Ông
Dwight D. Eisenhower là một vị tướng
cao cấp và vị Tổng Thống thứ 34 của Hoa
Kỳ, là nhà lănh đạo quân sự của các
lực lượng Đồng Minh tại châu Âu trong
thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai. Tướng
Dwight Eisenhowe đă là vị Tư Lệnh Tối Cao
của Lực Lượng Viễn Chinh Đồng Minh
(the Allied Expeditionary Force), ông đă chỉ huy cuộc
đổ bộ lên khu vực bờ biển Normandy
thuộc nước Pháp, vào ngày 6 tháng 6 năm 1944,
nhờ vậy các đạo quân Đồng Minh đă
đánh bại lực lượng Đức Quốc Xă,
khiến cho Đức Quốc Xă
phải đầu hàng vào ngày 8 tháng 5 năm 1945.
Tướng Eisenhower từng có hơn 30 năm kinh
nghiệm quân sự nhưng ông đă trải qua hơn
50 năm đầu không nổi tiếng. Ngay cả trong
binh chủng Lục Quân, ông Eisenhower đă không
được nhiều người biết tới, nhưng
từ khi Thế Chiến Thứ Hai
xẩy ra, ông Eisenhower đă lên chức với tốc
độ khác thường: là một Trung Tá vào năm
1941, ông trở thành vị Đại Tướng 5 sao vào
năm 1945.
Vào năm 1950, Tổng Thống
Harry Truman đă bổ nhiệm Tướng Dwight D.
Eisenhower làm Tư Lệnh các Lực Lượng Bắc
Đại Tây Dương (the North Atlantic Treaty Organization
Forces) và như vậy, Tướng Eisenhower là nhà
lănh đạo một lực lượng quân sự
nhiều quốc gia rất lớn trong thời b́nh. Tài
năng của Tướng Eisenhower là khiến cho
nhiều người với quá tŕnh khác nhau, có thể
cùng hợp tác với nhau v́ mục đích chung. Như
vậy, ông Eisenhower được kể là một nhà
chiến thuật có tài và nhà quản trị hành chính
khéo léo.
Nhiều người trên thế giới đă yêu
mến Tướng Eisenhower và thường gọi ông
một cách thân mật là "Ike". Ông Eisenhower
là một con người cao và nặng hơn trung b́nh
không nhiều. Ông có chiếc đầu hói, cái trán
rộng, miệng rộng và hay tươi cười,
dễ dàng bộc lộ t́nh cảm chân thật và
niềm nở. Ông Eisenhower là một nhân vật có
đầu óc sắc bén, trật tự, nhưng ông không
phải là một nhà trí thức cấp cao, không có cách
nh́n sâu xa vào các công việc trọng đại nhưng
vẫn có thể phân tích các vấn đề khó khăn
và chọn ra cách giải quyết thích hợp.
Khi được bầu làm Tổng Thống Hoa
Kỳ vào năm 1952, Tướng Dwight Eisenhower đă
chấm dứt cuộc Chiến Tranh Triều Tiên tuy nhiên,
trong cả hai nhiệm kỳ từ năm 1953 tới năm
1961, Tổng Thống Eisenhower đă không tạo nên
được các thành tích đáng kể về
lập pháp lẫn ngoại giao và nhiều người
c̣n nhớ rằng đây là giai đoạn tương
đối yên tĩnh của đất nước Hoa
Kỳ. Nhiều người đă yêu mến ông
Eisenhower v́ các cách cư xử dễ dàng của ông, v́
khả năng chịu lắng nghe và sự quan tâm
của ông tới phúc lợi của các người khác,
v́ bản chất thành thực, ḷng tử tế và
rộng lượng của ông cùng với các cử
chỉ b́nh dân.
1/ Thời Niên Thiếu.
David Dwight Eisenhower, thường
được gọi là Dwight David, chào đời vào
ngày 14 tháng 10 năm 1890 tại Denison, tiểu bang Texas. Cha
mẹ là ông David Jacob Eisenhower và bà Ida Stover Eisenhower, là
hai tín đồ thuần thành của một giáo phái
đạo Tin Lành gọi tên là "The River Brethren".
Hai ông bà David và Ida đă gặp nhau khi là sinh viên
của Đại Học Lane, điều hành do Nhà
Thờ United Brethren tại thành phố Lecompton, tiểu
bang Kansas. Họ kết hôn vào năm 1885 và đă
được người cha của ông David là một
chủ trại giàu có, tặng cho $2,000 và một nông
trại rộng 160 mẫu. Nhưng ông David không ưa thích
cuộc sống buồn tẻ của nông trại, nên
đă bán bất động sản để đầu
tư vào một cửa hàng tại thị trấn Hope,
trong tiểu bang Kansas. Sau 3 năm, công việc thương
mại gặp thất bại, ông David phải di
chuyển qua thị trấn Denison, tiểu bang Texas, để
lại phía sau người vợ đang mang bầu và
đứa con trai nhỏ. Ông David đă làm công nhân
đường xe lửa với lương tháng $40
rồi qua năm 1889, đă đưa gia đ́nh qua cùng
sinh sống tại Denison.
Cậu Dwight có 2 người anh lớn là Arthur (1886-1958)
và Edgar (1899-1971) và 3 người em nhỏ, là Roy
(1892-1942), Earl (1898-1968) và Milton (1899-1985). C̣n một người
em nữa qua đời khi c̣n nhỏ. Cha mẹ
của cậu Dwight có nguồn gốc Đức và
Thụy Sĩ, là những di dân tới tiểu bang
Pennsylvania vào các năm 1700.
|
Ngôi nhà của họ Eisenhower ở Kansas
|
Khi
cậu Dwight c̣n nhỏ, gia đ́nh Eisenhower di chuyển
về thành phố Abilene, tiểu bang Kansas và cha của
cậu làm việc trong một hăng sữa c̣n các con trai
trồng rau và làm các công việc vặt để
trợ giúp gia đ́nh. Cậu Dwight được đi
học và các bạn của cậu gọi cậu là
"Ike Nhỏ" (Little Ike) để phân biệt
với người anh Edgar, được gọi là
"Ike Lớn" (Big Ike). Hai cậu Ike này đă
khiến cho các bạn chú ư, nên trong cuốn Sổ Lưu
Niệm cuối năm, người ta đă dự đoán
rằng Edgar có thể trở nên Tổng Thống c̣n
Dwight sẽ là một giáo sư Lịch Sử.
Sau khi tốt nghiệp bậc trung học, Dwight làm
việc toàn thời gian trong hăng sữa để
lấy tiền giúp anh Edgar trả học phí năm
thứ nhất đại học và cậu Dwight không có
một hy vọng nào sẽ được học lên
cao cho đến khi một người bạn khuyên
cậu nên nạp đơn vào một trường quân
sự bởi v́ học viên không phải trả học
phí tại nơi học này. V́ vậy, cậu Dwight
đă được Thượng Nghị Sỹ Joseph
Bristow của tiểu bang Kansas xin cho dự thi vào
Viện Đại Học Lục Quân Hoa Kỳ (the U.S.
Military Academy) tại West Point, thuộc tiểu bang New
York.
Trái với ư kiến của cha mẹ là chống
chiến tranh, cậu Dwight đă chọn làm một quân
nhân v́ coi đây là một cơ hội để
học hỏi và thực tập kỷ luật. Tại
trường West Point, cậu Dwight đă tham gia vào đội
bóng bầu dục nhưng v́ bị thương nơi
đầu gối, cậu đă phải rút lui. Vào
năm 1915, cậu Dwight Eisenhower đă tốt nghiệp
sỹ quan bộ binh, hạng 61 trên tổng số 164
sinh viên và Bộ Lục Quân đă bổ nhiệm
cậu Thiếu Úy này về Fort Sam Houston, gần San
Antonio.
2/ Thời Quân Nhân.
|
Mamie Eisenhower
vẽ
năm 1953 bởi Thomas E. Stephens
|
Khi
không mắc bận nhiệm vụ tại Fort Sam Houston,
Dwight Eisenhower thường làm ông bầu cho vài đội
banh. Cũng vào thời gian này, ông gặp cô Mamie
Geneva Doud (1896-1979) là một du khách thuộc gia
đ́nh giàu có từ miền Denver thuộc tiểu bang
Colorado. Eisenhower bắt đầu làm quen và dẫn
cô Mamie tới các nơi họp bạn. Ngày
01 tháng 7 năm 1916, Dwight Eisenhower được thăng
cấp Trung Úy, đồng thời cũng làm lễ thành
hôn với cô Mamie tại thành phố Denver.
