Thầy Đào Điệp Mỹ Linh |
Thành
Kính Tưởng Niệm Giáo
sư Anh văn LÊ VĂN ĐÀO Thành
Viên Cuối Cùng của Hội Mỹ Thuật Nha Trang Giáo sư
Lê Văn Đào (bên phải) ĐIỆP
MỸ LINH Như mọi buổi sáng, qua khung cửa sổ trên
lầu, tôi âm thầm nh́n những sinh hoạt hằng
ngày của nhiều người láng giềng thầm
lặng, nơi hai góc đường của một khu
vực dân cư rất yên tĩnh. Bất ngờ, điện
thoại reng. Tôi nhận ra giọng của chị Phương
Nga – cháu gọi giáo sư Lê Văn Đào bằng
cậu – từ Canada. Từ ngày thính giác của thầy Đào không c̣n như
trước, tôi không điện thoại thăm
Thầy nữa mà tôi lại gọi chị Phương
Nga để hỏi thăm sức khỏe của
Thầy; v́ thầy Đào là bạn rất thân với
Ba tôi – cụ Điệp Linh Nguyễn Văn Ngữ
– và thầy Đào cũng là giáo sư Anh văn
của tôi những năm tôi học đệ nhất
cấp tại trường Vơ Tánh. Tại sao hôm nay chị Phương Nga lại bất
ngờ gọi tôi? Linh tính cho biết có điều không
lành, tôi vội nói: -Chị ơi! Chị đừng nói với em là
thầy Đào “đi” rồi, nha chị! -Cậu “đi” rồi, em! Chị gọi, tin cho em
biết đó! Dù không ngạc nhiên, v́ thầy Đào đă ngoài 100
tuổi, tôi cũng cảm thấy như hụt
hẩng rồi nước mắt tuôn dài trên g̣ má nhăn
nheo của tôi – không khác chi ngày tôi được tin
Ba tôi qua đời! Thầy Đào và Ba tôi đều là thành viên của
Hội Mỹ Thuật Nha Trang. Theo lời kể của Ba tôi, lúc Cụ c̣n sinh
thời, tôi được biết, Hội Mỹ
Thuật Nha Trang được thành lập vào thập
niên 40. Theo đây, tôi xin trích một đoạn trong
truyện ngắn Cây Đàn của Thầy Dưỡng
– trong tập truyện Tưởng Như Trở
Về của Điệp Mỹ Linh – để quư
độc giả có thể biết phần nào về
một tổ chức vô vị lợi, nhưng tinh
thần yêu nước rất cao của nhóm người
trẻ cùng thời đại với thầy Lê Văn
Đào và Ba tôi: “…Thời
kỳ đó, trước những biến động
của Quê Hương, trước nạn đói
thảm khốc – năm Ất Dậu, 1945 – do
Nhật gây ra cho đồng bào miền Bắc, Dưỡng,
Đào, Ngữ, Lộc, Chại, Gia và Thông cùng
nhiều công, tư chức, thương gia, học sinh
tham gia công tác cứu trợ và cứu nước
với tất cả nhiệt huyết và hoài bảo
của thanh niên lúc bấy giờ. Nhận
thấy Dưỡng, Ngữ, Đào, Thông, Gia, Lộc,
Chại và nhiều thanh niên khác là một tập
hợp của những người trẻ có khả năng
về nhiều bộ môn văn học nghệ
thuật, bác sĩ Lê Khắc Quyến kêu gọi thành
lập Hội Mỹ Thuật Nha Trang. Dưới
sự d́u dắt của bác sĩ Lê Khắc Quyến,
Hội Mỹ Thuật Nha Trang, ngoài mục đích
cứu đói miền Bắc, c̣n chủ tâm khích động
ḷng yêu nước bằng cách viết hoặc phóng tác
và tŕnh diễn, tại rạp xi-nê Cô Hai (sau này đổi
tên là rạp xi-nê Tân Tiến) những vở kịch
như Lửa Cách Mạng – phỏng theo Les Misérables của
Victor Hugo – Hồn thiêng Sông Núi, kịch thơ Phi Khanh
Nguyễn Trăi, v.v… Ngoài
một ban kịch có tầm vóc và các nhóm phụ trách
mỗi bộ môn khác nhau như vẽ phông, trang trí sân
khấu, quảng cáo, v.v…Hội Mỹ Thuật Nha Trang
c̣n được nguyên “băng” của Dưỡng
thành lập ban đàn giây, chứ không đủ tiêu
