Thomas
Jefferson và Tuyên Ngôn Độc Lập Của Mỹ
Huỳnh Kim Quang |
Tướng Anh Cornwallis đầu hàng sau khi
thất trận Yorktown, Virginia. Mô tả quân đội
Anh (phía bên trái) phất cờ trắng đầu hàng,
Pháp và Mỹ (phía bên phải). Ngày 4 tháng 7 hằng năm là ngày Lễ Độc
Lập của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Tài liệu lịch sử cho thấy, ngày
4 tháng 7 năm 1776, Quốc Hội Hoa Kỳ lúc đó có tên là
Second Continental Congress đă họp tại ṭa nhà
Quốc Hội tại Pennsylvania mà ngày nay gọi là Independence Hall tại thành
phố Philadelphia thuộc tiểu bang Pennsylvania đă công
bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập để chính
thức tuyên bố Hoa Kỳ thoát khỏi chế độ
thuộc địa của Anh Quốc, theo www.en.wikipedia.org. Qua việc công bố Tuyên Ngôn Độc
Lập, 13
tiểu bang tại
Hoa Kỳ tiến tới việc thành lập Hiệp Chúng
Quốc Hoa Kỳ. Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập được kư bởi các
đại diện từ 13 tiểu bang, gồm New
Hampshire, Massachusetts Bay, Rhode Island, Connecticut, New York, New
Jersey, Pennsylvania, Maryland, Delaware, Virginia, North Carolina, South
Carolina, và Georgia. Quốc
Hội đă lập Ủy Ban 5 Người (Committee of
Five) để viết bản Tuyên Ngôn Độc
Lập, gồm John Adams từ Massachusetts, Benjamin Franklin
từ Pennsylvania, Roger Sherman từ Connecticut, Roger Livingston
từ New York, và Thomas Jefferson từ Virginia. Thomas Jefferson
lúc đó 33 tuổi là đại biểu trẻ
nhất. Mặc
dù Jefferson không nói, nhưng John Adams sau đó đă
kể rằng ông đă thuyết phục
Jefferson soạn thảo bởi v́ Jefferson có rất ít
kẻ thù trong Quốc Hội và là nhà văn nổi
tiếng.
Jefferson có 17 ngày để hoàn tất văn bản
của tuyên ngôn và đă viết bản thảo trong
một hay hai ngày. Tại một căn pḥng thuê cách Ṭa
Nhà Quốc Hội không xa, Jefferson đă viết bản
Tuyên Ngôn với rất ít sách bên cạnh để
tham khảo, ngoại trừ bản sao của Tuyên Ngôn
Virginia Về Các Quyền của George Mason và bản
thảo Hiến Pháp Virginia do chính Jefferson viết trước
đó. Quá
tŕnh h́nh thành bản Tuyên Ngôn Độc Độc,
theo www.
ushistory.org,
khởi đầu Nghị Quyết Lee về sự
độc lập đă được thông qua ngày 2 tháng
7 với sự đồng thuận tuyệt đối
không có lá phiếu chống. Sau khi Jefferson soạn
bản thảo, Tuyên Ngôn đă được 4 thành viên
khác trong Ủy Ban 5 Người đọc và góp ư.
Kế đó, văn bản đă được
đưa ra Quốc Hội để thảo luận và
góp ư hoàn chỉnh. Tuyên Ngôn là lời giải thích chính
thức lư do tại sao Quốc Hội đă bỏ
phiếu để tuyên bố độc lập
khỏi Anh Quốc, hơn một năm sau sự bùng
nổ của Chiến Tranh Cách Mạng Mỹ. Thomas
Jefferson
Thomas
Jefferson sinh ngày 13 tháng 4 năm 1743 tại Shadwell trong
Thuộc Địa Virginia. Ông là người con thứ
3 trong gia đ́nh 10 anh em. Ông là thế hệ hậu
duệ của những người di dân Anh. Cha ông,
Peter Jefferson là chủ đồn điền và nhà
khảo sát đă mất khi Jefferson mới 14 tuổi.
