Bức
danh họa "Tướng Cornwallis
đầu hàng" sau khi quân Anh thua trận ở Yorktown
(September 28 – October 19, 1781), đánh dấu sự thành công
của cuộc cách mạng Hoa Kỳ và chấm dứt
chiến tranh.
Trong h́nh, ở giữa, là tướng Charles O'Hara
đại diện quân đội Anh, và tướng Benjamin
Lincoln đại diện quân đội Hoa Kỳ. Bên
trái là quân đội Pháp và bên phải là quân đội
Hoa Kỳ.
-- Tranh vẽ bởi John Trumbull, năm 1820
Phạm Văn Tuấn
1/ Trận Lexington, Concord và
Boston.
Vào
năm 1775, đă có sự chia rẽ trong dân chúng
của 13 xứ thuộc địa Bắc Mỹ.
Một số người dân muốn đ̣i hỏi
nền độc lập khỏi nước Anh, họ
được gọi là các nhà "ái
quốc" (the Patriots). Đối lập với
họ là những người "trung thành" (the
Loyalists) với Vua George III, hoặc
là các đảng viên Tories. Các người
trung thành gồm có các thương gia và chủ đất
giàu sang, họ muốn duy tŕ nếp sống phong lưu
đang có sẵn. Họ cũng là các người dân
thường hănh diện là công dân của nước
Anh, hay những người không muốn bị lôi
cuốn vào chiến tranh, những người dân này
chống đối các nhà ái quốc, coi việc làm áp
lực đối với chính quyền Anh là bất
hợp pháp và vi hiến.
Trong khi đó vẫn có các chương tŕnh ḥa
giải sự khác biệt chính trị giữa nước
Anh và các xứ thuộc địa. Lord North cho
rằng nước Anh sẽ không đánh thuế các
xứ này nếu họ cung cấp đầy đủ
lợi tức cho binh lính Anh trú đóng tại Bắc
Mỹ. Edmund Burke lại muốn các người
thuộc địa tự quản trị và bỏ
phiếu quyết định về thuế vụ
của họ, c̣n William Pitt, lúc này là Lord Chatham,
mong muốn xét lại các đạo luật "cố
chấp" và hứa rằng Quốc Hội Anh sẽ
lại đánh thuế khi có sự đồng ư
của các hội đồng dân cử Bắc Mỹ.
Một số chính khách người Anh khác bằng ḷng
về sự đại diện của các xứ
thuộc địa tại Quốc Hội Anh. Cuối cùng,
tất cả các kế hoạch kể trên đều
thất bại và miền đất Bắc Mỹ mang
bầu không khí chiến tranh.
Tới
thời gian này, tại các tỉnh các nhà ái quốc
đă tổ chức các toán quân Minutemen, đây là
những dân quân phải sẵn sàng chiến đấu
vào giờ phút thông báo. Mặt khác, các kẻ "trung
thành" phải tuyên thệ với lư tưởng
"ái quốc", một số người bị
bắt giam, một số khác có đất đai và tài
sản bị tịch thu và bị đẩy ra khỏi
cộng đồng. Vào thời kỳ này, các người
trung thành phải chọn lựa, hoặc là chống
lại các người ái quốc, hoặc bỏ
chạy. Hơn 50,000 người trung thành đă theo quân
đội Anh hoặc ở lại làm các kẻ t́nh báo.
Tại xứ New York, có 15,000 người trung thành
trở nên binh lính Anh và 8,000 người là dân trung thành
địa phương. Trong 8 năm tiếp theo, đă
có 80,000 người trung thành rời bỏ các xứ
thuộc địa, chạy qua sống tại phần
đất phía bắc của Hồ Erie và sau này, họ
đă lập nên xứ Canada nói tiếng Anh.
|
Paul Revere
|
Vào
thời kỳ này, dân chúng cư ngụ đông đảo
nhất là tại phần đất giữa hai thành
phố Boston và Philadelphia và cũng chính
tại nơi này mà tinh thần chống lại người
Anh lên cao nhất. Đêm hôm 18 rạng ngày 19 tháng 4 năm
1775, Tướng Gage theo lệnh của Thủ Tướng
Lord North, đă phái đi 800 binh lính tới thị
trấn Concord cách thành phố Boston 29 cây số (vào
khoảng 18 dậm) để tịch thu một số súng
đạn của dân quân địa phương.
Việc xuất quân này đă không tránh khỏi sự
canh chừng của các nhân viên thuộc Ủy Ban An Ninh
(the Committee of Safety). Một bác thợ bạc của thành
phố Boston tên là Paul Revere đă cưỡi
ngựa suốt đêm, đi thông báo cho dân làng
biết rằng binh lính Anh đang di chuyển tới
Lexington để bắt hai ông Samuel Adams, John Hancock và
tới Concord để tịch thu súng đạn.
Sáng ngày hôm sau, 19-4, binh lính Anh khi tới thị
trấn Lexington, đă gặp một nhóm vào khoảng
70 dân quân ái quốc. Vị chỉ huy binh lính Anh là Thiếu
Tá John Pitcairn đă ra lệnh cho các dân quân thuộc
địa buông súng. Không ai tuân lệnh. Súng nổ. 8 dân
quân bị chết và 1 người bị thương
nặng là Đại Úy John Parker thuộc toán dân
quân. Sau đó, toán dân quân rút lui và binh lính Anh tiếp
tục tiến đến thị trấn Concord cách
đó vài dậm. Tại nơi này, súng đạn
của dân quân đă được tẩu tán. Bính lính
Anh lục soát vô hiệu rồi sau đó, đă đốt
nhiều căn nhà và t́m cách rút lui nhưng trên
đường về, họ đă bị dân quân
thuộc địa núp trong các bụi cây, các ṭa nhà
bắn sẻ. Khi trở về tới Boston, tổn
thất về phía binh lính Anh là 73 người bị
chết, 174 người bị thương và 26 người
mất tích. Về phía dân quân thuộc địa,
chỉ có 45 người bị thương với 49 người
bị chết.
Giao tranh tại Lexington và Concord đă
khiến cho các xứ thuộc địa Tân Anh Cát
Lợi kêu gọi mọi người dân cầm súng và
hội đồng dân cử xứ Massachusetts ra
lệnh cho dân quân vây hăm thành phố Boston.
Lúc khởi đầu, các người thuộc địa
chưa có một quân đội thống nhất.
