1/ Tôi rời bịnh viện hạm HQ400 để
đi nhận Liên Đoàn 1 Thủy Bộ đang
hoạt động vùng rừng U Minh Thượng.
Trước khi vào Bộ chỉ huy đóng ở Căn
Cứ Hải Quân Xẻo Rô, tôi phải dừng lại
Tiền Doanh Yểm Trợ Rạch Sỏi để tŕnh
diện Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh,
đang nắm giữ chức Tư
Lệnh Lực Lượng Thuỷ Bộ.
Khi gặp tôi, câu hỏi đầu tiên của ông là:
- Anh nghĩ sao mà xin xuống
đây ?
Tôi trả lời ngay:
- Thưa Đô Đốc, tôi không
xin xuống đây. Đây là lệnh của pḥng
Tổng Quản Trị, BTL/HQ.
Tuy nhiên với kinh nghiệm tại các đơn vị
Hải Thuyền gần ba năm, chắc tôi sẽ làm
được những ǵ do BTL/HQ giao phó.
Phó Đề Đốc Ḿnh nói tiếp:
- Bộ Chỉ huy của anh
hiện đang đóng tại Căn Cứ Hải Quân
Xẻo Rô, và vùng hoạt động của anh là vùng
rừng U Minh Thượng.
- Thưa Đô Đốc, như
vậy th́ chừng nào tôi phải đi Xẻo Rô ?
- Anh có thể đi hôm nay hay ngày mai. Khi nào anh
muốn đi, cho tôi biết, để kêu tàu ra đón
anh.
- Vậy th́ Đô Đốc cho
tôi rời đây 9 giờ sáng ngày mai.
- Được, ngày mai hai tàu
của giang đoàn 70 hay 71 Thủy Bộ sẽ đón
anh tại Tiền Doanh Yểm Trợ Rạch Sỏi lúc
9:00 giờ sáng.
- Anh có cần muốn biết thêm
ǵ trước khi vào trong đó ?
- Thưa Đô Đốc,
tại Căn Cứ Hải Quân Xẻo Rô có đơn
vị Bộ Binh nào đóng gần đó không ?
- Có, Trung Đoàn 32 hay Trung Đoàn
33 Bộ Binh đóng phía trong một tí, khoảng
giữa Căn Cứ Hải Quân Xẻo Rô và chi khu An Biên.
- Thưa Đô Đốc, các đơn
vị Bộ Binh đóng gần, ḿnh có bị áp
lực địch mạnh hơn hay thong thả hơn ?
- Cái đó c̣n tùy. Tuy nhiên,
nếu chúng ta biết dựa nhau làm việc th́ cả
hai bên đều có phần thong thả hơn.
Sau khi ông ta cho biết t́nh h́nh an ninh tại Căn
Cứ Hải Quân Xẻo Rô cũng như t́nh h́nh địch
trong rừng U Minh Thượng xong, tôi xin phép rút lui.
Sau đó tôi ghé sang pḥng của Thiếu Tá Trần
Ngọc Liên, Ch́ Huy Trưởng Tiền Doanh Yểm
Trợ Rạch Sỏi để thăm anh ta và biết
qua Tiền Doanh, v́ đơn vị này cũng nằm
trong đơn vị 211.1 của tôi. Sau khi
chuyện tṛ xong, Thiếu Tá Liên chở tôi đi
một ṿng để biết qua t́nh h́nh thị
trấn Rạch Giá.
Sáng hôm sau hai chiếc Alfa của Giang Đoàn 71 Thủy
Bộ có mặt tại cầu tàu Tiền Doanh Rạch
Sỏi lúc 8:30H. Đại Úy Dương Văn Tèo
đi vào khu nhà sĩ quan độc thân t́m tôi.
Gặp tôi, sau khi chào hỏi, Đại Úy Tèo
hỏi:
- Chừng nào Chỉ Huy Trưởng
muốn rời đây ?
- Từ đây vào đó bao lâu ?
Tôi hỏi.
- Dạ, chừng 40 phút.
- Như vậy, cho anh em ăn cơm
trưa xong, chúng ta sẽ rời đây, khoảng 12:30
H.
- À, Thiếu Tá Bạch có ra
đây sáng nay không ?
- Thưa không, ông đang kiểm
tra tàu bè để tŕnh diện Chỉ Huy Trưởng.
Đúng 12:30H, Đại Úy Tèo tim tôi và
hướng dẫn lên tàu. Chiếc Alfa thứ
nhất th́ đang bềnh bồng trên cảng,
chiếc thứ hai vẫn c̣n cột dây tại cầu
tàu chờ tôi.
Đại Úy Tèo và tôi vừa bước chân
lên tàu thi Đại Úy Tèo hỏi anh Thuyền Trưởng:
- Tàu sẵn sàng rời bến
được chưa ?
- Da, sẵn sàng rồi.
Chừng nào Chỉ Huy Trưởng muốn rời
bến ?
- Ngay bây giờ.. Bảo
chiếc Alfa kia chạy trước, anh chạy sau.
Anh Thuyền Trưởng rồ máy, rồi nhấc
ống liên hợp của chiếc mày truyền tin PRC-25
gọi tàu bạn đang lềnh bềnh bên ngoài, và ra
lệnh cho tàu đó đi trước.