Gia đ́nh mới này đă có một con trai, đặt
tên là Doud Dwight Eisenhower, nhưng đă qua đời khi
lên 3 tuổi v́ bệnh sốt ban đỏ. Người
con trai thứ hai tên là John Sheldon Doud Eisenhower sinh năm
1922, sau này là một sĩ quan Lục Quân tốt
nghiệp từ một Học Viện Quân Sự vào
đúng ngày Tướng Dwight Eisenhower ra lệnh đổ
bộ lên châu Âu. Về sau, ông John Sheldon Eisenhower làm
Đại Sứ của Hoa Kỳ tại nước
Đan Mạch và vào năm 1968, con trai
của ông Sheldon tên là David đă kết hôn với cô
Julie Nixon, con gái của Phó Tổng Thống Richard M.
Nixon.
Do ở trong quân ngũ, gia đ́nh Eisenhower đă di
chuyển tới nhiều nơi và vào năm 1917,
trước khi Hoa Kỳ tham gia vào Thế Chiến
Thứ Nhất, ông Dwight Eisenhower được thăng
cấp Đại Úy. Ông đă muốn qua châu Âu
chiến đấu nhưng v́ là một huấn
luyện viên giỏi, Quân Đội đă giữ ông
lại để điều khiển các chương tŕnh
huấn luyện kỹ thuật chiến xa dành cho các sĩ
quan Thiết Giáp và binh lính tại Trại Colt, thuộc
miền Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania. Đây là
thời kỳ ông Dwight Eisenhower học hỏi được
rất nhiều chiến thuật dùng chiến xa và cách
thức chuyển hóa các dân sự thành những quân nhân
tinh nhuệ. Ông Eisenhower đă được trao
tặng Huy Chương Phục Vụ Đặc Sắc
(a Distinguished Service Medal) nhưng ông vẫn không có đủ
các kinh nghiệm chiến trường.
Vào năm 1920, ông Dwight Eisenhower được thăng
cấp Thiếu Tá rồi qua năm sau, tốt nghiệp
trường Thiết Giáp tại Camp Mead, thuộc
tiểu bang Maryland. Ông Eisenhower được thuyên
chuyển tới Vùng Kênh Đào Panama, vào thời
kỳ này c̣n thuộc quyền kiểm soát của Hoa
Kỳ. Ông làm sĩ quan tham mưu cho Lữ Đoàn 20
Bộ Binh và tại Panama, ông đă gặp Thiếu Tướng
Fox Conner, là nhân vật đă dạy cho ông rất
nhiều về lịch sử quân sự, cũng như
bàn thảo nhiều vấn đề quốc tế. Tướng
Conner c̣n cho ông Eisenhower biết rằng một vị
đại tá tên là George C. Marshall sẽ có thể
điều khiển lực lượng quân sự
Mỹ trong trận chiến tranh sắp tới, đây
sẽ là một chiến cuộc có tính toàn cầu và
nhà chiến lược phải suy nghĩ tới toàn
thể thế giới mà không phải chỉ nghĩ
về một trận tuyến. Về sau này khi đă
về hưu từ chức vụ Tổng Thống, ông
Dwight Eisenhower c̣n nói: "Tướng
Fox Conner là một người có khả năng nhất
mà tôi đă từng quen biết".
3/ Lănh các chức vụ tham mưu.
Vào năm 1925, nhờ sự giúp đỡ của Tướng
Conner, Đại Úy Eisenhower được theo học Trường
Chỉ Huy và Tham Mưu (the Command and General Staff School)
tại Leavenworth, Kansas. Ông đă học
tập chăm chỉ nên đă đỗ đầu
trong số 275 sĩ quan, đây là những quân nhân
đă được huấn luyện kỹ càng về
chiến thuật cùng các kỹ năng quân sự khác. Năm
1927, ông Eisenhower đă soạn thảo xong cuốn sách hướng
dẫn các trận chiến tại châu Âu trong thời
Thế Chiến Thứ Nhất, rồi qua năm sau,
1928, ông tốt nghiệp Học Viện Chiến Tranh
(the Army War College) đặt tại Thủ Đô D.C. Vào
thời gian này, ông Dwight Eisenhower đă nổi tiếng
là một sĩ quan tham mưu xuất sắc, rất tài
giỏi về cách soạn thảo các báo cáo và kế
hoạch.
Ông Dwight Eisenhower phục vụ tại Văn Pḥng
của Thứ Trưởng Bộ Chiến Tranh từ năm
1929 tới năm 1933, đă thực hiện được
một kế hoạch dài về cách động viên
kỹ nghệ trong trường hợp có chiến tranh
lớn xẩy ra. Vào năm 1933, Đại
Úy Eisenhower là phụ tá cho Tham Mưu Trưởng
của Tướng Douglas MacArthur và chính vị Tướng
danh tiếng này cũng phải khen ngợi và lệ
thuộc vào các tài năng quản trị và khả năng
soạn thảo các tài liệu của ông Eisenhower.
Khi trở nên cố vấn quân sự cho Chính Phủ
Phi Luật Tân vào năm 1935, Tướng MacArthur đă
yêu cầu Bộ Chiến Tranh cử Thiếu Tá
Eisenhower làm sĩ quan phụ tá cao cấp cho ḿnh và
ông Dwight Eisenhower đă trù liệu các kế hoạch pḥng
thủ cho nước Phi Luật Tân, cũng như
soạn thảo ra chương tŕnh thành lập một
Học Viện Quân Sự cho chính quyền Phi mới giành
được độc lập. Chính
trong thời gian phục vụ tại Phi Luật Tân,
Thiếu Tá Eisenhower đă học cách lái máy bay quân
sự và bay một ḿnh vào năm 1937, khi đó ông
đă 47 tuổi.
Vào đầu năm 1940, ông Dwight Eisenhower
đă mang lon Trung Tá, trở nên sĩ
quan tham mưu của Lữ Đoàn 15 Bộ Binh (the 15th
Infantry Regiment) đóng tại Fort Ord, thuộc tiểu
bang California, rồi qua tháng 3 năm 1940, Trung Tá Eisenhower
là Tham Mưu Trưởng của Sư Đoàn 3, đóng
tại Fort Lewis, tiểu bang Washington. Qua năm 1941,
ông Eisenhower mang lon Đại Tá và
là Tham Mưu Trưởng của Tướng Walter
Krueger, chỉ huy trưởng Quân Đoàn thứ 3 (the
3rd Army) đóng tại Fort Sam Houston.
Thế Chiến Thứ Hai đă bùng nổ vào năm
1939. Nước Đức, sau này có các nước Ư,
Nhật và một số quốc gia thuộc Khối
Trục, đang đánh nhau với các nước Anh, Pháp
và sau này là Liên Xô và Hoa Kỳ. Vào năm 1940, Hoa
Kỳ bắt đầu xây dựng các lực lượng
quân sự để pḥng ngừa bị lôi kéo vào
cuộc chiến. Năm 1941, Bộ Lục Quân đă
chỉ thị Đại Tá Eisenhower trù liệu một
cuộc tập trận dành cho Quân Đoàn thứ 3
tại tiểu bang Louisiana. Trong kỳ luyện tập này,
Quân Đoàn thứ 3 đă đánh thắng được
lực lượng giả địch, gồm cả sư
đoàn xe tăng do một sĩ quan bạn chỉ huy, là
ông George S. Patton, Jr. Đây là vị anh hùng trong Thế
Chiến Thứ Hai vài năm sau.
Đại Tá Eisenhower điều hành cuộc thao dượt
lớn nhất trong thời b́nh, đă khiến cho các
giới chức cao cấp bên ngoài Quân Đội
phải chú ư và sau đó, ông Eisenhower
được thăng cấp Chuẩn Tướng
(brigadier general) vào tháng 9 năm 1941 và cũng
được Tướng George S. Marshall chú ư
đến. Vào thời gian này, Tướng
Marshall đă thay thế Tướng MacArthur làm Tổng
Tham Mưu Trưởng Lục Quân (Army Chief of
Staff).
Tướng
Marshall muốn loại bớt các nhân viên dư thừa
và đang t́m kiếm các sĩ quan trẻ, nhiều hăng
hái hơn, để gánh vác các công tác chiến tranh, v́
thế vào ngày 14/12/1941, Tướng Marshall đă
mời ông Eisenhower tới Thủ Đô Washington D.C. và
đặt ông Eisenhower vào Phân Bộ Các Kế Hoạch
Chiến Tranh (the War Plans Division), đặc biệt
chịu trách niệm Vùng Đông Nam Á. Trong hoàn cảnh
này, Chuẩn Tướng Eisenhower đă phải làm
việc 7 ngày 1 tuần lễ, mỗi ngày 14 giờ liên
tục và đă khiến cho Tướng Marshall rất
cảm phục.