Lực lượng quân sự của họ là các dân
quân địa phương thiếu huấn luyện, chưa
quen vâng lệnh cấp trên, cầm đầu bởi các
người chỉ huy không có kinh nghiệm. Tổ
chức quân đội này cũng chưa có một
hệ thống trung ương lo nơi ăn, chốn
ở, lo trả lương bổng cho các người lính
chiến, lo súng đạn và quân trang cho họ.
Trong khi đó 13 xứ thuộc địa chưa
biết đoàn kết, c̣n e ngại rằng mỗi
xứ phải gánh chịu các phần đóng góp
nhiều hơn và tất cả các địa phương
chưa biết hành động một cách thống
nhất, theo kế hoạch chung. Cuộc Cách Mạng là
một thứ ǵ mới mẻ và xa lạ.
Biến cố xẩy ra tại Lexington và Concord với các
toán dân quân địa phương tham chiến, với
số thiệt hại về cả hai phía khá cao, đă
khiến cho sự việc này được coi là
một cuộc nổi dậy có vơ trang chống lại
người Anh.
Ngày 10 tháng 5 năm 1775, các đại biểu
của các xứ thuộc địa lại hội
họp tại Philadelphia, lần này được
gọi là Quốc Hội Lục Địa Thứ Hai,
để đối phó với t́nh h́nh mới. Các
đại biểu đă sớm chấp nhận
Quốc Hội là một chính quyền trung ương
của "Các Thuộc Địa Liên Hiệp
Bắc Mỹ" (the United Colonies of America) và công
nhận toán quân vây hăm thành phố Boston thuộc "Quân
Đội Lục Địa" (Continental Army)
của họ.
|
George Washington
|
Quốc
Hội Lục Địa Thứ Hai cũng chỉ định
một nhà quư tộc 43 tuổi thuộc xứ Virginia làm
Tư Lệnh Quân Đội, đó là ông George
Washington. Nhiều lư do đă khiến cho ông
Washington được chọn lựa. Thứ nhất,
ông Washington đă là nhân viên của Hội Đồng
Dân Biểu Burgesses hay hội đồng dân cử
của xứ Virginia và vào thời gian này, Virginia là
xứ thuộc địa rộng lớn nhất.
Thứ hai, các xứ thuộc địa miền bắc
muốn lôi cuốn các xứ miền nam tham gia vào
cuộc chiến đấu. Thứ ba, ông
Washington đă là một quân nhân có kinh nghiệm, đă
từng tham chiến trong Cuộc Chiến Tranh 7 Năm,
đă là phụ tá của một vị tướng người
Anh và đang chỉ huy toán dân quân của địa phương
Virginia.
Ngoài các ưu điểm xuất
sắc về lập trường chính trị và quân
sự, ông George Washington c̣n là một nhân vật cao
lớn, uy nghiêm, có tinh thần vừa táo bạo,
vừa b́nh tĩnh và tự tin. Quốc Hội
đă yêu cầu ông Washington lập ra một kế
hoạch pḥng thủ thành phố New York, viết ra các
kế hoạch xây dựng quân đội, các quy
luật cho binh lính và các phương thức để
mua súng đạn.
2/ Tướng Washington chỉ huy Quân
Đội Lục Địa.
Khi
ông Washington nhận chức điều khiển quân
đội, binh lính của ông chỉ là các nông dân, các
thợ rừng, các công nhân tầm thường hay các
thư kư cấp thấp, họ phục vụ quân đội
theo hợp đồng với thời hạn ngắn hơn
một năm. Họ chỉ là những người lính
thiếu huấn luyện, thiếu thực phẩm,
quần áo và súng đạn.
Vào giai đoạn này, Quốc Hội
Lục Địa chưa có quyền đánh thuế lên
các xứ thuộc địa mà chỉ dám yêu cầu
từng hội đồng dân cử cung cấp ngân
khoản để mua súng đạn, chưa kể
tới thực phẩm và lương bổng của
binh lính. Trong khi đó, người lính được
trả lương th́ tiền bạc của họ là
loại tiền giấy rất ít giá trị do Quốc
Hội Lục Địa phát hành mà các thương gia
và các chủ quán rượu không muốn nhận,
họ ưa các đồng tiền vàng và tiền
bạc hơn. Quốc Hội Lục Địa cũng
chưa thể xin được trợ giúp từ các nước
bên ngoài trong khi tại Bắc Mỹ, các người giàu
có đều là những kẻ trung thành và các nhà ái
quốc không dám tịch thu tài sản của họ v́
e ngại sẽ gây nên làn sóng chống đối.
Với tinh thần và các phương
tiện chiến đấu ban đầu thiếu
thốn như vậy, không có dân quân địa phương
nào muốn kư kết hợp đồng phục vụ
quân đội lục địa lần thứ hai. Về
sau, vào năm 1776, ông George Washington đă phải
bi quan mà tuyên bố rằng "tinh
thần lính đánh thuê và bạc nhược như
vậy đă lan tràn tại mọi nơi khiến cho tôi
không ngạc nhiên nếu có một thảm bại
xẩy ra".
|
Vua George III
|
Về
phía quân đội Anh, do không thể tuyển mộ
các binh lính t́nh nguyện tại nước Anh nên Vua
George III đă mướn vào khoảng 30,000
lính đánh thuê giàu kinh
nghiệm tác chiến, phần lớn gốc từ các
miền Hesse-Kassel, Brunswick và Hesse-Hanau
của nước Đức mà người
Bắc Mỹ gọi chung là các người lính Hessians.
Các đạo quân Anh ngoài súng đạn, lương
thực, quân trang đầy đủ, c̣n được
yểm trợ bởi một hậu phương giàu có,
với tài nguyên kỹ nghệ và kinh nghiệm quân
sự, bởi một hạm đội tầu biển
có thể di chuyển tự do trên mọi bờ
biển mà không có một lực lượng nào
chống đối.
Quân Đội Lục Địa như
vậy đă có rất nhiều yếu kém nhưng
lại có một ưu điểm rất lớn, hơn
hẳn địch quân, đó là tính lưu động.
Họ được trang bị nhẹ nhàng, mở các
cuộc đột kích rồi lẩn tránh trong miền
thôn quê, nơi đă có các người dân ái quốc
yểm trợ cả về thực phẩm lẫn
chỗ ẩn náu.
