Người
Hispanic trong Nội Chiến
Sean Bảo |
Cũng như người
da đỏ bản xứ, cuộc Nội Chiến
Mỹ đă cuốn theo hàng chục ngàn người
Hispanic. Mang ḍng máu tổ tiên nói tiếng Tây Ban Nha, sinh
sống ở Mỹ từ xưa khi người Tây Ban
Nha đi khám phá miền Tân Thế Giới, họ
ở đó trong thời California, Texas và New Mexico
thuộc Mễ Tây Cơ (thuộc địa của Tây
Ban Nha) và ở bờ Đông Nam như Florida, Louisiana, S.
Carolina. Ba nhóm cộng đồng Hispanic lớn nhất
là từ Mexico, Puerto Rico và Cuba đă đóng góp hơn
3,500 người cho cuộc chiến ở cả hai phe.
Đô
đốc David G. Farragut, 1863 Trong khi vết thương từ
cuộc chiến Mỹ-Mễ 1846-1848 c̣n chưa liền
da, th́ người Mễ tại Mỹ đă chứng
kiến và lúng túng chọn chỗ đứng sống c̣n
trong cuộc Nội Chiến. Thoạt đầu
những người Tejanos (người Mễ sống
tại Texas) cố gắng trung lập và tránh bị lôi
cuốn vào bất cứ phe nào. Trong mắt người
Mỹ trắng, người Mễ c̣n chứa hận thù
và không đáng tin cậy. Để tránh bị cưỡng
bức nhập ngũ, họ khai là công dân Mễ. Và
thực sự họ là người Mễ. Thế nhưng
dưới sức ép của chiến tranh, phần
lớn người Mễ ở California, New Mexico đă
gia nhập Union, trong khi ở Texas họ lại theo
Confederate. Khi California theo Union, Confederate cố
gắng kiểm soát và lôi kéo New Mexico về phe ḿnh, các
mỏ vàng bạc và vị trí chiến lược
bờ Tây là mục tiêu cho Confederate. Các trận tấn
công vào Arizona, Tucson đầu năm 1862 đă dành
miền đất cho phe Confederate, tương tự như
các nơi khác, người Hispanic phải theo Confederate,
cũng để được bảo vệ trước
các cuộc đánh phá của người da đỏ
Apache.
Mô h́nh trận chiến cuối cùng của
Nội Chiến ở Palmito Ranch, Texas
Mexico đă
cấm buôn bán nô lệ năm 1829, vài năm sau th́
Mễ Tây Cơ giành độc lập từ Tây Ban Nha.
Họ sống nghèo khổ và theo Union v́ ủng hộ
chính sách băi nô, lương lính 13 đô la mỗi tháng
lại đầy hứa hẹn. Ở phía Nam Texas trước
đó đă có những con đường bí mật giúp
các nô lệ da đen bỏ trốn và chạy thoát sang
Mễ. Họ cầm súng theo Union v́ tiểu bang California
lúc ấy lại gia nhập liên bang. Chiến đấu
ở đó họ sẽ gần được quê nhà,
người thân. Tháng 3, 1862 Trung tá Manuel Chávez đă
dẫn liên quân tấn công một đoàn tàu chở quân
nhu trên đèo Glorieta, giành chiến thắng cho Union và
đẩy lực lượng Confederate ra khỏi New
Mexico. Chiến thắng này được xem là Gettysburg
ở Miền Tây. Chuẩn tướng Stephen Vincent Benet,
sinh ở St. Augustin, tốt nghiệp trường vơ
bị West Point tham gia Union làm rạng danh người lính
gốc Tây Ban Nha trong Nội Chiến. Nổi bật
nhất là Đô đốc Hải quân Union David G. Farragut
(1801-1870) với các chiến thắng ở New Orleans,
nhất là trong trận thủy chiến ở Mobile Bay,
Alabama. Ông đă gan dạ ra lệnh: “Kệ mẹ
thủy lôi, phóng hết ga!”(Damn the torpedoes. Full steam
ahead.) Ở miền Bắc Philadelphia, New York và Boston, cũng
có nhiều người Hispanic nguồn gốc từ
Spain, Portugal, Cuba, Puerto Rico và Mexico theo Union. Trong khi
ở phía Nam và bờ Đông như Texas, Alabama, Mississippi,
Louisiana và Florida th́ có nhiều người
Hispanic gắn bó với đồn điền, buôn
bán bông g̣n và nô lệ. Tất nhiên
là họ ủng hộ Confederate. Ở Louisiana, 800
người Hispanic đă gia nhập lữ đoàn
gồm nhiều lính Nam Mỹ gốc Latin khét tiếng
gọi là Cọp Louisiana, cùng sát cánh
với tướng Lee
tham gia các trận đánh kinh hoàng ở Antietam và
Gettysburg. Không chỉ tham gia quân đội, những người
dân như Lola Sánchez, gốc Cuba sống ở Florida, cha
bị Union truy tố là gián điệp của
Confederate, Lola trở thành nữ t́nh báo khi quân Union
chiếm cứ nhà của ḿnh ở Florida, Lola đă
nghe lén và mật báo các kế hoạch hành quân của
Union cho Confederate và bao vây tấn công trước.