Tháng 2 năm 1942, Tướng
Marshall thăng cấp cho ông Eisenhower lên Thiếu Tướng
(major general), đứng đầu Phân Bộ Các
Chiến Dịch (the Operations Division). Tới tháng 6 cùng năm,
Tướng Marshall gắn thêm 1 ngôi sao cho ông Eisenhower
rồi cử Trung Tướng Eisenhower
tới London, nước Anh, để chỉ huy các
lực lượng quân sự Hoa Kỳ đang hoạt
động trên các chiến trường tại châu Âu.
4/ Chỉ huy các chiến trường tại châu Phi và
nước Ư.
|
Thiếu Tướng Eisenhowser - 1942
|
Trong
các tuần lễ đầu tiên tại London, Tướng
Eisenhower đă tham dự các cuộc tranh luận về
chiến lược rất lớn lao và quan trọng. Theo
lời hướng dẫn của Tướng Marshall, Tướng
Eisenhower đă thúc dục Bộ Tham Mưu Phối
Hợp CCS (the Conbined Chiefs of Staff) gồm các tướng
lănh hàng đầu của nước Anh và nước
Mỹ, nên trù liệu một chương tŕnh đổ
bộ lên nước Pháp vào năm 1943, hoặc nếu
cần, một cuộc đổ bộ mạo hiểm
vào năm 1942 nếu nước Nga bị loại ra
khỏi ṿng chiến. Nhưng người Anh vào
thời bấy giờ lại muốn đổ bộ lên
Bắc Phi, một công tác dễ dàng hơn nhưng không
mang lại các kết quả đáng kể. Đă có
nhiều bất đồng ư giữa các vị tư
lệnh Anh và Mỹ về các chiến lược
sắp đến trong khi đó Tổng
Thống Franklin D. Roosevelt ngả về phía người
Anh.
Sau đó Bộ Tham Mưu Phối Hợp CCS đă
chọn Tướng Eisenhower chỉ huy chiến dịch
"Bó Đuốc" (Operation Torch), giao cho ông toàn
quyền điều khiển các lực lượng
hải, lục và không quân. Đây là đường
lối chỉ huy thống nhất, có nhiều quyền
hành hơn của Thống Chế Foch đă xử
dụng năm 1918 trong cuộc Thế Chiến Thứ
Nhất.
Cuộc đổ bộ lên Bắc Phi
bắt đầu vào ngày 8 tháng 11 năm 1942 và các
lực lượng của Tướng Eisenhower đă lên
bờ gần Casablanca. Tại nơi này, lực
lượng của chính phủ Vichy thuộc Pháp đă
chống cự. Tướng Eisenhower đă thương
lượng với vị tư lệnh Pháp là Đô
Đốc Jean Darlan, cho ông này quyền kiểm soát dân
sự miền Bắc Phi để đổi lấy
sự cộng tác của người Pháp chống
lại quân Đức Quốc Xă. V́ Tướng Darlan
trước kia đă chống Do Thái và đă cộng tác
với quân Đức, nên cách dàn xếp kể trên
đă bị phản đối dữ dội, nhưng Tướng
Eisenhower đă qua khỏi cơn băo táp do nhấn
mạnh rằng việc thương lượng chỉ
có tính cách tạm thời và chuyên về mặt quân
sự.
Trên trận địa của châu Âu, Tướng
Eisenhower cố gắng tiến quân về phía đông,
tới tận xứ Tunisia trước khi quân
Đức lập căn cứ tại nơi đây, nhưng
cuộc hành quân kể trên đă gặp thất
bại. Vào tháng 2 năm 1943, lực lượng Mỹ
cũng bị tấn công bất ngờ trong trận
Kasserine Pass. Tới tháng 5 năm 1943,
tất cả quân đội Đức Quốc Xă
tại châu Phi đầu hàng. Tới lúc này, ông
Eisenhower được gắn thêm 1 ngôi sao nữa.
Đây là cấp bậc cao nhất trong Lục Quân Hoa
Kỳ vào thời kỳ đó.
Đại Tướng 4 sao Dwight Eisenhower đă
chỉ huy các lực lượng Hoa Kỳ và cả Quân
Đoàn thứ 8 (the British Eighth Army) của Tướng
Montgomery, nước Anh. Công việc chỉ huy này
rất khó khăn. Tướng Eisenhower phải vừa là
một nhà ngoại giao, vừa là một người
đặt kế hoạch khôn khéo, làm sao tạo nên
được sự thống nhất trong số các tướng
lănh của nhiều quốc gia v́ các viên tướng này
đều ngang bướng và hay nói thẳng.
Qua tháng 7 năm 1943, hầu như toàn thể bán đảo
Ư đều được giải phóng bởi lực
lượng Đồng Minh dù cho một số quân
đội Đức Quốc Xă đă trốn thoát,
trong khi đó, Tướng Eisenhower cũng chỉ huy các
thương lượng kín đáo để nước
Ư Phát Xít đầu hàng.
Vào ngày 8/ 9/1943, lực lượng quân sự
của Tướng Eisenhower đánh lên Salermo. Quân đội
Đức chiếm đóng tại đây đă pḥng
thủ cẩn thận từ trước trong các
miền núi đá, nên tiến bộ rất chậm
chạp và trong khi cuộc chiến c̣n đang tiếp
diễn, Tướng Eisenhower được lệnh
phải dời khỏi nước Ư, về London để
chỉ huy các lực lượng sắp đổ
bộ lên bờ biển của nước Pháp.
5/ Điều khiển cuộc
đổ bộ lên đất Pháp.
Vào năm 1943, Hoa Kỳ và Anh Quốc đă thiết
lập nên một bộ tham mưu phối hợp để
dự trù việc đổ bộ lên châu Âu khi đó
c̣n bị các lực lượng Đức Quốc Xă
chiếm đóng. Hai nhân vật
được đề nghị đứng ra tổ
chức cuộc đổ bộ lớn lao này là Tướng
Marshall và Tướng Eisenhower, nhưng Tổng Thống
Franklin D. Roosevelt không muốn Tướng Marshall đi xa
các công việc chính yếu tại Thủ Đô
Washington D.C., v́ vậy vào tháng 12 năm 1943, Tổng
Thống Roosevelt đă bổ nhiệm Tướng
Eisenhower làm chỉ huy tối cao của lực lượng
viễn chinh Đồng Minh tại châu Âu.
Khi Đại Tướng Dwight Eisenhower lănh nhiệm
vụ tại Bộ Tư Lệnh Tối Cao của
Lực Lượng Viễn Chinh Đồng Minh SHAEF
(Supreme Headquarters, Allied Expeditionary Force), ông nhận
thấy ḿnh đang chỉ huy một lực lượng
quân sự lớn nhất từ xưa tới nay và
lực lượng Đồng Minh này đang trù tính
một kế hoạch hành quân gọi là Chiến
Dịch Overlord, vượt qua Biển Channel của nước
Anh vào đầu tháng 6 để chiếm miền đất
Normandy thuộc phía bắc của nước Pháp và
đây sẽ là một cuộc tiến chiếm
thủy vận lớn nhất trong lịch sử.
Vào ngày đầu tiên của chiến dịch, hơn 156,000
binh sĩ sẽ đánh vào bờ biển với
6,000 tầu thuyền yểm trợ dưới nước
và trên không có hàng ngàn máy bay đủ loại tấn
công quân Đức. Để tổ chức một
lực lượng quân sự quá vĩ đại này, Tướng
Eisenhower đă có một bộ tham mưu gồm 16,312 sĩ
quan và hạ sĩ quan, sẽ phải phối
hợp các lực lượng Bộ Binh và Hải Quân
của Hoa Kỳ, của nước Anh và các nước
Đồng Minh khác, làm sao cho tất cả cùng tiến
tới như một sức mạnh vũ băo.
Trong công tác trọng đại này, Tướng
Eisenhower đă trông cậy phần lớn vào hai nhân
vật: Tướng Marshall sẽ ủng hộ ông
trong suốt chiến dịch và cung cấp mọi
yểm trợ không giới hạn từ Thủ Đô
D.C., người thứ hai là vị tham mưu trưởng
Walter Bedell Smith, c̣n trên mặt trận đă có Tướng
Omar Bradley, một người bạn thân và cũng là
sĩ quan tốt nghiệp từ Trường West Point và
Tướng George Patton. Đối với vị
chỉ huy lực lượng của nước Anh, Tướng
Eisenhower không hợp ư với Tướng Montgomery
nhưng ông vẫn kính trọng khả năng của
vị tướng Anh này.
Chiến dịch đổ bộ Overlord đang
được trù tính: sự thành công sẽ thùy
thuộc t́nh trạng mặt biển yên tĩnh và
mức thủy triều thấp để cho các con
tầu đổ bộ lên bờ dễ dàng và nhanh chóng,
trong khi bầu trời quang đăng cũng giúp cho các
loại máy bay khu trục và ném bom có thể bảo
vệ binh lính ở dưới đất.