Mẹ ông là bà Jane Randolph. Khi cha ông mất, gia tài
được chia cho những người con trai, Thomas
và Randolph. Thomas thừa hưởng 5,000 mẫu tây đất
đai, gồm Đồn Điền Monticello, nằm bên
ngoài thành phố Charlottesville thuộc tiểu bang
Virginia. Ông đă thực sự trở thành toàn
quyền tài sản năm 21 tuổi. Thomas
Jefferson là dân cử, nhà ngoại giao, luật sư,
kiến trúc sư, triết gia, và Tổ Phụ làm
tổng thống Hoa Kỳ thứ 3 từ năm 1801
tới 1809.
Trước đó ông đă là phó tổng thống
từ năm 1797 tới 1801. Là tác giả chính của
bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Jefferson là người
đề xuất nền dân chủ, nhà nước
cộng ḥa, và các quyền của con người, thúc
giục các thuộc địa người Mỹ tách
khỏi thực dân Anh và h́nh thành quốc gia mới. Ông
đă viết nhiều văn bản và đưa ra các
quyết định chính thức ở cấp tiểu
bang và quốc gia. Trong
cuộc Cách Mạng Mỹ, ông đại diện
Virginia trong Quốc Hội Continental Congress, nơi đă
công bố Tuyên Ngôn. Ông soạn luật tự do tôn giáo
khi làm nhà lập pháp Virgina và làm Thống Đốc
thứ 2 của Virgina từ năm 1779 tới 1781. Ông
đă trở thành Đại Sứ Hoa Kỳ tại Pháp
vào tháng 5 năm 1785, và sau đó là ngoại trưởng
đầu tiên của Hoa Kỳ dưới thời
Tổng Thống George Washington từ năm 1790 tới
1793. Jefferson
và James Madison đă thành lập Đảng Dân
Chủ-Cộng Ḥa để đối trọng
với Đảng Liên Minh trong thời gian h́nh thành
Hệ Thống Đảng Đầu Tiên. Cùng với
Madison, ông đă viết Nghị Quyết Kentucky và
Virgina vào năm 1798 và 1799, trong đó t́m cách tăng cường
quyền của các tiểu bang bằng cách vô hiệu hóa
Đạo Luật Alien and Sedition Acts của liên bang. Khi
làm tổng thống, Jefferson theo đuổi các lợi
ích vận chuyển và thương mại chống
lại nhóm cướp biển Barbary và các chính sách thương
mại bành trướng của Anh Quốc.
Đầu năm 1803, Jefferson khuyến khích chính sách
bành trướng của tây phương, tổ chức
việc Mua Louisiana, tăng gấp đôi đất
đai của quốc gia. Để lấy đất
cho người da trắng định cư, Jefferson
bắt đầu một tiến tŕnh gây nhiều tranh
căi của việc dời bộ lạc Da Đỏ
từ lănh thổ mới mua được. Kết
quả các đàm phán ḥa b́nh với Pháp, chính phủ
Jefferson đă giảm quân số. Jefferson đă tái đắc
cử vào năm 1804. Nhiệm kỳ thứ hai của ông
gặp nhiều khó khăn tại quốc nội,
gồm vụ kiện của cựu phó tổng
thống Aaron Burr. Vào năm 1807, nền thương
mại ngoại quốc của Mỹ đă bị sút
giảm khi Jefferson thực thi Luật Cấm Vận
để đáp trả các mối đe dọa của
Anh đối với việc vận chuyển của Hoa
Kỳ. Cùng
năm này, Jefferson đă kư ban hành Luật Cấm
Nhập Cảng Người Nô Lệ. Jefferson
biết nhiều ngôn ngữ. Ông là nhà văn trác
tuyệt và giao du với nhiều người nổi
tiếng. Tác phẩm đầy đủ duy nhất
của ông là cuốn “Notes on the State of Virginia,” [Các
Ghi Chú Về Tiểu Bang Virginia] xuất bản năm
1785, được xem là cuốn sách của người
Mỹ quan trọng nhất được xuất
bản trước năm 1800. Sau
khi về hưu, Jefferson
đă sáng lập Đại Học Virginia vào năm
1819.