Poster tuyển mộ nhập ngũ
Điền
chủ Santos Benavides ở Laredo trở thành đại tá
tiểu đoàn 33 Kỵ binh Texas, Confederate, nhiệt t́nh
tham gia cuộc chiến và truy đuổi t́m bắt các
nô lệ ở tận Mexico về lại Mỹ
để lănh thưởng. Những người Mễ
theo Confederate tham chiến đến nơi xa như
Virginia và Pennsylvania. Dù họ thiếu trang bị vũ
khí, thiếu thực phẩm và phải hành quân đi
bộ suốt miền đất rộng phía Nam Texas, nhưng
họ chưa bao giờ thua trận (thực sự th́ các
trận chiến lớn trong Nội Chiến xảy ra
ở phía Bắc và Đông). Khi quân Union thiết lập ṿng
vây vĩ đại bao trùm từ Canada, bờ biển
Đại Tây Dương đến Vịnh Mễ Tây Cơ.
Con đường sông Mississippi
huyết mạch lại bị Union kiểm soát, cắt
đôi phe miền Nam làm hai, th́ các trận chiến
ở các cảng và thành phố biên giới như New
Orleans, Laredo, Brownsville và sông Río Grande mới trở nên
quyết liệt. Khi
tướng Lee chấp nhận đầu hàng vào tháng
4 năm 1865, tin tức lan
xa. Thế nhưng ở những nơi xa xôi như Texas
và trên biển cả th́ cuộc chiến vẫn chưa
chấm dứt. Ngày 12 tháng 5, 1865 cả hai phe dàn
trận gần trang trại Palmito ở Brownsville, thành
phố biên giới Mỹ-Mễ. Ngày đầu tiên phe
Union tấn công và chiến thắng, nhưng sang ngày
thứ 2 th́ gặp sự phản công và tiếp
viện của một đội lính
Pháp đang chiếm đóng ở Matamoros trên đất
Mexico. Binh nh́ John J. Williams của tiểu đoàn
bộ binh 34th Indiana là nạn nhân cuối cùng trong
số 620,000 binh sĩ Mỹ chết trong cuộc Nội
Chiến. (Khi nước Mỹ đang hỗn chiến
th́ quân đội lính Pháp, Anh và Tây Ban Nha đến
Veracruz, Mexico để đ̣i nợ Tổng thống Mễ Benito Juárez. Khi Anh và Tây Ban
Nha rút về th́ Pháp đă thầm lặng ở
lại và can thiệp vào Mexico lần thứ nh́. Pháp
đưa quân lên đánh tận biên giới Mỹ –
Mễ.) Và trận chiến ở Palmito, cực Nam Texas
được xem là trận chiến cuối cùng
của Nội Chiến Bắc Nam. Trận
thắng của Confederate.
Nhà tưởng niệm trận đánh ở
Glorieta tại New Mexico Với
Tu Chánh Án 13 sau Nội Chiến, những người nô
lệ da đen hưởng quyền lợi và công lư.
Nước Mỹ sau Nội
Chiến là biểu tượng của tự do và dân
chủ trên thế giới. Các nô lệ da đen
ở Cuba cũng giành được tự do. Jose Marti
chỉ có 12 tuổi khi Lincoln bị ám sát, sau đó làm
lănh tụ đấu tranh cho Cuba giành độc lập
từ Tây Ban Nha, cũng ngưỡng mộ Lincoln và luôn
đeo băng vải đen nơi cánh tay. Nhưng
thời kỳ tái thiết đất nước sau
Nội Chiến lại c̣n lắm lao đao cho các
Hispanic. Do c̣n hận v́ thua trận, các tiểu bang
miền Nam cố giành quyền tự quyết và
cải tổ riêng. Luật Jim Crow
trong giai đoạn từ năm 1877 đến giữa
thập niên 60 của thế kỷ trước vẫn
nặng kỳ thị lên các người da đen trong các
sinh hoạt công cộng, trường học… ảnh hưởng
luôn cả người da nâu Hispanic. Điển h́nh là
vụ Thượng sĩ Marcario García, người
Mễ đầu tiên được Tổng
thống Truman gắn Huy chương Danh dự trong
thế chiến 2 ở Ṭa Bạch Ốc năm 1945,
một tháng sau khi trở về quê quán Houston, ông
bị từ chối phục vụ ở quán cà phê
Oasis. Và ngay cả bị chủ quán đánh đuổi
bằng gậy… Nền kinh
tế khó khăn sau Nội Chiến và sự kỳ
thị cùng cạnh tranh thương mại, làm phần
đông những người Hispanic không kỹ năng và
học vấn phải làm lao động trên các
đường rầy xe lửa, cánh đồng nông
trại, các công việc nặng nhọc với đồng
lương thấp. Gần 60 ngàn
cuốn sách viết về Nội Chiến trong khi
chỉ có vài ḍng nói về sự đóng góp của người
Hispanic trong Nội Chiến. Thiếu vắng những tượng
đài vinh danh họ. Các địa danh lịch sử
về người Hispanic trong Nội Chiến cũng
điêu tàn. Thực
sự th́ vào thời điểm Nội Chiến năm
1860 di dân nước ngoài chiếm đến 13% dân
số nước Mỹ. 1/4 số
quân Union là di dân, phần lớn là người Đức,
Ireland… Những người Hispanic nhất là
cộng đồng người Mễ ở tiểu bang
phía Nam như New Mexico và Texas phần đông tham gia
Confederate – Phe thua trận. Con số binh lính Hispanic tham
gia Nội Chiến chừng như nhỏ nhoi mờ
nhạt trong sử sách. Và phải chăng như Thủ
tướng Anh Winston Churchill nói: Lịch sử
được viết bởi kẻ chiến thắng? SB Austin, TX |