Cuộc đổ bộ được dự trù vào ngày
4 tháng 6 năm 1944 nhưng vào ngày mồng 3, thời
tiết trở nên xấu đi, mặt biển nổi
sóng lớn và nhiều mây dày đặc trên bầu
trời. Gió thổi mạnh từng cơn như gào thét
trong khi mưa nặng hạt quét các lớp nước
liên tục. Một trận băo trên Biển Channel đă
khiến cho phải hoăn lại kế hoạch đổ
bộ. Chiều ngày mồng 4, nhân viên khí tượng
tiên đoán rằng trận băo sẽ dịu đi vào
sáng ngày mồng 6, bầu trời sẽ quang đăng
trở lại. Nếu cuộc đổ bộ không
bắt đầu vào ngày mồng 6 này, cần phải
chờ đợi thêm 2 tuần lễ nữa mới có
điều kiện nước thủy triều
thấp.
Tướng Eisenhower đă gặp phải một
quyết định rất đau đầu. Ông có
thể đưa hàng triệu mạng sống vào cơn
rủi ro v́ thời tiết, c̣n nếu hoăn cuộc
đổ bộ, lực lượng quân sự của
ông sẽ mất hẳn đi yếu tố bất
ngờ, bởi v́ địa điểm đổ
bộ đă được tŕnh bày cho hàng ngàn người
biết và người Đức chắc chắn
sẽ biết tin tức này để mà phản công. Tướng
Eisenhower phải có quyết định cuối cùng. Ông
tin tưởng ở nhân viên khí tượng, căn
cứ vào một tháng theo dơi các lời tiên đoán. Ông
hỏi ư kiến các vị chỉ huy mặt trận và
Ban Tham Mưu, rồi vào ngày mồng 5, Tướng
Eisenhower ra lệnh: "Đồng Ư, Hăy
Ra Đi" (OK, let's go).
Sáng sớm ngày 6 tháng 6 năm 1944,
một ngày đáng ghi nhớ và được gọi
là Ngày D (D-Day), bầu trời quang đăng trở
lại và sau một ngày tấn công ào ạt các
lực lượng pḥng thủ của Đức
Quốc Xă, các binh lính Đồng Minh đă chiếm
được một số vị trí then chốt trên
bờ biển Normandy.
Vào cuối tháng 7 năm 1944, khi các lực lượng
Hoa Kỳ đă sẵn sàng tiến về phía thủ
đô Paris của nước Pháp th́ Tướng
Eisenhower lại gặp phải một cuộc bất
đồng ư kiến với Tướng Montgomery,
chỉ huy trưởng của lực lượng Anh
Quốc. Vị Tướng Anh này yêu cầu Tướng
Eisenhower dành cho quân lực Anh hiện đang ở cánh
bên trái, tất cả tiếp liệu c̣n lại, để
ông ta có thể dẫn quân tiến về phía bắc
của nước Đức, trong khi đó Tướng
Eisenhower muốn rằng tất cả mọi lực lượng
Đồng Minh đều tiến tới trên một
trận tuyến rộng lớn với Tướng
Bradley điều khiển binh lính ở bên phải.
Tướng Montgomery lại cho rằng theo cách tiến
quân này Tướng Eisenhower sẽ kéo dài cuộc
chiến tranh trong khi đó, Tướng Eisenhower lại
quan niệm rằng nếu ông để cho lực lượng
Anh một ḿnh tiến sâu vào trong nước Đức,
lực lượng này có thể bị cô lập và
bị đánh tan bởi quân Quốc Xă trong khi các
lực lượng Đồng Minh lại không giữ
vững được các hải cảng có nước
sâu. Ngoài ra, Tướng Eisenhower nghĩ rằng cũng
khó mà ḱm giữ quân lực Hoa Kỳ, đặc
biệt theo Tướng Patton, tiến chậm bớt khi
đánh về phía thủ đô Paris. Trước
mặt Thủ Tướng Churchill và Tướng
Montgomery, Đại Tướng Eisenhower đă nhấn
mạnh rằng cần phải duy tŕ một mặt
trận trải dài theo bề rộng. Ông Eisenhower
quả quyết về điều này, bởi v́ ông
đă tin tưởng vào sự yểm trợ hết ḷng
của Tướng Marshall ở thủ đô Washington
D.C.
Vào cuối mùa thu năm 1944, các lực lượng
Đồng Minh cạn dần tiếp liệu, mặc dù
họ có thể đẩy quân đội Đức
Quốc Xă ra khỏi nước Pháp, nhưng họ chưa
thể tiến sâu vào địa phận nước
Đức. Vào tháng 12 năm 1944, quân
Đức bắt đầu tổng phản công
tại miền Ardennnes, và trong trận đánh Bulge (the
Battle of the Bulge), quân lực của Tướng Eisenhower
đă đập tan nát toàn bộ lực lượng
quân Đức sau một trận giao chiến xuất
sắc.
Sau chiến thắng vẻ vang kể trên, Thủ
Tướng Anh Churchill muốn rằng Tướng
Eisenhower tiến quân về thủ đô Berlin và
chiếm giữ thành phố này cho đến khi người
Nga chịu nhượng bộ về nước Ba Lan và
các điều kiện chính trị khác liên quan đến
các vấn đề hậu chiến của các nước
Đông Âu. Tướng Eisenhower lại nhấn
mạnh rằng trước kia đă có các thỏa
ước giữa các chính phủ Đồng Minh
về việc phân chia nước Đức thành các vùng
chiếm đóng và chia thành phố Berlin thành các khu
vực kiểm soát trong đó có khu vực thuộc
quyền của người Nga. Nếu bây giờ, quân
lực Hoa Kỳ đánh chiếm thành phố Berlin,
số thiệt hại có thể lên tới 100,000 lính
Mỹ tử vong rồi sau đó vẫn phải trả
lại khu vực đă ấn định cho quân đội
Liên Xô.
Ngoài ra, Tướng Eisenhower c̣n tin rằng không thể
có số quân Đồng Minh đủ lớn để
tiến vào thủ đô Berlin trước quân đội
Liên Xô. Sau đó, Tướng Eisenhower đă phái quân
lực Hoa Kỳ đánh xuống miền nam của nước
Đức. Sự bất đồng ư kiến kể trên
giữa các tướng lănh Đồng Minh đă là
một sự việc rất căng thẳng và hiện
nay, người ta c̣n tranh luận về quyết định
này của Tướng Eisenhower.
|
Đại Tướng Eisenhowser và các tướng
đông minh trong ngày Đức Quốc Xă đầu
hàng
|
Mười
một tháng sau ngày Đổ Bộ lên bờ biển
Normandy, Đức Quốc Xă đă phải đầu hàng
không điều kiện vào ngày 8 tháng 5 năm 1945.
Ông Eisenhower nhận được một cấp
bậc mới, là Đại Tướng 5 sao.
Một cuộc tiếp rước tưng bừng đă
chào đón ông tại Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1945.
Đại Tướng Dwight Eisenhower đă đứng
đầu các lực lượng Đồng Minh
chiếm đóng nước Đức trong 6 tháng
rồi trở về thủ đô Washington D.C. Ông đă
theo dơi một chương tŕnh giải ngũ quân đội
Mỹ để các quân nhân trở về đời
sống dân sự của thời b́nh nhưng ông cũng
muốn việc giải giới này tiến hành chậm
chạp để giữ cho quốc gia vững mạnh.
Ông Eisenhower đề nghị động viên tất
cả thanh niên 18 tuổi nhưng ư kiến này không
được ủng hộ. Ông đă đọc
nhiều bài diễn văn liên quan tới vấn đề
quốc pḥng và viết hồi kư. Tướng
Eisenhower cũng muốn về hưu để sống
một đời dân sự yên tĩnh nhưng đất
nước Hoa Kỳ c̣n cần tới tài năng
của ông, nên ông được đề nghị thay
thế Tướng Marshall làm Tổng Tham Mưu Trưởng
của Quân Lực Hoa Kỳ. Ông muốn tất
cả quân lực của Hoa Kỳ sẽ được
thống nhất dưới một hệ thống
chỉ huy, nhưng các nhà lănh đạo chính trị và
quân sự đă chống đối cách hợp
nhất này. Năm 1947, Quốc Hội Hoa Kỳ đă
thông qua một dự án dung ḥa, chấp nhận sự
việc chỉ có một bộ trưởng quốc pḥng.
Tướng Eisenhower về hưu
khỏi Quân Đội vào năm 1948 và
trở nên Viện Trưởng của Trường
Đại Học Columbia tại thành phố New York.