Ngoài khó khăn phải đối phó với các vụ
bắn sẻ, quân đội Anh c̣n gặp trở
ngại về tiếp liệu. Người
Bắc Mỹ địa phương đă từ
chối cung cấp lương thực cho binh lính Anh
khiến cho các đồ tiếp tế phải chở
từ nước Anh trên các con tầu biển và
cuộc hải hành phải mất từ 2 tới 3 tháng
trên lộ tŕnh dài 3,000 dậm với các trắc
trở như băo táp, cướp biển…
Đồ vật tiếp liệu khi được
bốc dỡ lên bờ, lại phải được
chuyên chở tới các căn cứ ở gần, có pḥng
thủ cẩn thận. Quân đội Anh c̣n có một
nhiệm vụ khác là phải bảo vệ các người
trung thành, v́ vậy họ phải rút lui khỏi các căn
cứ ở xa, khó tiếp tế. Thực vậy, làm
sao quân đội Anh có thể kiểm soát nổi
một miền đất bao la, trải dài từ
xứ Maine ở phía bắc tới tận xứ Georgia
ở phía nam, lại nằm sâu vào trong đất
liền tới 300 dậm.
|
Trận Bunker Hill
|
Ngày
20-6-1775, Tướng George Washington nhận
nhiệm vụ do Quốc Hội Lục Địa giao
phó rồi lên đường đi Boston. Trong khi đó
Tướng Anh Thomas Gage mới nhận được
lực lượng tăng cường, nâng quân số
lên tới 8,000 người. Tướng Gage bèn cho quân
lính chiếm các điểm cao nh́n xuống thành
phố Boston là Charlestown ở phía bắc và Dorchester
tại phía nam, khi đó quân đội
Lục Địa dưới quyền của Trung Tá
William Prescott đóng chốt tại Breed's Hill.
Ngày 17-6, Tướng Gage sai Thiếu Tướng
William Howe với 2,500 bộ binh tiến đánh quân
đội Lục Địa và phải sau 3 lần
tấn công, dân quân Bắc Mỹ mới bỏ chạy
và thua trận tại Bunker Hill. Sau trận đánh
này, tổn thất của quân đội Anh là 1,000 người
vừa chết vừa bị thương, số
thiệt hại của quân đội Lục Địa
chỉ bằng nửa. Quân đội Bắc Mỹ
đă phải bỏ chạy khỏi Breed's Hill nên
bị coi là thua trận này nhưng nếu xét về
số thương vong th́ quân đội Anh không
phải là thắng.
Trong khi trận Bunker Hill chưa xẩy ra, Quốc
Hội Lục Địa đă gửi đơn
thỉnh nguyện (the Olive Branch Petition) tới Vua George
III của nước Anh, xác nhận ḷng trung thành
của người dân Bắc Mỹ đối với
nhà Vua và yêu cầu nhà Vua bác bỏ các chính sách
của những vị bộ trưởng dưới
quyền. Lời thỉnh nguyện kể trên đă
tới Vua nước Anh cùng lúc với tin tức
về trận đánh Bunker Hill khiến cho Vua George III
khước từ lời yêu cầu và vào ngày
23-8-1775, nhà Vua đă tuyên bố Tân
Anh Cát Lợi là xứ phản loạn.
Quốc Hội Anh cũng theo đó xác nhận sự
phản bội của mọi người dân thuộc
địa và tầu thuyền của họ đều
đáng bị tịch thu. Ngoài ra, số thiệt
hại của binh lính Anh tại trận đánh Bunker
Hill đă làm cho chính quyền Anh thấy rằng họ
đang phải đối đầu với một
cuộc chiến tranh đích thực và cũng v́
thế, Tướng Gage bị thay
thế bởi Tướng Howe.
Ngày 2-7-1775, Tướng George Washington tổ
chức và huấn luyện lại đạo quân dưới
quyền với quân số từ 13,000 tới 17,000.
Ông thấy rằng không thể đánh thành phố
Boston mà không có pháo binh chủ động. Tướng
Washington đành phải chờ tới mùa đông, lúc
tuyết đóng băng trên các con đường và gịng
sông, cho phép kéo đi các cỗ súng đại bác mà
hai đại tá Ethan Allen thuộc miền Vermont và
Benedict Arnold thuộc xứ Connecticut, đă
chiếm được từ quân đội Anh nhân
trận đánh đồn Ticonderoga bên hồ Champlain.
Vào
tháng 8 năm đó, lực lượng quân đội
Bắc Mỹ dưới quyền Tướng Richard
Montgomery đă đánh xứ Canada, chiếm thành
phố Montreal vào tháng 11 và vào tháng sau, sát
nhập với đạo quân của Đại Tá
Arnold, nhưng rồi quân đội
Bắc Mỹ đă bị thua trận tại Quebec và Tướng
Montgomery tử trận.
|
Quân đội Anh rút lui
khỏi Boston
|
Vào
mùa đông năm 1775-76, Đại Tá Henry Knox là
chỉ huy trưởng Pháo Binh của Tướng
Washington đă di chuyển được 59 khẩu
đại bác hạng nặng và súng cối, từ
Ticonderoga tới Boston. Đêm hôm 4-3-1776,
lực lượng của Tướng Washington đă
chiếm được Dochester Heights, đặt các
khẩu đại pháo hướng về hải
cảng Boston. Bị hướng súng bất ngờ, Tướng
Howe thấy rơ không thể giữ được thành
phố Boston nữa nên đành ra lệnh di tản. Ngày
17-3, hơn 11,000 quân đội Anh và 1,000 người
trung thành đă xuống tầu, rời đi Halifax
thuộc miền Nova Scotia. Đa số những người
trung thành này không bao giờ có cơ hội nh́n lại
thành phố Boston của họ.
Khi
quân lính Anh xuống tầu rút lui khỏi Boston, Tướng
Washington đă biết rơ rằng người Anh chưa
hẳn đă thua trận tại xứ thuộc địa.
Thực vậy, Vua George III và Quốc
Hội Anh đâu đă chịu bỏ cuộc và có
nguồn tin cho biết nước Anh đang tuyển
mộ các binh lính đánh thuê người Đức. Tướng
Howe sở dĩ rút lui là để tổ chức
lại lực lượng quân sự và chờ viện
binh gửi qua. Tướng Washington đă tiên đoán
rằng khi Tướng Howe trở lại th́ thành
phố New York với hải cảng rộng răi, với
nhiều sông rạch gần gịng sông Hudson nên rất
thuận tiện cho lực lượng Anh lên bờ.
