Chuyện Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa Di Tản Đinh Mạnh Hùng |
Gần
đây, Dân Sinh Media phát hành một DVD kể lại câu
chuyện di tản của Hạm đội Hải Quân
Việt Nam Cộng Ḥa, đi từ đảo Côn Sơn
sang vịnh Subic, Phi Luật Tân. Cuốn DVD “Chuyến
Hải Hành Cuối Cùng” (CHHCC) đă đưa lên
khung cảnh hỗn loạn tại Việt Nam vào
những ngày cuối tháng 4 năm 1975. Qua các phỏng
vấn và h́nh ảnh, DVD cũng đă cho ta thấy t́nh
trạng lo lắng, hoang mang, bất an của thủy
thủ đoàn và “t́nh h́nh trên các chiến hạm căng
thẳng như thùng thuốc súng sắp nổ tung”.
Riêng câu hỏi “ai đă khéo chỉ huy, lèo lái t́nh
h́nh, hướng dẫn đoàn tàu ra đi trong
trật tự và b́nh yên” th́ có lẽ chưa
thấy được giải đáp thỏa đáng. Về
câu hỏi này, là một thành phần trong bộ tham mưu
di tản, người viết xin đóng góp một
số nhận xét như một chứng nhân của
cuộc hành tŕnh lịch sử này. Tất cả
những ǵ tŕnh bày sau đây cũng đă được
tóm lược trong cuốn Hải Sử Tuyển
Tập do Tổng Hội Hải Quân VNCH phát hành năm
2004, từ trang 523 đến trang 530. Các
nhận xét về chuyến đi này được
chia làm hai phần: Phần 1: Diễn tiến cuộc di tản Phần
2: Các nhân vật điều động Phần
1 – Diến tiến cuộc di tản Khởi
hành từ Sài G̣n lúc 7:00 giờ tối ngày 29 tháng 4 năm
75, các chiến hạm Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa
tập trung tại Côn Sơn từ chiều ngày 30 tháng
4. Hạm đội khởi hành đi Subic Bay, Phi
Luật Tân trưa ngày 1 tháng 5 và đến Phi
Luật Tân vào chiều ngày 7 tháng 5. Các
diến tiến sau đây bắt đầu từ lúc
hạm đội h́nh thành tại Côn Sơn và
được phân thành các tiểu đoạn như
sau: 1.1
Bộ tham mưu 1.2
Vấn đề truyền tin 1.3
Đi hay ở lại 1.4
Hành tŕnh
- Làm ǵ bây giờ?
- Đi đâu?
- Ngày
giờ khởi hành
- Hải hành 1.5
Đến bến
- Chuẩn bị vào bến
- Đến bến 1.1
Bộ tham mưu Năm
2001, Ban Hải sử Tổng hội Hải quân
Việt Nam Cộng Ḥa có hỏi tôi một số câu
hỏi, trong đó có câu sau: “Xin
Đề đốc cho biết, khi rời Sài G̣n,
Bộ Tư Lệnh nổi trên đường di
tản được tổ chức ra sao? Một cách
cụ thể, bên dưới Đô Đốc Cang, các
giới chức Hải quân trên HQ 3 đă được
phân nhiệm như thế nào?” Tôi đă trả
lời như sau: “Bây
giờ th́ gọi là Bộ Tham Mưu chứ trên
thực tế lúc đó th́ tùy cơ ứng biến.
Có việc ǵ th́ họp nhau cùng bàn, sau khi có sự
đồng ư của Đô đốc Cang th́ chia nhau mà
làm, miễn sao có kết quả êm đẹp”. Thực
tế đă diễn ra đúng như vậy. Trên HQ 3
– Tuần dương hạm Trần Nhật Duật
– mà
Hạm trưởng là HQ Trung tá Nguyễn Kim Triệu,
ngoài thủy thủ đoàn, thành phần BTL/HQ gồm
có, theo thứ tự thâm niên:
Phó Đô đốc Chung Tấn Cang, Phó Đề
đốc Đinh Mạnh Hùng, Phó Đề đốc
Diệp Quang Thủy, Phó Đề đốc Hoàng Cơ
Minh và HQ Đại tá Nguyễn Xuân Sơn. Về sau,
có Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng
đến từ Vùng 4 Sông ng̣i, Phó Đề đốc
Nghiêm Văn Phú từ Lực lượng Tuần thám.