Ông dành thời giờ để viết một
cuốn sách kể lại các kinh nghiệm trong thời
chiến của ông, cuốn sách có tên là "Cuộc
Thánh Chiến tại Châu Âu" (The Crusade in Europe, 1948)
và ông rất ngạc nhiên khi cuốn sách này trở thành
tác phẩm bán chạy nhất (a best seller).
Vào cuối thập niên 1940, phần lớn các quốc
gia Đông Âu đều nằm trong tầm kiểm soát
của chính quyền Cộng Sản do Liên Xô lănh đạo.
Kết quả của sự việc này là các
quốc gia cùng với Hoa Kỳ và Gia Nă Đại
đă hợp tác với nhau vào năm 1949 để
lập nên Tổ Chức Minh Ước Bắc Đại
Tây Dương, gọi tắt là NATO (the North Atlantic
Treaty Organization). Năm 1950,
Tổng Thống Harry S. Truman yêu cầu Tướng
Eisenhower lănh chức vụ chỉ huy tối cao các
lực lượng NATO tại châu Âu và ông Eisenhower
đă vui vẻ nhận nhiệm vụ tạo dựng
một đạo quân quốc tế gồm các quân nhân
thuộc nhiều quốc gia.
6/ Trên đường tiến tới Ṭa Nhà
Trắng.
Vào tháng 6 năm 1950, quân cộng sản Bắc
Triều Tiên được Liên Xô trang bị vơ khí,
đă vượt qua biên giới và xâm lăng Nam
Triều Tiên. Tổng Thống Truman bèn gửi quân đội
Mỹ qua Nam Triều Tiên, là một thành phần
của lực lượng quân sự Liên Hiệp
Quốc, để chống lại quân xâm lăng
từ phía bắc. Sự việc quân đội Hoa
Kỳ tham dự vào cuộc chiến đă được
nhiều dân biểu và thượng nghị sĩ
Cộng Ḥa ủng hộ. Nhưng các vị Cộng Ḥa
Bảo Thủ, được gọi là Nhóm Già Bảo
Thủ (the Old Guard), đứng đầu do Thượng
Nghị Sĩ Robert A. Taft, thuộc tiểu bang Ohio,
lại muốn Hoa Kỳ rút lui khỏi cuộc chiến
bởi v́ khu vực này sớm trở thành một nơi
bế tắc đẫm máu.
Như vậy vào thời bấy giờ, người dân
và các vị dân cử Hoa Kỳ đă bị chia rẽ
sâu xa v́ vấn đề chiến tranh Triều Tiên. Tướng
Eisenhower không đồng ư với Thượng Nghị
Sĩ Taft và nhóm bảo thủ của ông này, bởi v́
ông Eisenhower tin tưởng rằng Hoa Kỳ không
thể sống trong ḥa b́nh và tự do mà lại tránh né
các vấn đề xẩy ra tại các nơi khác trên
thế giới. Nhiều nhà lănh đạo
đảng Cộng Ḥa thúc dục Tướng Eisenhower
ra ứng cử Tổng Thống Hoa Kỳ vào năm
1952, lấy cớ rằng chỉ có ông Eisenhower mới
có thể đoàn kết hai khối bảo thủ và
cấp tiến, có thể giải quyết các vấn
đề làm chia rẽ đất nước. Các
người thuộc đảng Dân Chủ cũng
muốn Tướng Eisenhower làm ứng viên Tổng
Thống bởi v́ danh tiếng của ông và cũng v́
ông Eisenhower không dính mắc vào hoàn cảnh bất ḥa
của các đảng phái.
Lúc đầu, Tướng Eisenhower
đă từ chối đề nghị kể trên. Ông
đă gửi một bức thư vào năm 1948 cho
một tờ báo tại New Hampshire, xác nhận rằng
các người lính chuyên nghiệp phải tránh
việc mưu cầu các chức vụ cao trong chính
quyền và ông cũng không muốn chống lại các
đường lối của Tổng Thống Truman
bởi v́ chính ông là người đă phác thảo ra
các chính sách pḥng thủ.
|
Khẩu hiệu tranh cử của Eisenhower
|
Tuy
nhiên, Tổng Thống Truman đă
chọn việc không ra tái tranh cử, ngoài ra trên toàn
quốc Hoa Kỳ đă có các hội gọi tên là
Hội Ike (Ike Clubs) ủng hộ Tướng Eisenhower.
Trước hoàn cảnh này, ông
Eisenhower đă rút lui khỏi Quân Đội mà không hưởng
quyền lợi vào tháng 6 năm 1952, chấp nhận làm
ứng viên Tổng Thống cho đảng Cộng Ḥa
bởi v́ ông cho rằng các chính sách của đảng
Dân Chủ đề cao quyền lực của chính
quyền trung ương.
Vào năm 1952, Thượng Nghị Sĩ Robert A. Taft
là ứng viên dẫn đầu của đảng
Cộng Ḥa, nhưng tại Đại Hội Đảng
tổ chức ở Chicago, ông Henry Cabot Lodge, Jr. và các
đảng viên Cộng Ḥa cấp tiến khác, đă
giúp ông Eisenhower thắng trong lần bỏ phiếu
thứ nhất. Sau đó, một thượng nghị sĩ
trẻ tuổi thuộc tiểu bang California là ông Richard
Nixon được chọn làm ứng viên Phó
Tổng Thống. Phía đảng Dân Chủ, họ
đă chọn ông Thống Đốc Adlai E. Stevenson
thuộc tiểu bang Illinois, làm ứng viên Tổng
Thống và Thượng Nghị Sĩ John J. Sparkman,
thuộc tiểu bang Alabama, làm ứng viên Phó Tổng
Thống.
Cuộc tranh cử bắt đầu tiến hành
chậm chạp. Ông Eisenhower đă dùng rất hữu
hiệu một phương tiện truyền thông
mới, là truyền h́nh, để biến các cuộc
vận động tranh cử thành các đám rước
lớn, rầm rộ. Tại các nơi, mọi người
đă đón chào ông Eisenhower và ca tụng ḷng ái
quốc của ông, họ hy vọng nơi ông một chính
quyền trong sạch và chống lại các đe
dọa của chủ nghĩa cộng sản. Ông
Eisenhower cũng lên tiếng chỉ trích cách giải
quyết chiến tranh Triều Tiên của Tổng
Thống Truman, ông hứa hẹn với cử tri: "Tôi
sẽ đi Triều Tiên" để giúp vào công
việc chấm dứt chiến tranh.
Sự liêm chính và tư cách của ông Eisenhower đă
được dân chúng Hoa Kỳ vào thời kỳ
đó đánh giá cao hơn là tầm vóc trí thức
của ứng viên Stevenson. Kết
quả của cuộc bầu cử Tổng Thống năm
1952 là ông Eisenhower đă thắng ông Stevenson dễ dàng,
với 442/ 89 phiếu cử tri đoàn. Về
phiếu phổ thông, tỉ lệ là 33,937,252 trên
27,314,992 hay thắng 55 % phiếu và sau kỳ bầu
cử này, đảng Cộng Ḥa đă
kiểm soát được cả hai Viện thuộc
Quốc Hội.
7/ Nhiệm kỳ thứ nhất
của Tổng Thống Dwight D. Eisenhower (1953-1957).
|
Tổng Thống Eisenhowser
h́nh chụp năm 1959
|
Ông
Dwight D. Eisenhowr đắc cử chức vụ Tổng
Thống Hoa Kỳ với cả hai ưu và khuyết
điểm: ông có tài về cách quản trị hữu
hiệu, hiểu rơ vấn đề đối
ngoại nhưng thiếu kinh nghiệm khi phải đối
phó với các vấn đề quốc nội. Ông
Eisenhower đă chọn lựa những nhân vật có
khả năng mà ông tin cậy, để ủy thác
nhiều quyền hành, chọ họ chịu trách
nhiệm từng khu vực của chính quyền. Ông
Eisenhower tuyên bố: "Thật là sai
lầm nếu cho rằng tất cả khôn ngoan đều
thuộc về vị Tổng Thống, là tôi", và
ông tin tưởng rằng nhiều vấn đề khó
khăn nên được giải quyết tại các
địa phương hơn là chờ quyết định
của chính quyền Liên Bang.
Không lâu sau khi ông Eisenhower ngồi tại Ṭa Nhà
Trắng, Bộ Y Tế, Giáo Dục và An Sinh (the
Department of Health, Education and Welfare) được thành
lập, đứng đầu là bà Oveta Culp Hobby và
sự bổ nhiệm này đă nâng tổng số nhân
vật trong nội các lên 10 vị.