chuẩn để thành lập một dàn nhạc –
orchestra – tối thiểu. Ban đàn giây gồm có: -
Ông Trần Tân Thông, công chức, đàn Accordéon
Diatonique. -
Ông Lê Văn Đào, giáo sư Anh văn, đàn Violon. -
Ông Nguyễn Hữu Dưỡng, giáo sư Toán Lư Hóa, đàn
Violon. -
Ông Hùng Lân, công chức – không phải nhạc sĩ Hùng
Lân, tác giả hùng ca Việt Nam Minh Châu, sau này – đàn
Guitar Hawaiian. -
Ông Huấn, học sinh, đàn Acoustic Guitar. -
Ông Trần Bá Lộc, thổi Flute. -
Ông Đức, tư chức, đàn Acoustic Guitar. -
Ông Khương, thương gia, đàn Banjo
Soprano. - Ông Chại,
đàn Banjo Alto. - Ông Phạm Ngọc Gia
– về sau trở thành Đại Tá Bộ Binh Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) – viết, phóng tác
hoặc tập cho thành viên đóng kịch. -
Ông
Nguyễn
Văn Ngữ, bút hiệu Điệp Linh, giáo sư Pháp
văn, có khả năng xử dụng nhiều nhạc
cụ khác nhau; được chỉ định – ngoài
việc viết ḥa âm và phân đoạn bản
nhạc để nhạc công độc tấu hay ḥa
tấu – phải đóng vai trừ bị để
thay thế bất cứ nhạc công nào trong trường
hợp cần thiết. Thời
điểm đó chưa có “micro”. Nhạc
cụ hầu hết là nội hóa, không thể lên
đúng âm thanh biểu (diapason) cho nên ông Ngữ
phải chép lên một bậc âm thanh so với Accordéon; đó
cũng là lư do ban nhạc ít khi ḥa tấu nhiều bè
– partie son croisement – v́ muốn âm thanh của tất
cả nhạc cụ đều tập trung vào bè chính
để khán giả có thể nghe được. Ngoài
những nhạc khúc thời danh như Ải Chi Lăng,
Ḍng Sông Hát, Chùa Hương, ban nhạc cũng hợp
tấu Bến Đ̣ Xưa, Lửa Thiêng, Đường
Đi Quan Ải, Chiến Sĩ Phương Nam của
Trần Tân Thông và Con Thuyền Trên Sóng của Trần
Bá Lộc cùng một số nhạc ngoại quốc như Goodbye
Hawaii của Tony Rossy, Shina No Yoru của
Kyu Sakamoto, v.v…(hết trích) Trong
các thành viên của Hội Mỹ Thuật Nha Trang tôi
chỉ được gặp và nhớ tên vài vị: -
Bác Nguyễn Hữu Dưỡng – giáo sư Toán
của tôi trong mùa Hè, tại các tư thục – v́ tôi
có ư định theo ban Toán khi lên đệ nhị
cấp, cho nên phải học thêm toán vào mùa Hè tại
trường tư. -
Bác Trần Tân Thông – em ruột của bà chủ
tiệm sách Kim Anh, đầu đường Độc
Lập; nơi tôi thường đến mua sách và
bản nhạc. Bác Thông chết trong thời gian cùng
với Ba tôi đi kháng chiến chống Tây. -Bác
Chại là chủ tiệm vàng Mỹ Kim và khách sạn
Mỹ Kim. -Bác
Lê Văn Đào là giáo sư Anh văn. Nhà
của bác Đào ở Phú Vinh. Nhà Ba Má tôi trên
đường Yersin; do đó, thuận đường,
bác Đào thường ghé nhà thăm Ba tôi. Năm
lên đệ Tam, tôi chọn ban Anh văn. Ba tôi im
lặng. Giáo sư Anh văn của tôi thời điểm
đó là thầy Nguyễn Bá Tiết. Khi bác Đào ghé
thăm, tôi bưng nước lên mời Bác th́ Ba tôi
chỉ vào tôi rồi hỏi Bác Đào: -Đào!
Nó chọn Anh văn. “Toi” thấy “Cha làm thầy,
con đốt sách”, đúng không? Tôi
ngẩn người, không ngờ Ba tôi phật ư về
việc tôi không chọn Pháp văn là sinh ngữ chính.
Bác Đào đáp: -Kệ
nó! T́nh h́nh này th́ Mỹ sẽ đến Việt Nam.