Bây
giờ nghĩ lại, thấy có vẻ khôi hài. Người
th́ ít mà toàn là tướng không, vậy ai làm lính. Cũng
may là công việc làm không dùng đến cơ
bắp, chỉ cần có cái miệng, nhưng lại
phải trực phiên 24 tiếng đồng hồ,
ăn ngủ tại chỗ, cũng khá mệt
nhọc. Chắc có người thắc mắc nhân viên
đâu cả? Xin thưa: họ cùng với gia đ́nh
ở rải rác trên các chiến hạm khác. Đây cũng
chứng tỏ sự linh động và nhân hậu
của cấp lănh đạo. Sau
buổi họp tham mưu cao cấp trên HQ 3 chiều ngày
30 tháng 4, khi giải tán, các giới chức đến
họp đă trở về chiến hạm chở gia
đ́nh họ. Như vậy mặc nhiên ngầm có
sự đồng ư để các nhân viên ở
gần gia đ́nh họ. Biết rằng hầu
hết các sĩ quan đều mang theo gia đ́nh
họ nên không ai có ư nghĩ gọi họ lại nhiêm
sở. Tôi nghĩ rằng, nếu không v́ gia đ́nh,
chắc chắn mọi người sẽ tự động
trở về nhiệm sở của ḿnh. 1.2
Vấn đề truyền tin Kể
từ lúc Đại tướng Dương Văn
Minh tuyên bố hạ súng vào sáng ngày 30 tháng 4 th́
hệ thống truyền tin như một cái chợ
vỡ. Đủ mọi chuyện được đem
ra trao đổi hỏi han, nhất là các đề tài
sau: bàn về t́nh h́nh, hỏi han tin tức gia đ́nh,
bàn chuyện di tản hay không, than van về t́nh
cảnh cá nhân v.vv…, chứng tỏ một t́nh
trạng lo lắng hoang mang cực độ của các
thủy thủ đoàn. T́nh trạng này nếu
tiếp tục th́ thật là nguy hiểm v́ có thể
đem lại sự phân hóa trong hạm đội.
Mặt khác nếu ngăn chặn thông tin th́ làm sao
hiểu được t́nh h́nh mà trù liệu công
việc. Đó là chưa kể các mối lo khác như
bị xâm nhập và phá rối, khuyến dụ
của Việt cộng. Để
giải quyết t́nh h́nh này, Phó Đề đốc
Hoàng Cơ Minh được chỉ định đảm
trách điều hành hệ thống liên lạc,
chỉ huy và là người độc nhất
được sử dụng hệ thống truyền
tin để tránh khỏi bị cướp phá. Tóm
lại, Phó Đề đốc Minh thường
trực đích thân theo dơi hệ thống truyền
tin để: bảo đảm an ninh truyền tin, theo
dơi t́nh h́nh, giải quyết các vấn đề có
thể giải quyết ngay, nêu lên các vấn đề
cần giải quyết, chuyển các quyết định
của BTL cho các đơn vị và theo dơi thi hành. Trong
thư trả lời ban Hải sử, tôi đă tóm
tắt vấn đề như sau: “Chỉ huy
chiến thuật đ̣i hỏi 4 điều kiện
khi liên lạc: An toàn chính xác về truyền tin,
nắm vững t́nh h́nh, tiếng nói của thẩm
quyền. Trong khi triệt thoái, binh sĩ hoang mang dao
động, các điều kiện trên lại càng
quan trọng. Phó Đề đốc Minh đă có
nhiều kinh nghiệm điều quân trong sông nên ông
rất hữu hiệu trong trách vụ liên lạc
chỉ huy…” Đúng vậy, Phó Đề đốc
Minh đă hoàn thành nhiệm vụ này một cách
tối hảo. Tiếng nói của ông vang vang trên
hệ thống truyền tin suốt ngày đêm cũng
như sự duy tŕ được kỷ luật và an
ninh truyền tin trong suốt cuộc hành tŕnh là
một kỳ tích ít người làm được. Và
là một đóng góp quyết định vào sự hoàn
thành tốt đẹp của cuộc di tản. “Ngoài
việc bảo đảm được sự
vận hành của hệ thống truyền tin, các
đóng góp của Phó Đề đốc Minh vào
sự giải quyết các công việc khác cũng
đáng được ca ngợi” (Hải sử
Tuyển tập trang 527). 1.3
Đi hay ở lại? Đối
với hầu hết các thủy thủ đoàn, khi các
chiến hạm thi hành lệnh tập trung tại Côn
Sơn th́ việc đi hay ở lại chưa thành
một vấn đề. Nhưng từ lúc Đại
tướng Dương Văn Minh tuyên bố buông súng
th́ t́nh h́nh trở nên sôi động. Chuyến đi
này trở thành chuyển đi sau cùng và một
chiều của hạm đội. Sẽ không có ngày
trở lại. Trong suốt đêm 30 tháng 4, giải
quyết vấn đề đi hay ở lại là công
việc chính của bộ tham mưu. Vấn đề
này bao gồm hai mặt: mặt cá nhân và mặt
chiến hạm. Về
mặt cá nhân tương đối dễ giải
quyết. Từ chập tối 30 tháng 4, đă có
những cá nhân tỏ ư không muốn rời Việt
Nam và muốn trở lại Sài G̣n. Đến trưa
hôm sau th́ số người muốn trở về Sài
G̣n mỗi lúc một đông, trở thành một
vấn đề cần phải được
giải quyết. Để trấn an mọi người,
quyết định cung cấp phương tiện cho
những ai muốn về lại Sài G̣n được
ban hành và thông báo ngay đến toàn thể chiến
hạm. Một hỏa vận hạm được
chọn và đến từng tàu bốc người
muốn trở về. Ngoài chiếc hỏa vận
hạm, một số tuần duyên đỉnh (PCF) cũng
xin về theo… Kể đến lúc Hạm đội
khởi hành đi Subic Bay, tất cả những ai không
muốn di tản đă được thỏa măn
nguyện vọng và được chuyển vận
trở về Vũng Tàu. Về
mặt chiến hạm, vấn đề không c̣n là cá
nhân mà trở thành tập thể. V́ chiến hạm
gồm thủy thủ đoàn sẽ không di tản, mà
ở lại Việt Nam. Giải quyết các trường
hợp này th́ dễ hay khó tùy thuộc vào mức
độ phân vân của đơn vị liên hệ.