Các mục tiêu quốc nội đầu tiên của
Thổng Thống Eisenhower là cân bằng ngân sách,
giảm bớt thặng dư nông phẩm bằng cách
hạ bớt phần yểm trợ giá, giảm bớt
các chi phí của chính quyền trung ương, đặt
ra chương tŕnh ḷng trung thành (the loyalty program)
kiến cho bớt đi các cuộc điều tra
về sự nghi ngờ cộng sản của Thượng
Nghị Sĩ McCathy. Về đối ngoại, Tổng
Thống Eisenhower nhấn mạnh tới sự hợp tác
chặt chẽ với các quốc gia đồng minh.
Vào năm 1956, chính quyền trung
ương đă đạt được một
số thặng dư nhỏ, quân đội Hoa Kỳ
được tổ chức lại với nhiều vơ
khí mới về nguyên tử. Quốc Hội cũng
thông qua một số cải cách ngân sách, hệ
thống thuế được xét lại, hệ
thống an sinh xă hội được mở rộng và
tiền lương tối thiểu được tăng
lên là 1 mỹ kim 1 giờ.
Tổng Thống Eisenhower cũng chấp thuận
nhiều công tŕnh công cộng tốn kém nhiều
tỉ mỹ kim, trong số này có Hải Lộ St.
Lawrence (the St. Lawrence Seaway), bắt đầu khởi công
vào năm 1954 và hoàn thành vào năm 1959. Hệ thống
xa lộ liên bang (the interstate highway system) cũng
được bắt đầu vào năm 1956 nhưng
dự án về một đập nước trên gịng
sông Colorado bị chỉ trích nhiều và đă bị bác
bỏ.
Từ năm 1950, Thượng Nghị Sĩ Joseph R.
McCathy, thuộc tiểu bang Wisconsin, đă đứng
đầu một tiểu bang trong Quốc Hội Hoa
Kỳ, để t́m kiếm các người cộng
sản nằm vùng trong chính quyền. Ông McCathy đă
tố cáo – không có bằng cớ – rằng có
nhiều gián điệp cộng sản nằm trong
Bộ Ngoại Giao và trong Quân Đội và ông cũng
muốn cấm đoán các sách mà ông cho rằng đă
do các người cộng sản viết ra. Ông McCathy
đề nghị loại bỏ một số sách
nằm trong các thư viện của Bộ Ngoại
Giao.
Vào tháng 6 năm 1953, trong một bài diễn văn đọc
tại Đại Học Dartmouth, Tổng Thống
Eisenhower đă khuyến cáo các thính giả trẻ "đừng
theo các kẻ đốt sách" (Don't join the book burners)
nhưng v́ tư cách của vị Tổng Thống, ông
Eisenhower không chỉ trích công khai ông McCathy. Các hành
động thái quá của ông McCathy đă khiến cho
Thượng Viện phải kiềm chế ông này,
rồi vào tháng 12 năm 1954, đă lên án ông McCathy là có
những hành vi không thích hợp với một vị thượng
nghị sĩ. Do vậy, ảnh hưởng của ông
McCathy dần dần suy giảm.
Một khó khăn khác gây ra do một vị trong Nhóm Già
Bảo Thủ (the Old Guard) là Thượng Nghị Sĩ
John W. Bricker, thuộc tiểu bang Ohio, đ̣i hỏi
rằng các hiệp ước mà Tổng Thống kư
kết phải có sự chấp thuận của Thượng
Viện Hoa Kỳ. Tổng Thống Eisenhower đă
phản đối mọi biện pháp làm giảm đi
quyền hạn của một vị Tổng Thống
khi thực hành các chính sách đối ngoại và
kết quả là các vị Thượng Nghị Sĩ
ủng hộ Tổng Thống Eisenhower đă phủ
quyết đề nghị kể trên.
Vào nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống
Eisenhower, một cuộc suy thoái kinh tế nhẹ đă
xẩy ra và nhiều người quy trách nhiệm này là
do các chính sách tiền tệ của ông George M. Humphrey,
vị Bộ Trưởng Ngân Khố theo Đảng
Cộng Ḥa. Đảng Cộng Ḥa cũng mất
phần kiểm soát hai Viện thuộc Quốc Hội
vào cuộc bầu cử giữa khóa của năm 1954,
và cho tới cuối nhiệm kỳ thứ nhất,
Tổng Thống Eisenhower đă phải làm việc
với một Quốc Hội kiểm soát do Đảng
Dân Chủ, đây là t́nh trạng khó khăn khi cần
có các chương tŕnh được sự ủng
hộ của Quốc Hội.
Vào tháng 12 năm 1952 khi tranh cử, ông Eisenhower có
hứa hẹn với cử tri Hoa Kỳ rằng ông
sẽ chấm dứt cuộc Chiến Tranh Triều Tiên
rồi một tháng sau khi đắc cử, Tổng
Thống Dwight Eisenhower đă đến thăm chiến
trường Triều Tiên, nhưng cuộc đ́nh
chiến đă không được thực hiện ngay
sau đó mà phải chờ tới ngày 27/ 7/1953 mới có
đ́nh chiến thực sự. Sự việc này
một phần do cái chết của nhà độc tài
Stalin và một phần cũng do phe Cộng Sản e
ngại quân lực Hoa Kỳ xử dụng tới
sức mạnh nguyên tử.
Cũng vào thời kỳ này, Tổng Thống Eisenhower
đă dùng Cơ Quan Trung Tâm T́nh Báo CIA (the Central
Intelligence Agency) thực hiện các hoạt động
ngầm chống lại các chính phủ được
phe Cộng Sản yểm trợ và cơ quan kể trên
vào giữa thập niên 1950, đă giúp công vào việc
lật đổ các chính quyền tại Guatemala và
Iran.
Trong bài diễn văn đọc tại Liên Hiệp
Quốc vào tháng 12 năm 1953, Tổng Thống Eisenhower
khuyên thế giới nên dùng sức mạnh nguyên
tử vào mục đích ḥa b́nh. Các đại
biểu Liên Hiệp Quốc đă vỗ tay tán thưởng
nhiệt liệt với mức độ chưa
từng thấy tại Sảnh Đường Liên
Hiệp Quốc, rồi sau đó, Cơ Quan Nguyên Tử
Năng Quốc Tế (the International Atomic Energy Agency)
đă được phát triển theo đề
nghị của Tổng Thống Dwight D. Eisenhower.
Về đối ngoại, tuy Tổng Thống Eisenhower
quy định các kế hoạch với nhiều hy
vọng kết thúc cuộc Chiến Tranh Lạnh, nhưng
các chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ hầu như
do Ngoại Trưởng John Foster Dulles thi hành và ông
Dulles thường có các lập trường và biện
pháp cứng dắn với chế độ Cộng
Sản, thường dùng các cuộc tấn công
ngoại giao với chủ đích giải thoát các dân
tộc bị đàn áp c̣n nằm bên trong "Bức Màn
Sắt".
Tổng Thống Dwight Eisenhower cũng thành công trong
việc khiến cho nước Áo thoát khỏi cảnh
bị chiếm đóng sau Thế Chiến Thứ Hai
bởi bốn cường quốc và nền độc
lập của nước này được phục
hồi vào năm 1955.
Sau cái chết của nhà độc tài Joseph Stalin vào tháng
3 năm 1953, các liên lạc ngoại giao giữa Hoa
Kỳ và Liên Xô dần dần được cải
thiện. Vào tháng 7 năm 1955, các nhà lănh đạo
của Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh và Pháp, đă tới
dự cuộc họp thượng đỉnh tổ
chức tại Geneva, Thụy Sĩ, và trong dịp này,
Tổng Thống Eisenhower đề nghị một
cuộc thỏa thuận gọi là "mở rộng
bầu trời" (Open Skies) theo đó Hoa Kỳ và Liên
Xô cho phép các máy bay kiểm soát các căn cứ quân
sự, nhưng Liên Xô đă từ chối đề
nghị kể trên, rồi sau cuộc hội nghị các
ngoại trưởng được thực hiện vào
tháng 10 năm 1955, hai phe Hoa Kỳ và Liên Xô đă xa cách
nhau hơn trong các vấn đề cụ thể,
rồi thái độ thật thà của Tổng
Thống Eisenhower trước các vấn đề đối
ngoại đă khiến cho Liên Xô dần dần xâm
nhập vào vùng Trung Đông.
Không lâu sau đó, Liên Xô bắt đầu viện
trợ quân sự cho xứ Ai Cập và quốc gia này
đă gây chiến với nước Do Thái mà không tuyên
chiến. Ai Cập cũng đ̣i hỏi Hoa Kỳ
phải viện trợ cho họ để xây dựng
một đập nước lớn tại Aswan trên gịng
sông Nile và khi Hoa Kỳ từ chối, Ai Cập đă
nhận viện trợ từ Liên Xô. Sau đó không lâu,
Tổng Thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser đă quốc
hữu hóa Kênh Đào Suez nên vào ngày 29/10/1956, ba nước
Anh, Pháp và Do Thái đă tấn công Ai Cập để
chiếm lại kênh đào này bởi v́ đây là
thủy lộ nối liền miền Địa Trung
Hải với Hồng Hải và cũng là con đường
vận chuyển dầu hỏa từ các miền Trung
Đông.