Cùng
với Tổng Thống Hoa Kỳ Millard Fillmore người
sáng lập Đại Học Buffalo,
Jefferson là một trong hai tổng thống Hoa Kỳ duy
nhất thành lập đại học. Trong
những giờ phút cuối đời, gia đ́nh và
bằng hữu đă ở bên cạnh Jefferson.
Ông đă qua đời lúc 12 giờ 50 phút trưa ngày
4 tháng 7 năm 1826 ở tuổi 83,
cùng ngày kỷ niệm 50 năm bản Tuyên Ngôn Độc
Lập.
Những lời sau cùng của ông c̣n được ghi
lại là “Không, bác sĩ, không cần ǵ nữa,”
từ chối thuốc trị bệnh từ vị bác
sĩ của ông, nhưng những lời cuối đầy
ư nghĩa thường được trích là “Có
phải hôm nay là Ngày 4?” hay “Hôm nay là Ngày 4.” Khi
John Adams từ trần, lời cuối cùng có nhắc
đến người bạn lâu năm của ông:
“Thomas Jefferson c̣n sống,” dù Adams không biết
rằng Jefferson vừa mới qua đời mấy
tiếng đồng hồ trước đó. Tổng
thống đang ngồi bên cạnh là con trai của
Adams, John Quincy Adams, và ông gọi sự trùng hợp
về cái chết của họ trong ngày kỷ niệm
quốc gia là “những nhận xét có thể nh́n
thấy và có thể rờ được của Thiên
Chúa.” Để
có được độc lập và tự do thoát
khỏi ách đô hộ của thực dân Anh, người
Mỹ đă trả giá bằng cuộc chiến tranh
được gọi là Chiến Tranh Cách Mạng
diễn ra trong khoảng thời gian từ 1775 tới
1783. Cái
giá của nền độc lập
Theo chiều kim đồng hồ: Tướng Anh
Cornwallis đầu hang sau khi thất trận Yortown,
Trận Chiến Trenton, cái chết của Tướng
Warren tại Trận Chiến Burnker Hill, Trận Chiến
Long Island, và Trận Chiến Guilford Court House Chiến tranh giành độc lập của
Mỹ, hay Chiến Tranh Cách Mạng (1775-1783), cũng
được biết là Cánh Mạng Mỹ, phát sinh
từ sự gia tăng căng thẳng giữa các cư
dân của 13 thuộc địa Bắc Mỹ của
Anh Quốc và chính quyền thuộc địa, đại
diện hoàng triều Anh. Các cuộc giao tranh giữa quân
đội Anh và dân quân thuộc địa ở
Lexington và Concord vào tháng 4 năm 1775 đă khởi động
cuộc xung đột vũ trang, và vào mùa hè sau đó,
dân quân đă tiến hành một cuộc chiến toàn
diện để giành độc lập. Nước Pháp
nhảy vào cuộc Cách Mạng Mỹ đứng
về phía những người thuộc địa năm
1778, biến cuộc nội chiến thành cuộc xung
đột quốc tế. Sau khi sự hỗ trợ
của Pháp giúp Quân Đội Lục Địa
buộc Anh đầu hàng tại Yorktown, Virginia, vào năm
1781, người Mỹ đă giành được độc
lập một cách hiệu quả, mặc dù cuộc
chiến đấu đă không chính thức kết thúc
cho đến năm 1783. Chiến Tranh Cách Mạng bắt nguồn từ
sự căng thẳng kéo dài cả thập niên
giữa người dân thuộc địa và chính
quyền thuộc địa Anh. Chiến Tranh Pháp và Ân Độ [lúc đó là
thuộc địa của Anh], hay c̣n gọi là Cuộc
Chiến 7 Năm (1756-1763) đă mang lại nhiều
thuộc địa mới nằm dưới quyền
của vương triều Anh, nhưng cuộc chiến
tốn kém này cũng đă đưa tới việc tăng
thuế mới và bất thường. Chính quyền Anh
đă nỗ lực tăng thu nhập bằng cách đánh
thuế các thuộc địa (nổi bật là
Luật Stamp Act năm 1765, Luật Townshend Acts năm 1767,