Đa số trường hợp được
giải quyết thỏa đáng qua thảo luận trên
hệ thống truyền tin giữa đơn vị trưởng
và Phó Đề đốc Minh hoặc đại tá Sơn.
Điển h́nh là trường hợp HQ Thiếu tá Vương
Thế Tuấn, Hạm
trưởng HQ 229 (DVD CHHCC).
Tôi
chỉ biết một trường hợp khó khăn,
được giải quyết vào giờ phút
cuối cùng, trước khi hạm đội lên
đường. Sáng ngày 1 tháng 5, trong khi chuẩn
bị khởi hành, th́ có một chiến hạm báo cáo
không muốn di tản và thủy thủ đoàn không
muốn rời Việt Nam. Trên chiến hạm chỉ
huy, Phó Đô đốc Cang nh́n chúng tôi ḍ hỏi.
Đại tá Sơn đề nghị cho tàu đó
cặp vào HQ 3 và để ông đi qua giải
quyết. Rất lâu không thấy ông trở về.
Đô đốc Cang sốt ruột và lo lắng ra
mặt. Tôi lên tiếng đề nghị cho tôi sang
đó xem xét t́nh h́nh. Sau một lúc ngần ngừ, Phó
Đô đốc Cang bảo để ông cho cận
vệ đi cùng tôi. Tôi suy nghĩ thật nhanh, là có
cận vệ với t́nh h́nh này chưa chắc đă
an toàn hơn nên từ chối và rời đài
chỉ huy. Bây
giờ hồi tưởng lại lúc đó, tôi cũng
thấy là lạ. Bước qua hạm kiều, ngoài
mấy thủy thủ đứng gác, chiến hạm
thật vắng lặng, có lẽ tất cả
thủy thủ đoàn đang hội họp với
đại tá Sơn. Càng lạ hơn là không thấy
dân chúng hiện diện. Có thể tàu này đang công
tác ngoài biển và được lệnh đến
thẳng đây. Sau khi chào hỏi, một thủy
thủ đưa tôi xuống pḥng ăn đoàn viên.
Bước vào, không khí thật kỳ lạ. Đại
tá Sơn ngồi bàn chủ tọa, thủy thủ
đoàn ngồi đối diện. Không ai nói năng
ǵ. Một sự im lặng hoàn toàn. Trước t́nh
h́nh đó, tôi chỉ biết nh́n thủy thủ
đoàn rồi quay sang đại tá Sơn nói: “Đă
đến giờ khởi hành, phải về tàu”. Nói
xong tôi rời pḥng hội, trở về HQ 3. Ít lâu
sau đại tá Sơn cũng về tàu chỉ huy.
Hạm đội lên đường đúng giờ
ấn định. Đến
nay th́ tôi vẫn không biết chuyện ǵ xảy ra trên
chiến hạm đó. Qua đây, tôi có vài dịp
gặp lại đại tá Sơn mà quên hỏi.
Sự việc này đă được tôi tŕnh bày
ngắn gọn trong tập Hải Sử đề
cập trên. 1.4
Hành tŕnh Làm
ǵ bây giờ? Kể
từ lúc đại tướng Minh ra lệnh
đơn phương ngừng bắn th́ công cuộc
di tản đă trở thành rơ rệt. Đây là
chuyến đi một chiều của Hải quân VNCH,
không có ngày quay trở lại. Nhưng làm ǵ tiếp
th́ chưa biết, ngoại trừ một nguyên
tắc đă được Phó Đô đốc Cang
đề ra trong khi chuẩn bị: “Nếu
có làm ǵ th́ cũng làm như một tập
thể”.