Trước sự việc này, chính quyền của
Tổng Thống Eisenhower đă từ chối ủng
hộ 3 nước đồng minh cũ kể trên và
ra lệnh ngưng ngay các khoản tiền dự tính cho
nước Anh vay và tại Liên Hiệp Quốc, Hoa
Kỳ kêu gọi một cuộc ngưng bắn. Trong bài
diễn văn tại nơi này, Tổng Thống Dwight
Eisenhower đă nói: "Không thể có luật pháp
nếu duy tŕ một hành động quốc tế cho nước
bạn, khác với cho kẻ thù". V́ vậy hai nước
Anh và Pháp đă bất b́nh trước lời nói
kể trên và khi quân đội Liên Hiệp Quốc
tới Kênh Đào Suez, liên quân Anh Pháp đă dần
dần rút lui và cuộc xâm lăng Ai Cập kể trên
chấm dứt.
Vào tháng 9 năm 1955, trong kỳ nghỉ hè trên rặng
núi Rocky Mountains thuộc tiểu bang Colorado, Tổng
Thống Dwight Eisenhower bị một cơn đau tim (a
heart attack). Ông đă sớm b́nh phục nhưng vẫn
phải nằm bệnh viện trong tháng 8, vào kỳ
sinh nhật thứ 65, rồi qua tháng 12 th́ ông trở
lại Thủ Đô D.C. Vấn đề bị đau
tim của ông Eisenhower đă gây ra các câu hỏi
liệu Tổng Thống Eisenhower c̣n đủ sức
khỏe để ra tranh cử nhiệm kỳ hai không?
V́ không t́m ra người đủ kinh nghiệm để
thay thế ḿnh nên vào tháng 2 năm 1956, ông Eisenhower
đă tuyên bố sẽ ra tranh cử nhiệm kỳ
hai. Ông bắt đầu vận động tranh cử
nhưng vào tháng 6 năm đó, ông lại bị
rối loạn đường ruột (an intestinal
disorder = ileitis), cần phải giải phẫu. T́nh
trạng này khiến cho các bạn của ông và các người
đối lập nghi ngờ ông có thể gánh vác các
trọng trách?
Vào cuộc bầu cử năm 1956, đảng Dân
Chủ đă chọn ông Adlai Stevenson làm ứng viên
Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ Estes
Kefauver, thuộc tiểu bang Tennessee, làm ứng viên Phó.
Ông Eisenhower chọn ông Richard M. Nixon, một thượng
nghị sĩ thuộc tiểu bang California, đứng
chung liên danh. Vào dịp này, đảng Dân Chủ đă
không chỉ trích đích danh ông Eisenhower mà mô tả
vị Tổng Thống đương nhiệm là
một người vui vẻ, ngây thơ trước các
vấn đề chính trị quốc tế, trong khi ông
Richard Nixon bị coi là người theo chủ thuyết
McCathy và có thể làm phục hồi cách săn lùng
những kẻ bị nghi ngờ là cộng sản.
Ông Eisenhower đă vận động tranh cử bằng
h́nh ảnh của một nhân vật phục vụ không
v́ tư lợi và ông kêu gọi mọi người không
thuộc đảng phái nào hăy ủng hộ ông. Cách
giải quyết cuộc khủng hoảng tại Kênh
Đào Suez của Tổng Thống Eisenhower và sự
phục hồi sức khỏe của ông đă làm cho các
cử tri Hoa Kỳ tin tưởng nơi ông nhiều hơn
và họ đă bỏ phiếu để ông Eisenhower
thắng lợi lớn hơn kỳ trước: ông
Eisenhower đoạt được 41 tiểu bang và 457
phiếu cử tri đoàn trong khi ông Stevenson chỉ
thắng tại 7 tiểu bang và thu được 73
phiếu cử tri đoàn. Về phiếu bầu
phổ thông, ông Eisenhower dẫn trước với
35,589,477 phiếu so với 26,035,504 phiếu của ông
Stevenson. Sau cuộc bầu cử này, Tổng Thống
Dwight Eisenhower đă được tín nhiệm vẻ
vang nhưng đảng Cộng Ḥa của ông lại
thua sút, không thể kiểm soát được một
trong hai Viện của Quốc Hội.
8/ Nhiệm kỳ thứ hai
của Tổng Thống Dwight Eisenhower (1957- 1961).
Trong thời gian phục vụ quân đội, Tướng
Eisenhower đă phải đưa gia đ́nh di chuyển
qua nhiều nơi khác nhau nhưng khi đă đắc
cử vào Ṭa Nhà Trắng, giai đoạn 8 năm là
thời gian dài nhất mà gia đ́nh ông Eisenhower lưu
ngụ tại một nơi. Vào năm 1950, ông Eisenhower
mua một nông trại tại Gettysburg, thuộc tiểu
bang Pennsylvania, đây là căn nhà sở hữu đầu
tiên của gia đ́nh ông.
Ông Eisenhower có thú tiêu khiển là đánh golf. Những
khách qua đường đôi khi trong thấy Tổng
Thống Eisenhower đánh banh trong sân cỏ của Ṭa Nhà
Trắng. Ông cũng ưa thích nấu ăn và thường
hay mời các bạn bè lại dùng thứ thịt nướng
trên bếp than hồng ngoài trời.
Trong nhiệm kỳ thứ hai, Tổng Thống Eisenhower
đă gặp vấn đề rắc rối là
phạm vi nhân quyền. Ông vẫn mong muốn chấm
dứt t́nh trạng kỳ thị màu da đối
với các người Mỹ da đen nhưng ước
mong sự chấm dứt này theo trật tự và
thận trọng. Vào tháng 9 năm 1957, tại thành
phố Little Rock thuộc tiểu bang Arkansas, Thống
Đốc Orval E. Faubus đă coi thường lệnh
của Ṭa Án Liên Bang, đă dùng quân Cảnh Vệ
Quốc Gia (the Arkansas National Guard) ngăn cản không cho
phép các học sinh da đen vào học cùng trường
với các học sinh da trắng. V́ vậy, Tổng
Thống Dwight Eisenhower đă phải ra lệnh đặt
quân Cảnh Vệ Quốc Gia dưới quyền
kiểm soát của Liên Bang và gửi Sư Đoàn
Nhảy Dù thứ 101 (the 101st Airborne Division) tới Little
Rock để bắt nhà chức trách địa phương
thi hành theo lệnh của Ṭa Án và bảo vệ các
học sinh da đen. Trong bài diễn văn đọc trên
truyền h́nh, Tổng Thống Dwight Eisenhower đă
cắt nghĩa rằng ông đă hành động như
vậy để pḥng ngừa các rối loạn sẽ
xẩy ra thêm.
Vào ngày 4 tháng 10 năm 1957, Liên Xô đă phóng đi
vệ tinh nhân tạo Sputnik 1. Đây là vệ tinh đầu
tiên được đặt vào quỹ đạo
của trái đất. Tiếp theo, ngày 3 tháng 11 năm
1957, Liên Xô lại thành công khi đưa lên không gian
vệ tinh Sputnik 2, nặng hơn vệ tinh trước,
lại mang theo con chó Laika. Sự việc kể trên
đă khiến cho Liên Xô thắng hơn Hoa Kỳ
về mặt kỹ thuật và danh dự của người
dân Hoa Kỳ đă bị tổn thương v́ họ
vẫn thường tự hào về phương
diện khoa học. Người dân Hoa Kỳ c̣n e
sợ rằng Liên Xô sẽ dùng các hỏa tiễn
tầm xa, đủ mạnh, để bắn tới
lục địa Bắc Mỹ. Để đối phó
lại, Tổng Thống Dwight Eisenhower đă phải
ủng hộ hai đề án tốn kém, đó là chương
tŕnh bắt kịp Liên Xô về Kỹ Thuật Không
Gian và chương tŕnh thứ hai là chính quyền Liên
Bang phải giúp các trường học phát triển giáo
dục khoa học. Kết quả là vào ngày 31 tháng 1 năm
1958, vệ tinh đầu tiên của Hoa Kỳ Explorer I,
đă bay ṿng quanh trái đất và từ nay, bắt
đầu một cuộc chạy đua trên không trung.