Ngày 29-6-1776, Tướng Howe tới Sandy Hook, N.J.,
với một đoàn tầu biển chỉ huy do Đô
Đốc Richard Howe, một người anh em. Đoàn
tầu này đă chở qua Bắc Mỹ một lực
lượng viễn chinh của nước Anh lớn
nhất từ xưa tới nay. Nểu kể
cả 8,000 binh lính đánh thuê người Đức
th́ lực lượng quân sự này đông tới 32,000
người. Để đối đầu, Tướng
George Washington chỉ có ít hơn 20,000 quân, một
nửa trong số này là các người lính thiếu
kinh nghiệm. Cả hai phe đang chuẩn bị
trận chiến.
Vào tháng 11-1775, hy vọng ḥa giải với nước
Anh của các người miền Nam thuộc Tân
Thế Giới đă bị tiêu tan khi Thống Đốc
xứ Virginia là Lord John Dunmore đă trả tự do cho các
người nô lệ nào chống lại chủ của
họ và gia nhập vào quân đội Anh.
3/ Bản Tuyên Ngôn
Độc Lập.
|
Thomas Jefferson
|
Vào
thời kỳ các trận chiến xẩy ra tại
Lexington và Conconrd, rất ít người thuộc địa
muốn đ̣i hỏi độc lập khỏi nước
Anh. Phần lớn các nhà chính trị Bắc Mỹ
chỉ muốn một nền tự trị trong Đế
Quốc Anh. Tháng 6 năm 1775, Tướng Washington đă
hy vọng vào "nền ḥa b́nh và ḥa hợp
giữa mẫu quốc và các thuộc địa",
rồi ông Thomas Jefferson cũng trông đợi
sự ḥa giải.
Trong khi đó, Quốc Hội Anh không xét lại 5 đạo
luật "cố chấp" và vào tháng
8, Vua George III đă gọi các nhà "ái quốc"
Bắc Mỹ là các kẻ làm loạn (rebels). Vào tháng
10-1775, quân Anh đốt phá thành phố Portland, ME.,
làm cho hàng ngàn người thuộc địa gặp
cảnh không nhà khi mùa đông tới và có tin 20,000 lính
đánh thuê Hessians đang được gửi đến
Tân Thế Giới để dẹp cuộc nổi
dậy cùng với sự xúi dục quấy phá của
các người da đỏ tại các biên giới phía
tây. Trước hoàn cảnh này, ông Thomas Jefferson
đă viết: "Nhà Vua đă cưỡng
đoạt các vùng biển của chúng ta, tàn phá các
bờ biển, đốt cháy các thành phố và
hủy diệt dân tộc chúng ta".
Vào tháng 1-1776, ông Thomas Paine đă viết ra
tập sách mỏng "Lương Tri" (Common Sense)
trong đó tác giả tự hỏi làm sao một dân
tộc có thể vừa chống lại nhà vua, lại
vừa trung thành với nhà vua? Thời kỳ ḥa
giải đă qua, và theo Thomas Paine, "Đây
là lục địa Bắc Mỹ rộng lớn, thích
hợp để trở nên quê hương của
một giống người tự do. Hăy đừng
để miền đất này nằm dưới chân
của một vị vua không xứng đáng".
Hàng ngàn người dân thuộc địa đă đọc
được câu nói này và họ dần dần
chấp nhận ư tưởng tách rời các xứ
thuộc địa khỏi nước Anh. Trở
ngại tâm lư đă được vượt qua.
Vào giai đoạn này, các xứ thuộc địa
Bắc Mỹ không thể thắng được
cuộc chiến nếu không có sự giúp đỡ
của các quốc gia khác ở châu Âu và các nước
này cũng không thể giúp các xứ thuộc địa
khi mà người dân c̣n công nhận trung thành với
Vua nước Anh. Ngoài ra, nếu không có độc
lập, người dân Bắc Mỹ sẽ không
thể kư kết các hiệp ước mậu dịch
với các quốc gia khác, nền kinh tế sẽ
bị kiềm chế và sẽ không thể phát
triển đời sống no ấm của người
dân.
Vào mùa xuân năm 1776, North Carolina là xứ đầu
tiên gửi các đại biểu tới Quốc
Hội Lục Địa để tuyên bố độc
lập. Xứ Virginia và các xứ thuộc địa khác
cũng tham gia vào cuộc bàn thảo. Ngày 7-6-1776, đại
biểu Richard Henry Lee đă đưa ra một
nghị quyết theo đó "các thuộc địa
liên hiệp này là, và có quyền là các xứ tự do
và độc lập, họ không trung thành với nhà
Vua nữa và mọi liên hệ chính trị giữa
họ và nước Anh phải bị hoàn toàn cắt
đứt".
Nghị quyết này chưa được các đại
biểu chấp thuận ngay v́ họ chưa được
lệnh từ các xứ thuộc địa. V́ vậy
một ủy ban khác được chỉ định
để chuẩn bị một bản văn xác
nhận về trường hợp tranh đấu
của các xứ Bắc Mỹ. Ủy
ban gồm các ông John Adams, Thomas Jefferson, Benjamin Franklin,
Roger Sherman và Robert Livingston. Ông
Thomas Jefferson được chọn để viết ra
bản tuyên ngôn cần thiết, tŕnh bày trước
Quốc Hội vào ngày 28-6.
Ngày 2-7, nghị quyết của Henry Lee
được chấp thuận và bắt đầu
cuộc tranh luận về bản tuyên bố của
Jefferson. Trong một danh sách các lời tố cáo Vua
George III, ông Thomas Jefferson cũng chỉ trích chế
độ nô lệ và nghề buôn bán nô lệ. Các
đại biểu của miền Nam là các xứ dùng
người nô lệ đă không chấp nhận đề
mục này.
Vào
ngày 4-7-1776, Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (the
Declaration of Independence) được Quốc Hội
chấp nhận. Tên họ của 56 đại biểu
được liệt kê bên dưới các xứ mà
họ đại diện.
Chủ Tịch Quốc Hội là ông John Hancok
kư vào Bản Tuyên Ngôn ngày 4-7. Phần lớn các đại
biểu kư tên vào ngày 2-8.
Lúc
đầu bản văn này chưa xác nhận nền
Độc Lập của các xứ thuộc địa
Bắc Mỹ mà chỉ là một lời xác định
về lư thuyết của chính quyền Bắc Mỹ
trong đó có 3 điểm chính:
1.
Thượng Đế đă tạo ra
mọi người b́nh đẳng và cho họ các
quyền lợi về đời sống, tự do và
theo duổi hạnh phúc,
2.
Công việc chính của chính quyền là
bảo vệ các quyền lợi này,
3.
nếu một chính quyền nào t́m cách
ngăn cản các quyền lợi này th́ người dân
được tự do nổi dậy và thiết
lập một chính quyền mới.