Chiều
ngày 30 tháng 4, ngay sau khi đến Côn Sơn, một
buổi hội đă được triệu tập
trên HQ 3 gồm các tướng lănh và sĩ quan cao
cấp có mặt tại điểm tập trung.
Buổi hội tương đối ngắn và không
có ǵ phải thảo luận và bàn căi nhiều. Sau
khi xem xét t́nh h́nh chính trị và t́nh trạng hạm
đội, mọi người đồng ư là
phải liên lạc ngay với Hoa Kỳ. Đến
đây gặp khó khăn là không ai có tần số
hay hay biết cách liên lạc với Hoa Kỳ. Trong khi
mọi người đang suy nghĩ th́ đại tá
Sơn lên tiếng than phiền ḿnh bị cách chức
Tư Lệnh Hạm Đội một cách bất công.
(Uẩn ức này kéo dài đến ngày nay và tôi
sẽ trở lại vấn đề này sau). Không
đợi Phó Đô đốc Cang giải thích, đại
tá Sơn cho biết luôn là ông có tần số liên
lạc với Hoa Kỳ. Trở ngại được
giải quyết và buổi họp chấm dứt. Các
giới chức trở về chiến hạm có
chở theo gia đ́nh ḿnh…. Đi
đâu? Sáng
sớm ngày 1 tháng 5, ông Armitage đại diện
Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ đến HQ 3. Ông
ngỏ lời là Hoa Kỳ đồng ư tiếp
nhận hạm đội Việt Nam và đề
nghị hạm đội di chuyển đến Căn
cứ Hải quân Hoa Kỳ tại đảo Guam. Khi
duyệt lại t́nh trạng hạm đội,
thấy rằng nếu đi Guam xa gần 2 ngàn 500
hải lư th́ nhất định sẽ gặp một
số trở ngại quan trọng, đáng kể là t́nh
trạng kỹ thuật của một số chiến
hạm không được khả quan và hạm đội
phải đi theo vận tốc của chiến
hạm có t́nh trạng máy tệ nhất là là
khoảng 5 gút (hải lư/giờ), thời gian hải hành
quá lâu. Thêm nữa các chiến hạm chở quá
đông dân chúng di tản, ước lượng
khoảng 30 ngàn người, chắc chắn là sẽ
gặp nhiều khó khăn về ăn uống. Do
đó Bộ tham mưu đề nghị đưa
hạm đội đến Subic Bay xa chỉ
khoảng trên 900 hải lư. Mặc dù ông Armitage luôn luôn
nhấn mạnh đến mong muốn của Hoa
Kỳ là phải đi Guam, Phó Đô đốc Cang
vẫn nhất định đi Phi Luật Tân…
Ngày
giờ khởi hành. Sau
khi cân nhắc t́nh h́nh chung,
Phó Đô đốc Cang cho
lệnh khởi hành di tản ngay sáng ngày 1 tháng 5. Có
nhiều lư do đưa đến quyết định
này. Một là để mọi người có
việc làm, chấm dứt bàn tán, từ đó
những hoang mang dao động sẽ tan dần, tinh
thần trở nên ổn định. Hai là nếu ai c̣n
do dự chuyện đi hay ở, sẽ đương
nhiên chấm dứt và trở lại sinh hoạt b́nh
thường. Ba là Côn Sơn trở nên không c̣n an toàn
dưới áp lực tù cộng sản được
giải thoát, chính quyền mới có thể gây khó khăn
cho hạm đội (Hải Sử trang 527-528).
Quyết định khởi hành sớm này dù đă
không thỏa măn được yêu cầu của
một số cá nhân, như trường hợp đại
tá Đỗ Kiểm c̣n thất lạc gia đ́nh và
dù phải bỏ lại một vài đơn vị như
Vùng 5 Duyên Hải, nhưng cho thấy là một
quyết định đúng, đem lại sự an toàn
và thành công của chuyến di tản.
Hải hành. Nhờ
thời tiết thật tốt, sóng yên biển
lặng, nên chuyến di tản thuận buồm xuôi gió.