và Luật Tea Act năm 1773) làm bùng nổ các cuộc
chống đối tại nhiều thuộc địa. Sự chống đối của thuộc địa
dẫn tới cuộc bạo động năm 1770, khi
binh sĩ Anh đă nổ súng vào đám đông người
thuộc địa, giết chết 5 người đàn
ông trong sự kiện được biết là vụ
thảm sát Boston Massacre. Sau tháng 12 năm 1773, khi ban
nhạc Bostonians mặc đồ như những người
Da Đỏ Mohawk đă lên các tàu Anh và đổ 342
tấn trà xuống Hải Cảng Boston trong thời gian
Boston Tea Party, một Quốc Hội bị phẫn
nộ đă thông qua hàng loạt các dự luật (được
biết như là Intolerable, hay Coercive Acts) được
đặt ra để tái khẳng định quyền
lực đế quốc tại Massachusetts. Phản ứng lại điều đó,
một nhóm các đại diện thuộc địa
(gồm George Washington của Virginia, John và Samuel Adams
của Massachusetts, Patrick Henry của Virginia và John Jay
của New York) đă họp tại Philadelphia vào tháng 9
năm 1774 để giúp tiếng nói cho những bất
b́nh chống vương triều Anh. First Continental
Congress [Hội Nghị Lục Địa Đầu Tiên,
hay Quốc Hội Đầu Tiên] này đă không đi
xa tới mức đ̣i hỏi độc lập
khỏi Anh Quốc, nhưng họ đă lên án việc
tăng thuế mà không có sự đại diện, cũng
như việc duy tŕ quân đội Anh tại các
thuộc địa mà không có sự đồng
thuận. Họ đă đưa ra tuyên ngôn về các
quyền cho mọi công dận, gồm sự sống,
tự do, tài sản, hội họp và xét xử bởi
bồi thẩm đoàn. Continental Congress đă bỏ
phiếu để họp kế tiếp vào tháng 5 năm
1775 để xem xét hành động thêm nữa, nhưng
vào thời điểm đó bạo động đă
bùng nổ. Vào đêm ngày 18 tháng 4 năm 1775, hàng trăm
binh lính Anh đă tập họp từ Boston tới
gần Concord, Massachusetts để chiếm một kho
dự trữ vũ khí. Paul Revere và những kỵ binh
khác đă gióng tiếng báo động, và các dân quân
thuộc địa đă bắt đầu huy động
để đánh chận Redcoats [lính Anh]. Ngày 19 tháng 4,
dân quân địa phương đă đụng độ
với binh sĩ Anh tại Chiến Trường Lexington
và Concord của Massachusetts, đánh dấu “phát súng
được cả thế giới nghe biết” là báo
hiệu khởi đầu của Chiến Tranh Cách
Mạng. Khi Second Continental Congress [Quốc Hội Thứ
Hai] được triệu tập tại Philadelphia, có
thêm các đại biểu mới như Benjamin Franklin
and Thomas Jefferson, đă bỏ phiếu tán đồng
việc thành lập Quân Đội Lục Địa,
với Washington làm tổng tư lệnh. Vào ngày 17 tháng
6, tại trận chiến lớn đầu tiên của
cuộc Cách Mạng, lực lượng thuộc địa
đă gây thương vong nặng nề cho trung đoàn
Anh của Tướng William Howe tại Breed’s Hill ở
Boston. Vào mùa thu năm 1781, quân đội Mỹ
của Tướng Greene đă t́m cách để
buộc Tướng Anh Cornwallis và những binh sĩ
của ông rút khỏi bán đảo Yorktown của
Virginia, gần Sông York trống trải vào Vịnh
Chesapeake. Được sự hỗ trợ của quân
đội Pháp do Tướng Jean Baptiste de Rochambeau làm tư
lệnh, Washington tiến đánh Yorktown với toàn
bộ 14,000 binh sĩ, trong khi một hạm đội