Ba
điểm này đă là căn bản cho việc thành
lập các chính quyền tiểu bang sau khi Bản Tuyên
Ngôn Độc Lập được đồng
thanh chấp thuận.
Các ư tưởng về nền độc lập và
tự chủ đă được phổ biến trước
kia tại nước Anh do John Locke qua tác phẩm "Về
Chính Quyền Dân Sự" (On Civil Government),
một lời biện hộ cho cuộc Cách Mạng Anh
năm 1688 và tư tưởng của John Locke
về "quyền theo đuổi tài
sản" (the pursuit of property) đă được
sửa đổi thành "quyền
theo đuổi hạnh phúc" (the pursuit of
happiness).
|
Chuông
Tự Do (the Liberty Bell)
|
Ngày
8 tháng 7 năm 1776, dân chúng của thành phố
Philadelphia đă nghe thấy tiếng "Chuông Tự
Do" (the Liberty Bell) kêu gọi họ tới nghe
đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Súng đại
bác đă nổ vang và các kỵ mă đă mang tin quan
trọng này đi xa, loan báo cho mọi người
biết. Tướng George Washington cũng
ra lệnh đọc Bản Tuyên Ngôn cho binh lính nghe
để làm tăng thêm tinh thần chiến đấu
của họ.
Trong Lịch Sử của Nhân Loại, chưa bao
giờ một đất nước thuộc địa
với dân số nhỏ bé đă có nhiều nhà lănh
đạo tài năng hàng đầu như lúc này. George
Washington là vị Tướng Tư Lệnh Quân Đội,
đă duy tŕ được tinh thần
chiến đấu bằng sự can đảm, kiên
nhẫn và cứng rắn của ông trong các giờ phút
đen tối nhất của lịch sử. Benjamin
Franklin đă là đại biểu
của Quốc Hội Lục Địa, qua nước
Pháp để xin trợ giúp cho quốc gia Hoa Kỳ non
trẻ, ông đă dùng tới mọi nghệ thuật
ngoại giao để giành lấy thiện chí của
mọi tầng lớp xă hội Pháp và ông đă
trở nên một thần tượng của thành
phố Paris. John Adams và Thomas Jefferson đă làm
ổn định được các mối bất ḥa
trong Quốc Hội và đă lấy lại niềm tin
của mọi người, c̣n Robert Morris lănh
nhiệm vụ kiếm tiền cho cuộc chiến tranh
giành độc lập. Phía bên ngoài, toàn thể người
dân Bắc Mỹ đă chịu đựng mọi
cảnh thiếu thốn và gian nan, và nhờ tất
cả các yếu tố này mà chính quyền quốc gia
Hoa Kỳ được thành công.
|
Hầu tước Lafayette
|
Sau
khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được công
bố, Bộ Trưởng Ngoại Giao
của nước Pháp là ông Charles Vergennes đă
tŕnh bày với Vua Louis 16 rằng nước Anh
sẽ kư ḥa b́nh với các xứ thuộc địa
Bắc Mỹ rồi sẽ cùng các xứ này chiếm các
phần đất của nước Pháp tại vùng
biển Tây Ấn. Nước Pháp bèn công
nhận ngay nền Độc Lập của Hoa Kỳ vào
tháng 2 năm 1778 và thiết lập quan hệ đồng
minh với Hoa Kỳ. Nước Pháp cũng giúp
Hoa Kỳ về súng đạn và quân trang. Quân
đội Pháp được gửi qua Bắc Mỹ
chiến đấu giúp cuộc Cách Mạng và trong
số các người t́nh nguyện, danh tiếng
nhất là Hầu Tước De Lafayette.
Sự trợ giúp Hoa Kỳ c̣n tới từ các
nguồn khác. Bá Tước người
Đức Frederick William von Steuben đă dạy
cho các sĩ quan cách mạng nghệ thuật chiến
tranh và huấn luyện các binh lính trở thành các
chiến sĩ tinh nhuệ.
Sức mạnh hải quân của nước Anh trên
mặt biển đă khiến cho các quốc gia tại
châu Âu gồm Nga, Phổ, Ḥa Lan, Đan Mạch,
Thụy Điển tham gia vào "Hội các
Quốc Gia Trung Lập" (the League of Armed
Neutrality) vào năm 1780, và sau khi nước Anh tuyên
chiến với Ḥa Lan th́ Hoa Kỳ cũng nhận
được tiền trợ giúp từ nước Ḥa
Lan này.
Trên mặt biển, các tầu buôn Hoa Kỳ được
lệnh sẵn sàng chiến đấu và Quốc
Hội Hoa Kỳ đang chuẩn bị ngân quỹ để
thành lập Hải Quân. Nhiều
tầu biển Hoa Kỳ được lệnh bắt
giữ các tầu biển của nước Anh và đă
có các vị chỉ huy Hải Quân người Hoa
Kỳ tài giỏi với danh tiếng như Esek Hopkins,
John Paul Jones và John Barry.
Mặt khác, sự chia rẽ trong nội bộ của nước
Anh cũng làm lợi cho quốc gia non trẻ Hoa Kỳ.
Vào lúc này, Vua George III là vị lănh đạo của
đảng Tory và Nhà Vua muốn lấn át quyền hành
của Quốc Hội Anh. Đối lập với
đảng Tory là các người Whigs, họ cho
rằng Nhà Vua đă triệt hạ các tự do của
người dân nước Anh và người đứng
đầu đảng Whig là Lord Rockingham tin
rằng không thể dẹp yên được các
xứ thuộc địa, v́ vậy nên giành cho họ
tự do.
Ngoài ra, quan niệm về kinh tế cũng đang thay
đổi. Nhà kinh tế học người Anh là Adams
Smith, qua tác phẩm "Tài Sản của các
Quốc Gia" (the Wealth of Nations, 1776) đă
chủ trương nền tự do mậu dịch
với Bắc Mỹ, nhờ đó cả nước
Anh và các xứ thuộc địa đều có
lợi.
Cuối cùng, trước các thất bại quân sự
năm 1781 tại Bắc Mỹ, trước các áp
lực của nhiều nhà buôn và chủ hăng bảo
hiểm các con tầu biển Anh bị đánh phá và trước
các cuộc nổi dậy tại Ái Nhĩ Lan và Ấn
Độ, Quốc Hội Anh vào năm 1872 đă thúc
giục Vua George III phải chấm dứt chiến tranh
tại vùng đất Tân Thế Giới.