Hạm đội sắp thành đội h́nh hai hàng
dọc, tốc độ trung b́nh 5 gút. Trên
phương diện tiếp vận, các tàu đă
được cung cấp đầy dầu nước
và thực phẩm trước khi rời Sài G̣n. Tuy
vậy, v́ số dân di tản quá đông nên vấn
đề ăn uống cũng gặp một số
trở ngại. Nhờ óc sáng tạo và tinh thần
kỷ luật cao của các thủy thủ đoàn,
mỗi chiến hạm đă tự giải quyết các
khó khăn. Hải quân Hoa Kỳ trợ giúp phần
thực phẩm và y tế trong trường hợp
thật cần thiết…
Nh́n
chung, đối với tập thể th́ các trắc
trở không có là bao. Sau vài ngày hải hành, không
tuần Hoa Kỳ cho biết là hạm đôi không c̣n
giữ được đội h́nh hai hàng dọc, các
chiến hạm cũng không giữ khoảng cách đều
nhau. Để chấn chỉnh, Phó Đô đốc
Cang chia hạm đội thành 2 phân đội và
Đề đôc Lâm Ngươn Tánh đi trên HQ 1
được chỉ định chỉ huy phân đội
2. Từ đó đội h́nh hải hành được
duy tŕ tốt đẹp. Vài
biến cố nhỏ xảy ra trên chính chiếc soái
hạm HQ 3. Một đám cháy trên sân thượng và
cả hai máy chánh bất ngờ đều hư
hỏng khi đến gần lảnh hải Phi nên
phải cần đến tàu kéo của Hoa Kỳ.
1.5 Đến bến. Chuẩn
bị vào bến. Khi
sắp gần đến Phi Luật Tân th́ nhận
được tin là chính phủ này không chấp
thuận cho hạm đội VNCH vào vịnh Subic.
Bộ tham mưu họp bàn t́m giải pháp. Quả là
một trường hợp ngoại giao phức
tạp, không dễ dàng giải quyết. Giải pháp
đưa hạm đội đi Guam được
đề cập, cân nhắc. Hoa Kỳ lănh trách
nhiệm đưa 30 ngàn đồng bào đến
Guam bằng các tàu dân sự để hạm đội
dễ điều động cho một hải tŕnh
tiếp tục dài này. Trong lúc c̣n đang thu xếp th́
Phó Đô đốc Cang đưa ư kiến là
với t́nh h́nh hiện tại, Hạm đội
của Hải quân VNCH nên được trao trả
cho Hải quân Hoa Kỳ v́ trên danh nghĩa đó, các
chiến hạm Hoa Kỳ sẽ vào căn cứ
Hải quân Subic của ḿnh. Ư
kiến này được chuyển đến
giới chức Hoa Kỳ. Một vài giờ sau,
hạm đội được thông báo là giải
pháp được chấp thuận với điều
kiện: -
Tất cả đạn dược phải được
ném xuống biển. -
Cờ VNCH phải được thay bằng cờ Hoa
Kỳ. Để thi hành điều kiện này,
mỗi chiến hạm sẽ tiếp nhận một
toán sĩ quan liên lạc Hoa Kỳ và thực hiện
lễ hạ quốc kỳ VNCH và trương quốc
kỳ Hoa Kỳ. Lễ hạ cờ VNCH được
cử hành cùng một lúc trên tất cả chiến
hạm vào đúng 12 giờ trưa ngày 7 tháng 5 năm
1975. Buổi lễ hạ cờ lịch sử trong không
khí trang nghiêm và đầy xúc động, đă
được kể lại trong nhiều bài viết
trong mấy chục năm qua… -
Xóa bỏ danh hiệu và danh số Việt Nam. Để
thực hiện công việc này, trong lúc thủy
thủ đoàn Việt Nam vận chuyển con tàu theo
khẩu lệnh của sĩ quan hải hành Hoa Kỳ,
các tiểu đỉnh Hoa Kỳ chạy cặp sát sườn
chiến hạm để sơn lấp bỏ các danh
số và danh hiệu VN dọc hai bên hông.
Đến
bến. Chiều
ngày 7 tháng 5, hạm đội VNCH vào thả neo trong
vịnh Subic. Chuyến di tản an toàn, b́nh yên và
đầy đủ. Mọi người thở phào
nhẹ nhơm. Sau khi tàu bỏ neo th́ việc điều
hành lên bờ thuộc phía Hoa Kỳ. Vị sĩ quan
liên lạc yêu cầu các sĩ quan cấp tướng
rời tàu trước v́ lư do an ninh. Theo kinh
nghiệm, trong trường hợp triệt thoái như
thế này có thể có những binh sĩ uất
ức, gây gổ với giới lănh đạo, làm
mất trật tự. Dĩ nhiên ta phải nghe theo nhưng
để thủy thủ đoàn đỡ xôn xao
thắc mắc, hai Phó Đề đốc Nghiêm Văn
Phú và Hoàng Cơ Minh tự nguyện ở lại. Đồng
bào được các viên chức Hoa Kỳ thu xếp
và hướng dẫn sang các thương thuyền
để chuyển sang đảo Guam. Họ làm
việc có tổ chức cao, lớp lang, khoa học và
thực tế. V́ vậy công tác di chuyển rất
tốt đẹp. Hai vị Phó Đề đốc cùng
với đồng bào sang tận Guam và chỉ trở
lại cùng gia đ́nh khi mọi người được
tiếp nhận. Phần
2 – Các nhân vật điều động cuộc di
tản Trong
bất cứ hoạch định nào, luôn có hai nhân
vật trọng yếu quyết định sự thành
bại của công cuộc. Đó là người lănh
đạo và người chấp hành. Nếu người
lănh đạo suy tính sáng suốt và đưa ra các
quyết định hợp lư th́ triển vọng thành
công đă được một nửa. Phần c̣n
lại tùy năng lực của người chấp hành.