36 tàu chiến Pháp ở ngoài khơi ngăn chận Anh
tiếp viện hay di tản. Bị bao vây và áp đảo,
Cornwallis bắt buộc phải đầu hàng toàn
bộ quân đội vào ngày 19 tháng 10. Cáo bệnh, tướng
Anh cử phó tướng, là Charles O’Hara, tới đầu
hang. Sau khi O’Hara tới gần Rochambeau để dâng
thanh kiếm đầu hang, Washington đồng ư để
phó tướng của ḿnh là Benjamin Lincoln, chấp
nhận sự đầu hàng. Sau khi thất trận, quân đội Anh vẫn c̣n
đóng chung quanh Charleston, và đội quân chính hùng
mạnh vẫn đóng ở New York. Không bên nào có hành
động quyết định cho cục diện
tốt hơn trong ṿng 2 năm sau đó, đến khi
Anh rút quân đội ra khỏi Charleston và Savannah vào
cuối năm 1782 đánh dấu thời điểm
cuối cùng chấm dứt xung đột. Các nhà thương
thuyết Anh và Mỹ tại Paris đă kư các điều
khoản ḥa b́nh đầu tiên tại Paris vào cuối
tháng 11 và vào ngày 3 tháng 9 năm 1783, Anh Quốc chính
thức thừa nhận sự độc lập của
Hoa Kỳ trong Hiệp Ước Paris. Cùng lúc đó, Anh
đă kư các hiệp ước riêng với Pháp và Tây
Ban Nha (đă có xung đột vào năm 1779), mang
lại sự chấm dứt cuộc Cách Mạng Mỹ
sau 8 năm trường ṛng ră. Những
giá trị trường cửu của Tuyên Ngôn Độc
Lập
Một đoạn trong bản Tuyên Ngôn Độc
Lập của Hoa Kỳ viết như sau: “Chúng
ta khẳng định một sự thật hiển nhiên,
rằng tất cả mọi người đều
được tạo ra b́nh đẳng, rằng họ
được Tạo Hóa ban cho một số Quyền
không thể chuyển nhượng, trong số đó có
Sự Sống, Tự Do và mưu cầu Hạnh Phúc.
– Rằng để đảm bảo các quyền này,
các Chính Phủ được thiết lập trong
số Người Dân, có được quyền
lực chính đáng của họ từ sự hài ḷng
đối với chính quyền, - Rằng bất cứ
khi nào bất kỳ h́nh thức của chính phủ nào
trở thành phá hoại những mục đích tối
hậu này, th́ người dân có Quyền để
thay đổi hoặc băi bỏ chính phủ đó. và
để thành lập Chính Phủ mới, đặt
nền tảng của chính phủ trên các nguyên tắc
như thế và tổ chức các quyền hành của
ḿnh trong h́nh thức như vậy, bởi v́ chúng
sẽ ảnh hưởng lớn đến an toàn và
hạnh phúc của người dân.” Chỉ một đoạn ngắn ở trên,
Thomas Jefferson đă nêu bật các nguyên tắc cốt lơi
của một quốc gia, một xă hội tự do, dân
chủ và nhân quyền, mà măi đến 172 năm sau,
giữa thế kỷ 20, nhân loại mới cùng nhau
thừa nhận qua bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của
Liên Hiệp Quốc – được Đại
Hội Đồng LHQ thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 -
và Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân
Sự và Chính Trị - được Đại
Hội Đồng LHQ thông qua vào ngày 16 tháng 12 năm
1966. Mọi người sinh ra đều b́nh đẳng,
nghĩa là không ai được quyền chà đạp
lên phẩm giá của người khác v́ nhân danh
bất cứ thế lực nào. Mọi người
đều có quyền sống, tự do và mưu
cầu hạnh phúc nghĩa là không ai có quyền tước
đoạt mạng sống, sự tự do và việc mưu
chính đáng cầu hạnh phúc của người khác.