4/ Các trận
đánh tại miền Bắc.
Trong
khi các đại biểu Quốc Hội đang thảo
luận về Bản Tuyên Ngôn Độc Lập th́
một lực lượng quân đội Anh vào
khoảng 30,000 lính, kể cả các binh lính đánh thuê
Hessians, đổ bộ lên đảo Staten, gần thành
phố New York. Để chống cự lại, Tướng
Washington chỉ có 15,000 quân sĩ, dàn trận một cách
yếu ớt tại hai địa điểm là
Manhattan và Long Islands.
Vào ngày 26-8-1776, Hải Quân Anh
giả vờ tiến tới thành phố New York nhưng
thực ra bộ binh Anh tấn công vào Brooklyn, làm
cho quân đội Hoa Kỳ bị 1,000 người
chết, 2,000 người bị bắt. May nhờ có sương
mù và đêm tối mà Tướng Washington cùng với
các người c̣n sống sót mới vượt qua gịng
sông East (the East River), bỏ chạy về nơi an toàn.
Đây là một bài học vô giá cho ông
Washington. Từ nay trở về
sau, ông sẽ không bao giờ dùng chiến thuật
đương đầu với một kẻ thù hùng
mạnh hơn, được trang bị đầy
đủ hơn. Sau cuộc rút lui tại làng White
Plains, Tướng Washington c̣n phải chạy dài qua
xứ New Jersey, tới gịng sông Delaware trước
cuộc săn đuổi của các binh lính áo đỏ
người Anh.
|
Bức họa lịch sử
"Tướng Wasington vượt sông
Delaware"tranh của Emanuel Leutze, vẽ năm 1851
|
Tháng
11 năm 1776 là thời gian đen
tối nhất của vị danh tướng Washington. Các
tổn thất, bệnh tật và đào ngũ đă làm
cho lực lượng quân sự của ông giảm
đi c̣n 6,000 người, với các quân nhân có
hợp đồng phục vụ sắp hết hạn.
Công cuộc kháng chiến của Hoa Kỳ đang đứng
trước thảm cảnh sụp đổ hoàn toàn! Nhưng
vào một đêm mùa Giáng Sinh lạnh giá, bằng
một lực lượng 2,400 người và 18
khẩu đại bác, Tướng Washington đă
dẫn đầu quân lính băng qua gịng sông Delaware
đóng băng, đánh vào đồn Trenton, bắt
được hơn 900 tù binh người Hessians.
Một tuần lễ sau, lực lượng phục thù
của binh lực Anh tiến tới, điều
khiển bởi Lord Cornwallis. Tướng Washington
đă để lại 400 quân bên lửa trại, c̣n
đa số binh lính đi ṿng phía sau, đánh tập
hậu quân đội Anh tại trận Princeton. Trong
cuộc tấn công bất ngờ này, 2 trung đoàn Anh
phải tháo chạy, để lại cho Quân
Đội Lục Địa kiểm soát toàn vùng New
Jersey.
Chiến lược quân sự năm 1777 của quân
đội Anh do Lord George Germain, Bộ Trưởng
Bộ Mỹ Châu (the American Department) soạn ra, có
mục đích cắt xứ Tân Anh Cát Lợi khỏi các
thuộc địa phía nam. Theo kế hoạch này,
một đạo quân Anh dưới quyền Thiếu
Tướng John Burgoyne đổ bộ lên Canada và
tiến về phía nam từ Montreal tới Albany, N.Y.
Một đạo quân khác gồm các các người da
đỏ do Đại Tá Bary St. Leger chỉ huy, di
chuyển sang phía đông từ hồ Ontario, qua thung lũng
Mohawk để gặp đạo quân của Tướng
Burgoyne tại Albany.
|
Tướng
Burgoyne đầu hàng
tranh của John Trumbull, 1822
|
Do
cách hành quân quá phức tạp lại ở trên
một địa thế khó khăn với phương
tiện thông tin nghèo nàn, nên cánh quân của Đại
Tá St. Leger khi tiến tới đồn Stanwix, đă không
thể triệt hạ được đồn lũy
này và rồi bị thua trận tại Oriskany trước
lực lượng của Thiếu Tướng
Benedict Arnold. Tướng St. Leger đành phải rút
quân về Montreal. C̣n cánh quân kia với 7,000 lính do Tướng
Burgoyne chỉ huy, lúc đầu đă chiến
thắng, chiếm được đồn Ticonderoga vào
ngày 6-7 rồi vào ngày 29-7, đă tới được
phần trên của gịng sông Hudson. Khi lực lượng
lính đánh thuê Hessians tiến vào xứ Vermont th́ đă
bị dân quân Vermont và New Hampshire đánh tan tại
trận Bennington. Do thiếu tiếp liệu và quân
tiếp viện, đạo quân của Tướng
Burgoyne đă băng qua gịng sông Hudson, tiến về phía
nam để t́m chỗ an toàn hơn nhưng vào
tháng 9 năm đó, quân đội Lục Địa và
dân quân địa phương dưới quyền
của Thiếu Tướng Horatio Gates đă tiến
đánh quân Anh gần Saratoga. Ngày 17-10, Tướng
Burgoyne với gần 5,000 quân đă xin đầu hàng Tướng
Gates.
Ngày 25-8-1777, đạo quân của Tướng Howe
đổ bộ lên phần đầu của Vịnh
Chesapeake để tiến về phía Philadelphia trong khi
đó Tướng Washington không thể ngăn cản
nổi đạo quân này tại Brandywine Creek, PA.
Ngày 26-9, Tướng Howe tiến vào thành phố Philadelphia.
Quốc Hội Lục Địa phải bỏ chạy
qua York, PA., rối tới Baltimore,
MD.
Ngày 4-10, quân của Tướng Washington tấn công
đạo quân của Tướng Howe tại Germantown,
phía bắc của thành phố Philadelphia nhưng rồi
bị thất bại, phải rút lui về Valley Forge
với 11,000 quân.
|
Bá Tước Von Steuben
|
Đây
là một giai đoạn cay đắng của Quân
Đội Lục Địa. Hàng trăm ngựa và ḅ
chết đói v́ không có thực phẩm. 3,000 người
lính của Tướng Washington không có giầy dép. Nơi
trú ngụ của họ chỉ là các túp lều
dựng lên tạm bợ bằng cành cây! Nhiều người
lính đă chết v́ lạnh và thiếu thốn. 2,000 lính
đă đào ngũ. Chính vào lúc
gần như tuyệt vọng này, một chuyên viên quân
sự người Đức, đă từng phục
vụ dưới thời Đại Đế Frederick
của nước Phổ, đến huấn luyện
binh sĩ và sĩ quan Hoa Kỳ, đó là Bá Tước
Von Steuben.