Nhưng thường, người chấp hành có
xuất sắc lắm th́ mức thành công cũng
chỉ đạt được 80% của triển
vọng. Trong
chuyến di tản của hạm đội VNCH,
Hải quân may mắn có được hai nhân vật
xuất sắc nắm giữ hai vai tṛ này.
Đó là Phó Đô đốc Cang trong cương
vị chỉ huy và Phó Đề đốc Minh trong cương
vị điều hành. Và Phó Đề đốc Minh
điều hành tận tụy đến nỗi
mọi người đều nghĩ ông chính là người
chỉ huy toàn bộ cuộc di tản. Sẽ là
một bất công đối với Phó Đô đốc
Cang nếu sự ngộ nhận tiếp tục kéo dài.
Người viết xin nêu lên sự phân công rơ
rệt… 2.1
Phó Đô đốc Chung Tấn Cang:
Phó
Đô đốc Cang mới trở lại chức
vụ Tư lệnh Hải quân một thời gian
ngắn trước ngày 30 tháng 4. Ngoài công tác yểm
trợ cho việc triệt thoái miền Trung, phần
nhiệm cuối cùng của vị này là lo duy tŕ
hải lực trong thời kỳ suy yếu của
chế độ Việt Nam Cộng Ḥa. Quan trọng hơn
cả là sự trù liệu cho hạm đội di
tản khỏi Sài G̣n khi thành phố bị cộng quân
đe dọa. Trong
việc này, có hai quan niệm khác nhau đưa đến
việc cách chức Tư lệnh Hạm Đội
của Hải quân Đại tá Nguyễn Xuân Sơn. Theo
nhăn quan của một số sĩ quan trong đó có
thể lấy đại tá Sơn và đại tá
Kiểm làm thí dụ điển h́nh. Theo sự tŕnh
bày công khai quan điểm của hai ông trong cuốn
DVD “CHHCC”, th́: 1.
T́nh h́nh quân sự tại miền Nam là vô vọng,
sự sụp đổ của VNCH là tất yếu. 2.
Hoa Kỳ đă sẵn sàng giúp Hải quân triệt
thoái khỏi Việt Nam. (Ông Armitage đề nghị
với đại tá Kiểm và Đề đốc
Holloway gián tiếp đề nghị với đại
tá Sơn). 3.
Như vậy phải chuẩn bị Hạm đội
để di tản và mang theo tối đa dân chúng. Chính
từ quan điểm này đă dẫn đến
việc đại tá Sơn ra công điện chính
thức cho gia đ́nh thủy thủ đoàn đi theo
tàu khi đi công tác để tránh trở ngại trường
hợp có lệnh di tản. Quan niệm này được
các sĩ quan cấp dưới tán thành v́ hữu lư
và cảm thông. Tuy
nhiên trên cương vị cấp lănh đạo, Phó
Đô đốc Chung Tấn Cang nh́n vấn đề
không hoàn toàn thuần quân sự mà qua nhiều
yếu tố trong đó quan trọng nhất là
yếu tố chính trị quốc tế và một
giải pháp chính trị dung ḥa có thể được
h́nh thành. T́nh thế này đă được tŕnh bày
trong Hải sử Tuyển tập, trang 525: “…Trong
buổi họp này, các công việc chuẩn bị
đă được thảo luận và quyết định.
Tôi không nghĩ là đă có một kế hoạch
viết về dự trù di tản này. Vấn đề
di tản dân chúng cũng không thấy được
đặt ra. Chỉ nêu việc di tản hạm đội.
Bao giờ di tản th́ tùy t́nh h́nh quân sự
quyết định. C̣n làm ǵ tiếp sau th́ tùy
nhiều yếu tố chính trị phức tạp.