Cũng vào đầu nhiệm kỳ thứ hai, Tổng
Thống Dwight Eisenhower đă gặp phải các khủng
hoảng tại vùng Trung Đông và châu Á. Vào năm
1957, Tổng Thống Eisenhower đă đề nghị giúp
đỡ tài chính và quân sự cho các nước Trung
Đông nào chống lại sự xâm lăng của phe
Cộng Sản, và chính sách này được gọi là
Chủ Thuyết Eisenhower (the Eisenhower Doctrine), đă
được Quốc Hội Hoa Kỳ chấp
thuận. Vào tháng 7 năm 1958, một cuộc cách
mạng theo cánh tả (a left-wing revolution) đă xẩy
ra tại Iraq, nên Tổng Thống Eisenhower đă
phải gửi quân đội Mỹ tới nước
Lebanon để bảo vệ chính phủ thân phương
Tây của xứ sở này. Sự can thiệp của
Hoa Kỳ đă khiến cho ḥa b́nh được văn
hồi và bảo vệ được các quyền
lợi dầu mỏ của Hoa Kỳ trong vùng Trung Đông.
Quân đội Mỹ sau đó đă rút lui vào tháng 10
năm đó. Một rắc rối khác xẩy ra
tại xứ Venezuela khi Phó Tổng Thống Richard Nixon
thăm viếng thiện chí xứ này, tại Caracas. Ông
Nixon đă bị đám đông dân chúng thù nghịch
tấn công và suưt gặp nguy hiểm tới tính
mạng.
Qua tháng 8 năm 1958, tại châu Á, Trung Cộng bắt
đầu pháo kích hai đảo Kim Môn (Quemoy) và Mă
Tổ (Matsu) do quân đội Đài Loan chiếm đóng.
Tổng Thống Eisenhower đă ra lệnh cho Hải Quân
Hoa Kỳ hộ tống các đoàn tầu tiếp
tế từ Đài Loan cho hai ḥn đảo kể trên.
Sự giúp đỡ trực tiếp này đă chấm
dứt các đe dọa của Trung Cộng đối
với Đài Loan.
Trong nhiệm kỳ thứ hai, Tổng Thống Dwight
Eisenhower đă cố gắng liên lạc thiện
cảm với các nhà lănh đạo Dân Chủ tại
Quốc Hội và trong phần lớn sự việc,
Tổng Thống đă thành công. Tuy nhiên, ông Eisenhower cũng
gặp phải buồn phiền khi các nhà điều
tra Hạ Viện khám phá ra rằng vị phụ tá chính
của Tổng Thống là ông Sherman Adams đă nhận
các quà tặng từ một thương gia bông vải
của thành phố Boston, đồng thời cũng là
một kẻ chạy chọt (a lobbyist). Kết quả
sau cùng là ông Adams đă phải từ chức vào tháng
9.
Trong hai năm 1958 và 1959, một cuộc suy thoái kinh
tế đă xẩy ra: tỉ lệ thất nghiệp tăng
lên tới 7.3 % vào tháng 7/1958 và mặc dù kinh tế có
chiều hướng phục hồi vào mùa thu năm
1958 này, nhưng sự kiện kể trên đă
khiến cho đảng Dân Chủ thắng lớn trong các
cuộc bầu cử giữa khóa vào tháng 11 năm 1958.
Sau khi nhà độc tài Stalin qua đời, Thủ Tướng
Liên Xô là ông Nikita Khrushchev đă đồng ư nối
lại liên lạc ngoại giao với Hoa Kỳ. Ông
Khrushchev đă viếng thăm Hoa Kỳ vào tháng 9 năm
1959. Đây là cuộc viếng thăm Hoa Kỳ đầu
tiên của một nhân vật hàng đầu của Liên
Xô. Thủ Tướng Khrushchev cũng hẹn gặp
Tổng Thống Eisenhower tại cuộc họp thượng
đỉnh tổ chức tại thành phố Paris vào năm
sau, 1960, nhưng vào tháng 5 của năm này, trước
khi Tổng Thống Eisenhower lên đường qua Paris,
Liên Xô đă bắn rơi một phi cơ do thám U-2
của Hoa Kỳ v́ phi cơ này có nhiệm vụ
chụp h́nh các căn cứ quân sự của Liên Xô.
Tại Paris, Thủ Tướng Khrushchev đ̣i hỏi
Hoa Kỳ phải xin lỗi về sự việc kể
trên. Khi Tổng Thống Eisenhower từ chối xin
lỗi, ông Khrushchev đă bước ra khỏi pḥng
họp và rút lại lời mời Tổng Thống Hoa
Kỳ qua thăm Liên Xô. Trong khi đó tại Quốc
Hội, các đại biểu Dân Chủ đă chỉ
trích Tổng Thống Eisenhower là làm nguy hiểm nền
ḥa b́nh v́ các công tác do thám và phê phán chính quyền
hiện tại là thua kém Liên Xô trong việc phát
triển các hỏa tiễn và các vũ khí không gian. Các
lời chỉ trích này có mục đích ảnh hưởng
tới cuộc tranh cử vào cuối năm 1960.
Vào cuối nhiệm kỳ thứ hai của Tổng
Thống Eisenhower, ông Fidel Castro trở nên nhà độc
tài của xứ Cuba vào năm 1959 và biến đổi
Cuba thành một nước cộng sản. Năm 1960,
ông Castro đă quốc hữu hóa tất cả các công
ty Hoa Kỳ tại Cuba, v́ vậy vào ngày 3 tháng 1 năm
1961, Tổng Thống Eisenhower đă cắt đứt
mọi liên lạc ngoại giao với xứ Cuba.
Trước đó, vào năm 1951, Tu Chính Án thứ 22
đă trở thành một đạo luật, giới
hạn mỗi Tổng Thống tối đa hai nhiệm
kỳ và ông Dwight Eisenhower là vị Tổng Thống
đầu tiên gặp giới hạn của Hiến Pháp
kể trên.
9/ Hồi Hưu và cuộc Bầu Cử năm 1960.
Khá lâu trước kỳ Đại Hội của
đảng Cộng Ḥa, Tổng Thống Dwight Eisenhower
đă đề nghị Phó Tổng Thống Richard M.
Nixon là người sẽ kế vị của ḿnh và ông
Nixon đă nhận được các công tác thích
ứng để quảng cáo danh tiếng, đồng
thời các đại biểu Cộng Ḥa cũng vui
vẻ chấp nhận đề nghị này.
Về phía đảng Dân Chủ, các đại
biểu đă chọn ông John F. Kennedy, một vị Thượng
Nghị Sĩ trẻ tuổi, theo đạo Cơ Đốc,
với vẻ hấp dẫn và tài hùng biện, luôn
nhắc tới công tác cập nhật hóa chủ
thuyết "Thách Đố Mới" (the New Deal
Doctrine). Kết quả của cuộc bầu cử năm
1960 là ông John F. Kennedy đă thắng cử.
Ông Dwight Eisenhower ra khỏi Ṭa Nhà Trắng vào tháng 1 năm
1961, trở về nghỉ hưu tại nông trại
của ông ở Gettysburg và đôi khi tại vùng Palm
Springs, thuộc tiểu bang California. Tại miền quê,
ông Eisenhower nuôi gia súc, bắt đầu viết ba
cuốn hồi kư và các hoạt động giải trí
của ông gồm đánh golf, câu cá, săn bắn và
vẽ tranh.
Vào các năm đầu của thời kỳ về hưu,
ông Dwight Eisenhower là một nhân vật mạnh khỏe và
năng hoạt động. Tại thời gian này,
Quốc Hội Hoa Kỳ đă phục hồi cấp
bậc Đại Tướng 5 Sao của ông và
nhiều trường Đại Học đă trao
tặng ông các bằng cấp Danh Dự. Các Tổng
Thống Kennedy và Johnson đă coi ông là một chính khách
cao niên và hiểu biết, thường xin ông các
lời khuyên khi gặp các vụ khủng hoảng
quốc tế.
Qua tháng 8 năm 1965, một trận đau tim nặng
nề đă không cho phép ông Eisenhower tham dự vào các công
việc công ích. Ông thường phải điều
trị tại bệnh viện rồi cuối cùng qua
đời tại Bệnh Viện Walter Reed, thuộc
Thủ Đô D.C. vào ngày 28/3/1969 v́ bị liệt tim
(heart failure). Ông Dwight Eisenhower được chôn cất
tại Abilene, tiểu bang Kansas.
Theo cuộc thăm ḍ dân ư của Viện Gallup phổ
biến vào tháng 12 năm 1968, danh tiếng của Tướng
Dwight D. Eisenhower không bị suy giảm và ông vẫn
đứng đầu danh sách các nhân vật được
người dân Hoa Kỳ khâm phục trong các thập niên
sau này.
Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica
Encyclopedia, The Complete Book of U.S. Presidents by William A. Degregorio,
Gramercy Books, N.Y. 2002.
https://en.wikipedia.org/wiki/Dwight_D._Eisenhower
|