Năm 1777 đánh dấu một khúc quanh về
thắng lợi của Hoa Kỳ trong cuộc Cách
Mạng giành độc lập. Ngay sau cuộc Cách
Mạng xẩy ra, nước Pháp đă bí mật
gửi tiền bạc và đồ tiếp liệu giúp
đỡ các người thuộc địa Bắc
Mỹ. Tới khi quân đội Lục Địa
chiến thắng tại Saratoga và khi Tướng
Washington đang tấn công quân đội Anh tại
Germantown, th́ những chiến tích này đă khiến cho
nước Pháp không cần che dấu các trợ giúp quân
sự nữa. Vào lúc này, Tướng Washington trông
đợi hạm đội Pháp tại bờ biển
Hoa Kỳ.
Vào tháng 4-1778, Hạm Đội Pháp dưới
quyền của Đô Đốc Charles Hector Théodat,
tức Bá Tước D'Estaing, rời hải
cảng Toulon thuộc Pháp, để qua Bắc Mỹ.
Tại Philadelphia, Trung Tướng Sir Henry Clinton, người
thay thế Tướng Howe, e sợ rằng hạm đội
Pháp sẽ tiến vào sông Delaware để cắt
đường, không cho đạo quân Anh rút về New
York, v́ vậy Tướng Clinton cùng với các người
trung thành di tản khỏi thành phố Philadelphia, rút lui
qua xứ New Jersey. Đạo quân của Tướng
Washington đuổi theo, tấn công đoàn quân Anh
tại Monmouth Courthourse ngày 28-6 nhưng thắng bại
của trận này không rơ rệt.
|
Tướng "Mad
Anthony" Wayne
|
Hạm
đội Pháp gồm 12 tầu chiến tới cửa
sông Delaware vào ngày 8-7-1778 th́ thấy quân đội
Anh đă rút lui, nên sau đó đă di chuyển tới
Sandy Hook vào ngày 14-7. Vị Đô Đốc người
Pháp đă bắt liên lạc với bộ chỉ huy
của Tướng Washington và lập kế hoạch
đánh hạm đội Anh nhưng v́ mực nước
quá cạn và thời tiết xấu nên kế hoạch
kể trên phải bỏ dở. Cuối cùng, ngày 4-11,
đoàn tầu chiến Pháp nhắm vùng biển Tây
Ấn ra đi.
Tại miền tây, một lực lượng quân đội
Lục Địa do Tướng Geoge Rogers Clark
chỉ huy đă chiếm được đồn
Vincennes (ngày nay thuộc tiểu bang Indiana) của
lực lượng Anh, nhờ đó quân đội
Lục Địa kiểm soát được cả vùng
phía bắc của thung lũng Ohio. Đồng thời,
Tướng Washington cũng phái đi một lực lượng
hùng hậu do Tướng John Sullivan chỉ huy,
tới miền tây của xứ New York để đánh
phá các làng da đỏ Iroquois. Đồn lũy Stony
Point của người Anh trên bờ sông Hudson cũng
bị Tướng "Mad Anthony" Wayne chiếm vào tháng
7 rồi Thiếu Tá Henry Lee chiếm trại quân Anh
Paulus Hook trên bờ biển Jersey vào tháng 8-1779.
5/ Các trận
đánh tại Miền Nam.
Vào
năm 1778, các bộ trưởng của Vua nước
Anh phải đối đầu với nhiều vấn
đề, nào là sự đầu hàng của Tướng
Anh Burgoyne, sự tham gia của nước Pháp vào
trận chiến, nào là các áp lực của Quốc
Hội Anh, đ̣i hỏi phải dùng chiến lược
mới.
Vào thời gian này, các người trung thành miền Nam
đề nghị rằng một chiến dịch
tại phía nam có họ tham gia, sẽ dùng đến ít
nhân lực hơn.
Ngày 29-12-1778, một đoàn quân viễn chinh Anh
gồm 3,500 người từ New York, đă di chuyển
xuống Georgia và chiếm thành phố Savannah. Quốc
Hội Lục Địa đă phái Thiếu Tướng
Benjamin Lincoln xuống Charleston, S.C., để chỉ huy
mặt trận phía nam.
Ngày 9-10-1779, cánh quân của Tướng Lincoln cùng
với Hải Quân Pháp của Đô Đốc D'Estaing
vây hăm thành phố Savannah nhưng nơi này không bị
thất thủ và khi Hải Quân Pháp rút đi theo
lệnh từ Paris, 3,500 quân của Tướng Lincoln
bị 8,000 quân của Tướng Clinton người
Anh bao vây rồi phải đầu hàng vào tháng
5-1780. Sau đó, Tướng Lincoln trở về New York,
giao lại quyền chỉ huy cho Trung Tướng Charles
Cornwallis điều khiển 7,000 lính Anh chính quy cùng
với các toán quân trung thành, để b́nh định
hai xứ thuộc địa Carolinas.
Vào thời gian này, ngoài sự trợ giúp về
tiền bạc, tiếp liệu và hải quân, vào
tháng 7-1780 nước Pháp c̣n gửi tới
Bắc Mỹ 5,000 quân với quân trang và đạn dược
đầy đủ, 106 khẩu đại bác và 17 nhân
viên y tế, đặt dưới quyền chỉ huy
của Tướng Jean Baptiste de Vimeur và Bá Tước
De Rochambeau. Sự tham gia của quân
lực Pháp đă làm quân đội Lục Địa
lên tinh thần và cũng làm cho các nhà buôn địa
phương vui ḷng khi những người lính t́nh
nguyện này đă tiêu xài bằng các đồng
tiền vàng. Khi đoàn quân Pháp sang giúp đỡ quân
đội Lục Địa th́ mặt trận đă
chuyển về các xứ miền nam.