Một số t́nh huống có thể xảy ra: Rút
về Vùng 4 Chiến thuật và tiếp tục
chiến đấu. Hoặc chia cắt đất
hoặc lập chính phủ liên hiệp, chính quyền
tan ră. Lúc bấy giờ không ai nghĩ đến
việc đại tướng Dương Văn Minh
ra lệnh buông súng!” Theo
Đề đốc Trần Văn Chơn th́ ông không
di tản v́ “c̣n nước c̣n tát”. Các tướng
lănh đều tán thành quan niệm này. Nhưng sáng 29
tháng 4, Phó Đô đốc Cang được Đại
tướng Minh cho biết là: “Nước đă
cạn rồi, đi đi…” Cho tới lúc này, quan
niệm của Bộ Tư Lệnh Hải quân vẫn
là di tản khỏi Sài G̣n để bảo toàn
lực lượng chớ không phải để
tỵ nạn ngoại quốc. V́ vậy mọi hành
động bất thường đưa đến
suy diễn có ư định đào thoát đều không
được chấp nhận. Những hành động
bất thường này có thể dẫn đến t́nh
trạng hoảng loạn trong các đơn vị. Ngay
cả các sĩ quan cao cấp trong Bộ tư lệnh
cũng rất thận trọng khi di chuyển gia đ́nh
xuống tàu vào giờ chót. Trong
t́nh huống chưa ngă ngũ, việc đại tá Sơn
chính thức gửi công điện cho phép thủy
thủ đoàn đưa gia đ́nh xuống tàu là
một hành động tự tiện, vô nguyên
tắc. Việc cho phép thân nhân xuống tàu sẽ kéo
theo việc cho phép thân nhân vào các căn cứ trên
bờ, và như thế sẽ tạo cơ hội cho
Việt cộng trà trộn, xâm nhập toàn bộ các
đơn vị Hải Quân. V́ vậy sự việc
ông bị cách chức Tư lệnh Ham Đội là
điều dễ hiểu. Quyết định dứt
khoát, cứng rắn của Phó Đô đốc Cang có
thể đă giúp ngăn ngừa được các hành
động dẫn đến rối loạn, thiếu
an toàn trong ṿng đai Hải quân. Quan
trọng nhất là việc cách chức cũng là
để pḥng ngừa trường hợp Tư
lệnh Hạm Đội bất tuân lệnh Bộ Tư
Lệnh Hải Quân, tự ḿnh dẫn Hạm đội
rời Sài G̣n khi t́nh h́nh chính trị chưa ngă ngũ. Tôi
mong Đại tá Sơn đọc được
những ḍng này mà thông cảm với Phó Đô đốc
Cang và bớt nỗi bực dọc ở trong ḷng. Cũng
chính nhờ bộ óc nhạy bén của Phó Đô
đốc Cang đưa ra các quyết định
đứng lúc kịp thời mà chuyến di tản
được an toàn đến bến bờ tự
do… 2.2
Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh
Tôi
đă có dịp ghi trong Hải Sử Tuyển Tập:
“Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh là một tướng
lănh giỏi, lanh lẹ, tháo vát, lại có sức
bền bĩ không mệt mơi nên ông đă đóng góp
nhiều trong chuyện di tản. Nhờ ông mà hệ
thống truyền tin không bị phá rối, các
chỉ thị chuyển đi được kịp
thời, các tin tức thu nhận được đầy
đủ giúp việc đánh giá đúng mức.
Tiếng nói của ông đủ thẩm quyền
để đem lại sự tin tưởng và an tâm
cho mọi người. Ngoài ra, bất kể lúc nào,
khi có đơn vị nào cần ông có mặt tại
chỗ là ông lấy tiểu đỉnh đến
tận nơi t́m hiểu giải quyết. Tóm
lược, Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh
đă hoàn thành mỹ măn nhiệm vụ được
giao phó trong chuyến di tản là duy tŕ an ninh
truyền tin, trật tự đội h́nh và giải
quyết khó khăn trở ngại cho hạm đội
và cá nhân. Lấy
trường hợp HQ Thiếu tá Vương Thế
Tuấn, Hạm trưởng HQ 229; HQ Thiếu tá
Nguyễn Văn Phước, Hạm trưởng HQ 231
(như trong DVD) làm thí dụ. Cả hai Hạm trưởng
đều ở trạng thái hoang mang bất định
và muốn trở về Sài G̣n. Chính
Phó Đề đốc Minh đă can gián, khuyên
giải nên họ đồng ư di tản. Đây
chỉ là hai trường hợp điển h́nh. C̣n
vô số rắc rối từ cá nhân thủy thủ
đoàn… Nhờ kiến thức sâu rộng, nhờ tài
năng ăn nói của ḿnh, Phó Đề đốc
Minh đă duy tŕ được kỷ luật và
trật tự giúp cuộc hành tŕnh êm xuôi… Cũng
nhờ khả năng thu thập và phân tích t́nh h́nh,
ông đă giúp Phó Đô đốc Cang đưa ra các
quyết định nhanh chóng, hữu hiệu… Sau
nữa, nhưng không phải là sau cùng là vấn đề
oai quyền của người ra lệnh. B́nh thường
người quân nhân được huấn luyện
để tuân hành mệnh lệnh. Tuy nhiên mức
độ tuân hành cũng tùy thuộc vào hoàn
cảnh. Trong trường hợp nguy biến cấp bách,
cấp bậc của người ra lệnh càng cao th́
mệnh lệnh càng có uy lực và dễ được
tuân phục. Ta gọi đó là “lấy lon đè người”.
