳ, có nhiệm
vụ làm tiền sát viên yểm trợ hỏa lực
cho đại đội tôi. Tôi
được thông báo rằng, đơn vị Pháo
Binh Hoa-Kỳ yểm trợ hỏa lực cho tôi hôm
đó là một pháo đội 105 ly dă chiến, nhưng
tôi không rơ súng đặt ở đâu. Anh
sĩ quan Mỹ đánh rơi cặp kính cận, hai tay
anh ta đang quờ quạng trên mặt đường
để t́m cặp kính. Trung
đội 1 nằm bên phải con đường lúc này
vừa chuyển thành đội ngũ hàng ngang. Họ
cố bắn với theo hướng hai thằng địch
vừa thoát chạy. Bất
ngờ từ bên kia trảng trống, những tràng súng
liên thanh tới tấp bắn sang. Chúng
tôi lại vội nằm sát mặt lộ để tránh. V́
xe be chạy qua chạy lại nhiều năm, nên
mặt con lộ bị lún xuống thấp hơn
lề đường chừng ba tấc, do đó mà b́a
đường trở thành bờ đất ngăn
đạn, giúp đơn vị tôi không bị
thiệt hại. Thấy
hỏa lực địch quá dữ dội, tôi không dám
cho quân xung phong. V́ xung phong qua vạt ruộng trống
trải này dưới những làn đạn đại
liên th́ chẳng khác ǵ tự sát. Kỳ
lạ một điều là, hỏa lực súng cộng
đồng của Việt-Cộng rất hùng hậu,
nhưng h́nh như địch không có ư nghênh chiến.
Chúng chỉ bắn thị uy chừng mười phút
rồi im. Lợi
dụng thời gian tiếng súng vừa ngừng, tôi
chuyển toàn quân về bố trí nơi hướng Đông trảng
trống. Ở
vị trí này, nếu thấy địch mạnh quá, không
đương cự nổi, tôi c̣n đường
chạy thẳng ra làng Plei Blang 3. (c̣n tiếp)
|