Ngày 16-8-1780, Tướng Cornwallis đă thắng
được Tướng Gates tại Camden, S.C., nhưng
cũng từ nay bắt đầu các trận đánh
du kích của dân quân Lục Địa. Tháng 3 năm
1781, Thiếu Tướng Cornwallis dàn quân, đánh đạo
quân của Thiếu Tướng Nathanael Greene nhưng v́
thiếu tiếp liệu và với hơn 500 binh lính
bị giết, đạo quân Anh phải rút về
Wilmington, N.C. Khi được tăng cường vào tháng
4-1781, Tướng Cornwallis đă di chuyển quân lên phía
bắc để vây Tướng De Lafayette, lúc đó
đang chỉ huy 3,000 quân tại Richmond, VA. V́ không
thể đối đầu do lực lượng
chỉ bằng nửa, Tướng De Lafayette đă rút
lui về phía tây bắc và được Tướng
Wayne đem 1,000 quân tăng cường. Sợ bị vây
hăm, Tướng Cornwallis đành kéo quân về pḥng
thủ tại Yorktown là một nơi gần bờ
biển, dễ dàng cho Hải Quân Anh đến tiếp
cứu.
6/ Chiến
thắng cuối cùng của Quân Đội Lục Địa.
Khi
sống tại nước Pháp, ông Benjamin Franklin
vẫn thường xuyên báo cáo về Hoa Kỳ các
biến cố xẩy ra tại nước Pháp và nước
Anh đối với cuộc Chiến Tranh Cách Mạng.
Khi đó, cuộc thất trận
của quân đội Anh tại Saratoga đă
khiến cho dân chúng Anh đ̣i hỏi Nhà Vua và các
bộ trưởng Anh phải lo việc dàn xếp ḥa
b́nh và công nhận nền Độc Lập của các
xứ thuộc địa.
Mặt khác, Tướng George Washington biết rơ
rằng quân đội Anh không thể đóng quân trong
đất liền sau nhiều tháng mà phải trở ra
bờ biển để lấy tiếp liệu và quân
đội Anh sẽ đầu hàng nếu bị ép
giữa hai lực lượng của quân đội
Lục Địa và Hải Quân Pháp từ ngoài
biển. Rất may mắn cho các xứ thuộc địa
Bắc Mỹ v́ vào thời gian này, các bộ trưởng
của nước Pháp muốn phục thù việc
mất đi các phần đất nhường cho nước
Anh, v́ vậy Hải Quân Pháp được tăng cường
và binh lính Pháp được luyện tập tinh
nhuệ.
Vào tháng 9-1779, các hạm đội
của hai nước Pháp và Tây Ban Nha đă đánh phá
pháo đài Gibraltar của người Anh. Đây là
một cửa ải rất quan trọng tại miền
Địa Trung Hải, nếu xét cả về hai
mặt chiến thuật và kinh tế. V́ thành phố
Gibraltar chỉ có thể tiếp tế và tăng cường
bằng đường biển, nên trách nhiệm
phải bảo vệ pháo đài này rất lớn lao.
Từ xưa, nguyên tắc chiến lược của
người Anh trong cuộc chiến tranh với người
Pháp là duy tŕ một lực lượng hải quân
thật hùng hâu và t́m cách phong tỏa hai quân cảng
của nước Pháp là Brest trên Đại Tây Dương
và Toulon trên Địa Trung Hải. Nhưng vào năm
1781, Hải Quân Hoàng Gia Anh không có đủ tầu
chiến để vừa phong tỏa hai quân cảng
của nước Pháp, vừa tiếp tế và bảo
vệ pháo đài Gibraltar. Hạm đội Pháp ra đi
từ quân cảng Toulon vào năm 1778 là một
chứng tỏ sự yếu kém của Hải Quân Anh.
Tới năm 1781, nhân khi pháo đài Gibraltar bị công
phá, 29 tầu chiến của Pháp, chỉ huy do Đô
Đốc Francois Joseph Paul, tức Bá Tước De
Grasse, đă ra khơi vào ngày 22-3 để tiến
về vùng biển Tây Ấn và Bắc Mỹ.
|
Tướng Cornwallis đầu
hàng
|
Ngày
14-8-1781, Tướng George Washington nhận được
tin Đô Đốc De Grasse đă mang hạm đội
Pháp tiến vào Vịnh Chesapeake, ông liền quyết
định đánh Tướng Cornwallis tại Yorktown,
VA. Hai đoàn quân của Tướng Washington và Tướng
Jean Rochambeau, người Pháp, cùng tiến về phía nam
trong khi ngoài biển, Hạm Đội Anh dưới
quyền Đô Đốc Thomas Graves đă phải
bỏ chạy trước Hạm Đội Pháp đang
tiến tới. Rồi 16,000 quân Hoa Kỳ, Pháp và dân quân
địa phương đă ở dưới quyền
của Tướng Washington, vây quanh Yorktown. Trước
t́nh thế tuyệt vọng này, Tướng
Cornwallis với 7,247 binh lính đă đầu hàng trước
Tướng George Washington vào ngày 19-10-1781.
Cuộc đầu hàng của quân đội
Anh tại Yorktown đă chấm dứt cuộc Chiến
Tranh Cách Mạng tại Bắc Mỹ nhưng các thương
thuyết ḥa b́nh c̣n kéo dài tới khi Ḥa Ước
Paris được kư kết.
Sau chiến thắng Yorktown, Lord North từ chức và
vị thủ tướng Anh thay thế đă có
thiện cảm với nền độc lập của
Hoa Kỳ. Hội nghị ḥa b́nh được trù
liệu tại Paris. Quốc Hội Lục Địa
đă cử đi dự 5 ủy viên, gồm các ông
John Adams, John Jay, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson và Henry Laurens,
nhưng ông Jefferson không đi c̣n ông Laurens đă
tới châu Âu 2 ngày trước ngày kư ḥa ước.
Vào ngày 03-9-1783, Ḥa Ước Paris được kư
kết theo đó nước Anh công nhận các
thuộc địa cũ của ḿnh là Quốc Gia Hoa
Kỳ được độc lập, có biên giới
tại phía bắc là xứ Canada, có gịng sông Mississippi
ở phía tây và xứ Florida là biên giới phía nam.
Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ là một biến cố
rất lớn lao về nền dân chủ và tính b́nh
đẳng. Sau cuộc chiến tranh này, các phần
đất rộng lớn của Vua nước Anh,
của các địa chủ trung thành đă bỏ
xứ ra đi, đều thuộc về các chính
quyền địa phương, hoặc được
phân chia nhỏ để bán lại cho các dân quân ái
quốc. Từ nay, các tiểu bang được thành
lập và việc xây dựng quốc gia Hoa Kỳ
được bắt đầu.
Phạm Văn Tuấn
Tài
liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica Encyclopedia. A History of the Modern World by
R.R. Palmer & Joel Colton, Alfred A. Knopf, N.Y. 1991.
|