Đấy là lư do tại sao Phó Đề đốc
Minh được chỉ định phụ trách
hệ thống liên lạc mà không phải là đại
tá Sơn. Mặt
khác, ngoài uy quyền của một tướng lănh, cá
tính của Phó Đề đốc Minh cũng rất
đặc biệt và dễ ảnh hưởng
mạnh mẽ đến người đối
thoại. Trong mọi hoàn cảnh, ông rất b́nh tĩnh,
tự tin, lưu loát và thuyết phục mà không có tính
cách ép buộc hay áp chế. Hơn nữa, Phó Đề
đốc Minh rất dai sức, bền bĩ. Ông có
thể làm việc ngày đêm không nghỉ mà vẫn
minh mẫn, không tỏ vẻ mệt nhọc. Trong
suốt cuộc hành tŕnh, Phó Đề đốc Minh
luôn luôn hiện diện tại nhiệm sở. Đêm
như ngày, tiếng nói của ông vang vang trên hệ
thống chỉ huy đă mang lại cảm giác b́nh an
cho mọi người. Với một cá tính như
vậy, dù không là một tướng lănh, Phó Đề
đốc Minh vẫn có thể hoàn thành nhiệm
vụ của ḿnh một cách hoàn hảo. Nhưng có
lẽ cũng chính nhờ vậy mà ông được
thăng lên hàng tướng lănh một cách nhanh chóng,
trước các bạn đồng khóa…. 2.3
Đại tá Nguyễn Xuân Sơn Điều
động một hạm đội triệt thoái không
phải giản dị mà rất phức tạp.
Nếu không nắm vững t́nh h́nh hạm đội
về khả năng từng chiến hạm, t́nh
trạng kỹ thuật, mức độ khiển
dụng sẵn sàng, t́nh trạng nhân viên, tính t́nh
cấp chỉ huy… th́ rất dễ đưa ra các
quyết định khiếm khuyết gây khó khăn
cho sự điều hành và ảnh hưởng đến
sự hoàn tất của công việc. V́
nguyên là Tư lệnh Hạm Đội, đại tá
Sơn là người độc nhất trong Bộ
tham mưu hiểu thấu đáo t́nh h́nh Hạm đội
và đă thực sự có những đóng góp đáng
ghi nhận vào cuộc di tản. Như
ở phần tiểu đoạn Làm ǵ bây giờ, tôi đă kể đại tá Sơn
là người duy nhất biết cách và đă liên
lạc ngay với Hoa Kỳ. Nếu không nhờ ông, do
t́nh h́nh biến chuyển mau lẹ, kết quả
việc di tản không biết ra sao. Nên ghi nhận là
vào ngày 29 tháng 4 đă có chiến hạm tự động
cho tan hàng mà không về điểm tập trung. Hai
chiến hạm đă bỏ ư định này để
gia nhập hạm đội di tản. Trong
sự hoạch định công việc, các ư kiến
của đại tá Sơn đều được
lưu ư và tôn trọng như khi: -
Cứu xét t́nh trạng hạm đội để
đưa đến quyết định đi Subic Bay
thay v́ đi Guam. -
Chọn lựa các chiến hạm đi trợ giúp các
chiến hạm gặp khó khăn hay đi cứu
vớt đồng bào tỵ nạn. -
Ấn định đội h́nh, vận tốc và
lộ tŕnh hải hành di tản. -
Sau hết, không nhớ rơ là trong những trường
hợp nào, quá một lần người viết
vẫn h́nh dung thấy bóng đại tá Sơn đi
tới với câu nói” xong rồi” như khi vừa
hoàn tất một công việc. Kết Gần
40 năm đă trôi qua kể từ ngày 30/4/1975, bây
giờ hồi tưởng lại chuyện cũ,
chỉ là những h́nh bóng lờ mờ trong tâm trí;
kể lại những ǵ đă qua như trong một
giấc mơ, đúng sai không chắc. Nếu có ǵ
sai sót không đúng, xin độc giả cứ tự
nhiên lên tiếng, không cần tham khảo với người
viết. Xin
đa tạ. Đinh
Mạnh Hùng
|