Nó chọn Anh văn là đúng. Năm
1998, Minh – Bố của các con tôi – và tôi về
Việt Nam. Từ Nha Trang, chúng tôi đón xích lô lên Phú
Vinh thăm thầy Đào. Sau đây là phần trích
dẫn trong bài T́m Vết Chân Xưa của Điệp
Mỹ Linh, viết về lần hội ngộ sau cùng
với thầy Đào: “…Nh́n
ngôi nhà thầy Lê bị đập sập hết
một phần ba, Bảo-Trân phân vân, không biết
đúng nhà hay không. Giữa lúc đó, từ phía nhà
sau, một người đàn ông đứng tuổi bước
ra sân, khom xuống sắp mớ rui mè lại cho ngay
ngắn. Nhận ra thầy Lê, nhờ vầng trán
rộng và cao của Thầy, Bảo-Trân bước
nhanh đến: -Dạ,
thưa Thầy. Quá
bất ngờ, thầy Lê đứng thẳng lên, nh́n
Bảo-Trân không chớp mắt. Bảo-Trân cười,
tiếp: -Thầy
không nhận ra con sao, thưa Thầy? Thầy
Lê đưa ngón tay trỏ gơ gơ lên vầng trán
rộng: -Nhận
ra chứ, nhưng không nhớ tên. Chỉ
một thoáng thôi, Thầy cười, tiếp: -Con
“thằng” Ngữ, phải không? Ngày
xưa, trong trường và những nơi khác –
nếu gặp thầy Lê – Bảo Trân gọi thầy
Lê bằng Thầy. Nhưng mỗi khi thầy Lê đến
nhà thăm ông Ngữ, Bảo-Trân bưng nước
mời th́ Bảo-Trân gọi thầy Lê bằng Bác. Bây
giờ nghe thầy Lê nhắc đến ông Ngữ
một cách tŕu mến, Bảo-Trân trở lại cách xưng
hô như trong gia đ́nh: -Dạ,
con cảm ơn Bác. Bác vẫn c̣n nhớ Ba con. Con tên là
Bảo-Trân. -Đúng
rồi! Vô đây, con! -Thưa
Bác, tại sao nhà Bác và nhà hai bên đường
bị đập phá vậy, Bác? -Nhà
cầm quyền đập phá để làm đường.
May mà con và Minh thoát được! Thôi, đừng nói
về “họ” nữa, Bác “ngán” thấu cổ
rồi! Đó
là lư do suốt cuộc viếng thăm, thầy Lê và
Bảo-Trân chỉ nhắc lại những ngày gia đ́nh
ông Ngữ mới hồi cư sau khi ông Ngữ ly khai
Việt Minh; những người bạn của Thầy
và của ông Ngữ mà Bảo-Trân biết, như chú
Phạm Ngọc Gia – sang Mỹ theo diện HO – và
thầy Dưỡng. Thầy Dưỡng đă chết
trong trại tù Nghĩa-Phú. Giọng Bảo-Trân bùi ngùi: -Để
tưởng nhớ Bác Dưỡng, tụi con đă
đi ngang nhà Bác, trên đường Hoàng-Tử-Cảnh. -Nay
đổi là đường Hoàng-Văn-Thụ...”
(hết trích) Đang
hàn huyên, thầy Đào chợt nhớ: -Ô,
có cái này hay lắm, để Bác cho con xem. Chờ chút. Nói
xong Thầy đi vào trong. Vợ của Thầy góp
chuyện: -Chắc
Thầy đi lấy cuốn Lướt Sóng… Cô
chưa dứt lời, thầy Đào trở ra pḥng khách,
cầm theo đặc san Lướt Sóng của Hội
Hải Quân.V.N.C.H. tại San Jose. Tôi ngạc nhiên: -Làm
thế nào Bác có được cuốn này? -Bà
chị của Bác ở Canada về thăm, đem theo
cho Bác; v́ trong này có bài của Điệp Mỹ Linh
đề cập đến Hội Mỹ Thuật Nha
Trang, có tên Bác. Bác chỉ biết “thằng” Ngữ
hồi đó viết báo, bút hiệu Điệp Linh; c̣n
Điệp Mỹ Linh là ai, Bác không biết. -Dạ,
Bác nhớ, năm xưa, có lần Ba con than với Bác
hay không, thưa Bác? -Than
cái ǵ? Bác không nhớ. -Dạ,
hồi đó – khi con chọn Anh văn là sinh ngữ chính
– Ba con than với Bác là “Cha làm thầy, con đốt
sách”. Nhưng, sau đó Ba con dạy con viết văn. -Vậy
th́ bây giờ “Cha nào con nấy”. Được
đó, con! C̣n đàn th́ sao, con vẫn chơi chứ? -Dạ,
bên đó thời gian eo hẹp lắm mà anh Minh lại
không thích con đàn cho nên con không đàn nữa. Im
lặng. Minh nghiêm nét mặt, nh́n tôi. Tôi chuyển
đề tài: -Thưa
Bác, con thấy, tại phi trường Tân Sơn
Nhất họ kiểm soát gắc gao lắm mà làm
thế nào cuốn Lướt Sóng có thể “thoát”
được? -Cho
họ vài đô la là xong, con à! -Dạ,
Bác có bị đi “cải tạo” hay không, thưa Bác? -Không.