Chính phủ là từ dân, do dân và v́ dân mà có, cho nên
khi chính phủ không làm tṛn trọng trách do dân giao phó
th́ người dân có quyền thay đổi hay băi
bỏ chính phủ đó để thành lập chính
phủ khác. Những nguyên tắc đó đă trở thành
những giá trị phổ quát. Nhưng cho đến ngày
nay, hai thập niên của thế kỷ 21, nhiều dân
tộc trên thế giới vẫn c̣n phải đấu
tranh quyết liệt để có được, mà không
phải lúc nào những đấu tranh ấy đều
mang lại thành tựu. Bằng chứng cụ thể là
cho đến nay người dân tại các nước
bị cai trị bởi những chế độ độc
tài quân phiệt và độc tài cộng sản
vẫn c̣n bị chính quyền chà đạp lên
quyền sống, quyền tự do và quyền được
tôn trọng nhân phẩm. Việt Nam là một điển
h́nh trong số đó. Các chế độ độc tài
quân phiệt và độc tài cộng sản tự cho
ḿnh cái quyền bảo vệ chế độ bằng
bất cứ giá nào, kể cả dùng bạo lực và
khí giới để giết dân, cho dù chế độ
đó không do người dân bầu lên, không phục
vụ các nguyện vọng của người dân, và
không c̣n được dân chúng ủng hộ. Đoạn cuối của bản Tuyên Ngôn Độc
Lập nhấn mạnh đến các yếu tính
của tự do và độc lập của một
quốc gia như sau: “…;
và với tư cách là các Tiểu Bang Tự Do và Độc
Lập, họ có toàn quyền để tiến hành
chiến tranh, thu xếp ḥa b́nh, kư kết các liên minh,
xây dựng thương mại và thực hiện
tất cả các hành động và những điều
khác mà các Tiểu Bang Độc Lập có thể làm.
- Và để hỗ trợ cho Tuyên Ngôn này, với ḷng
tin vững chắc vào việc bảo hộ của Thượng
Đế, chúng tôi cùng cam kết với nhau về
cuộc sống, vận mệnh và danh dự thiêng liêng
của chúng tôi.” Đoạn Tuyên Ngôn Độc Lập dẫn thượng
nói đến tự do và độc lập của
một quốc gia là có toàn quyền quyết định
(quyền tự quyết, quyền tự chủ) đối
với các chính sách đối ngoại và đối
nội. Điều đó có nghĩa là một quốc
gia tự do và độc lập là nước không
bị lệ thuộc vào bất cứ thế lực
ngoại bang nào trong việc lập ra các chính sách và
điều hành đất nước. Quyền độc lập, tự quyết
của dân tộc rất quan trọng. Nó là thước
đo chuẩn mực của một dân tộc tự do
hay nô lệ. Và v́ vậy nó phải được
tranh đấu đến cùng để đạt
được. Chính v́ vậy, lănh tụ Mahatma Gandhi
(1869-1948), nhà đấu tranh cho nền độc
lập của Ấn Độ thoát khỏi thực dân
Anh vào đầu thế kỷ 19 đă nói trong diễn
văn trước Quốc Hội Ấn Độ
tại Bombay vào tháng 8 năm 1942 như sau: “Đây
là một câu thần chú, một đoạn ngắn, mà
tôi dành cho các bạn. Các bạn có thể in nó lên trái
tim của ḿnh và để cho mỗi hơi thở
của các bạn thể hiện nó. Câu thần chú là
‘Làm hoặc Chết’. Chúng ta sẽ giải phóng
Ấn Độ hoặc chết trong nỗ lực; chúng
ta sẽ không sống để thấy sự tồn
tại của chế độ nô lệ. Mỗi
nghị sĩ hoặc phụ nữ chân chính sẽ tham
gia vào cuộc đấu tranh với quyết tâm không
thể sống sót để thấy đất nước
bị trói buộc và nô lệ.” Nước Mỹ vĩ đại nhờ có
những bậc tổ phụ khai sáng ra đất nước
này, với kiến thức và tâm hồn rộng
lớn để có thể đưa ra những nguyên
tắc trở thành chân lư muôn đời cho quốc gia
trường cửu. Ngày nào nước Mỹ c̣n duy tŕ
và thực thi các nguyên tắc phổ quát này th́ ngày
đó nước Mỹ c̣n vĩ đại. Những
nhà lănh đạo Hoa Kỳ nếu muốn nước
Mỹ vĩ đại th́ phải tận lực phát
huy những giá trị trường cửu mà Thomas
Jefferson đă đề ra trong Tuyên Ngôn Độc
Lập.
|