“Thằng” Ngữ và thằng ǵ em kế của con
đó, có bị đi tù hay không? -Dạ,
em con tên Linh. Linh và mấy đứa em trai kế đều
bị tù, nhưng khác trại. Riêng Ba của con th́
bị vô trại tù Nghĩa Phú; gặp Bác Dưỡng
trong đó. Sau bốn năm, Ba con được tha; Bác
Dưỡng vẫn c̣n bị giam. -“Thằng”
Ngữ th́ Bác hiểu; v́ “nó” là trưởng Ty
Nội An thị xă Cam Ranh; mấy thằng em của con
th́ sĩ quan; c̣n “thằng” Dưỡng cũng đi
dạy như Bác mà tại sao lại bị tù c̣n lâu hơn
“thằng” Ngữ? -Thưa
Bác, theo Ba con kể – sau khi Ba con ra tù và sang Mỹ –
th́, bác Dưỡng thành lập tổ chức phục
quốc, ngay sau khi cộng sản Việt Nam cưỡng
chiếm miền Nam. Tổ chức phục quốc
bị “bể”. Bác Dưỡng bị bắt. Điều
làm con ăn năn và áy náy măi là lần Ba con trở
lại nhà tù Nghĩa Phú thăm Bác Dưỡng; Bác Dưỡng
nói Ba con xin con $400.00 đô-la cho Bác để Bác mua cây
đàn Violon. Nhưng thời điểm đó (đầu
thập niên 1980) con không thể giúp được; v́
con phải phụ với anh Minh lo cho các cháu và gửi
tiền về Việt Nam giúp Má con nuôi Ba và các em trai
của con trong tù! -Thôi,
chuyện qua rồi, v́ hoàn cảnh con không thể giúp
được “thằng” Dưỡng th́ đành
chịu, đừng áy náy. Bác nghĩ “thằng” Dưỡng
chắc không trách con đâu. C̣n chuyện “thằng”
Dưỡng thành lập nhóm phục quốc th́ Bác không
ngạc nhiên; bởi v́ tất cả thành viên trong
Hội Mỹ Thuật Nha Trang đều mang hoài bảo
lớn cho Quê Hương và dân tộc Việt Nam. Nhưng,
thế hệ chúng ta thất bại th́ các thế
hệ kế tiếp sẽ thành công. Như Tổng
Thống John F. Kennedy đă
nói sau khi ông ấy được đề cử là
ứng cử viên Tổng Thống: “We are not here to
curse the darkness, but to light the candle that
can guide us thru that darkness to a safe and sane future.” Nhiều
thập niên qua, chưa bao giờ tôi có thể quên
được dáng thầy Đào ngồi nghiêng nghiêng
trên chiếc Vespa, chiếc mũ “phớt” màu cà-phê
sữa cũng đội hơi nghiêng; và nhất là
lần cuối cùng viếng thăm Thầy, nghe Thầy
dẫn một câu rất thâm thúy và đầy ư nghĩa. Thầy
tôi – giáo sư Anh văn Lê Văn Đào, thọ 101
tuổi – đă từ biệt cơi đời vào ngày
20 tháng 11 năm 2020. Dù
Thanksgiving đă qua, ḷng tôi lúc nào cũng biết ơn
sự dấn thân, sự hy sinh và sự dạy bảo
của các thế hệ Ông Cha. Nguyện cầu các
thế hệ tiếp nối sẽ ghi nhớ câu nói
của Tổng Thống Kennedy mà Thầy Lê Văn Đào
– năm 1998 – đă lập lại để dạy tôi. ĐIỆP MỸ LINH https://www.diepmylinh.com/ |