Khi hai tàu ra giữa ḍng kinh Rạch Sỏi th́ chúng hướng
về sông Cái Bé, hướng đông, ở cuối
kinh Rạch Sỏi. Tôi đến thăm hỏi anh
thuyền trưởng:
- Anh ở tàu này bao lâu rồi ?
Từ đây đi vào căn cứ Xẻo Rô mất
bao lâu ?
- Da, em ở tàu này đă hai năm
rồi. Từ đây vào căn cứ chừng 40 phút.
- Trên đường đi
từ đây vào trong đó, có tàu nào tuần tiễu
không ?
- Dạ có, hai chiếc Tango
tuần tiễu trên đoạn sông Cái Bé và kinh
Tắc Cậu.
- Hôm nay các anh nấu cơm trên
tàu ăn, hay đi ăn hàng quán bên ngoài ?
- Da, ăn trên tàu cho đỡ
tốn. Mỗi lần đi ra tiệm tốn kém
nhiều lắm, nhất là tiền la ve.
- Đừng uống la ve, hay
uống ít lại th́ làm sao tốn kém nhiều
được.
- Dạ, đă đi nhậu mà
không có bia th́ mất ngon đi nhiều. Hơn
nữa đời linh luôn gắn bó với la ve mà
Chỉ huy trưởng.
- Hồi trước tôi cũng
nghĩ như anh vậy, nhưng sau đó tôi giảm
bớt lại, thấy đỡ hơn.
Cái đỡ thứ nhất là không bị say sưa hay
ngầy ngật sau khi uống. Cái đỡ thứ
hai là tiết kiệm để vợ con có tiền mua
sắm ăn mặc.
- Tụi em sống nay
chết mai th́ nhậu nhiều đỡ phải lo nghĩ,
và khi đi hành quân đỡ phải thắc mắc là
lâu hay mau.
- Em ở trên tàu mà có la ve uống bất cứ lúc
nào là em ở bao lâu cũng được.
- Anh nói nghe cũng có lư ! nhưng phải nghĩ
đến hoàn cảnh vợ con nữa chứ !
Nói xong tôi quay sang Đại Úy Tèo nói:
- Anh liên lạc với Thiếu Tá Bạch, nói,
tôi cần gặp ông ta và Thiếu Tá Bùi Tỵ
khi tôi vào đến căn cứ.
Khi tàu đi qua kinh Tắc Cậu, tôi
thấy con kinh quá hẹp, nên sau khi tàu qua khỏi kinh,
đến sông Cái Lớn, tôi bảo Đại Úy Tèo
cho tàu quay trở lại kinh Tắc Cậu một
lần nữa để xem địa h́nh của con kính
cũng như nhà của dân hai bên bờ con kinh có
nhiều không.
Vi tàu phải quay lại kinh Tắc Cậu nên phải
mất một giờ đồng hồ chúng tôi mới
đến căn cứ Hải Quân Xẻo Rô. Tàu
chưa cập vào ponton mà tôi đă thấy Thiếu Tá
Bạch và Thiếu tá Tỵ đứng trên ponton
cầu chờ tôi.
Sau khi bắt tay, Thiếu Tá Tỵ nói:
- Mời Chỉ Huy Trưởng vào
pḥng của Chỉ huy trưởng luôn, và chúng ta có
thể nói chuyện tại đó.
Pḥng ngủ dành cho tôi là một lô cốt làm bằng
cọc sắt, chung quanh cũng như nóc lô cốt là 4
lớp bao cát, trông rất kiên cố.
Lô cốt nầy có hai pḥng. Pḥng bên ngoài, khi
mới bước vào là pḥng họp hành quân, pḥng bên
trong nhỏ hơn, dùng làm pḥng ngủ.
Chúng tôi ngồi tại pḥng hành quân nghỉ ngơi và
nói chuyện t́nh h́nh đơn vị.
Thiếu
Tạ Tỵ, Chỉ huy Trường Căn Cứ
Xẻo Rô gọi la ve từ câu lạc bộ lên mời
uống. Tôi hỏi qua t́nh h́nh hai giang đoàn 70 và
71 Thủy Bộ, cũng như an ninh và sự pḥng
thủ của Căn Cứ. Thiếu Tạ Ty nói:
- Kể từ khi có hai Trung Đoàn
32 và 33 về đây, chúng tôi ít bị Việt cộng
quấy rối. Đại Tá Sảnh, Trung
đoàn trưởng TĐ/33/BB và ban chỉ huy hành quân
nhẹ của ông ta thường ở trong căn
cứ này.
Tôi nhận chức và sau một thời gian ở đây,
một hôm Đại Tá Sảnh hỏi Thiếu Tạ
Tỵ, muốn mượn một pḥng trống để
sinh hoạt với sĩ quan ban đêm. Thiếu Tá
Tỵ trả lời:
- Ở đây chỉ có pḥng
của Thiếu Tá Niệm là an toàn để ban tham mưu
của Đại Tá sinh hoạt, nhưng nếu nói
chuyện lớn, không biết ông ta có ngủ được
không ? Đại Tá thử hỏi ông ta xem sao ?
Đại Tá Sảnh hỏi tôi, tôi đồng ư cho mượn
căn pḥng hành quân bên ngoài.
Ông Thiếu tá Tỵ của căn
cứ Hải quân Xẻo Rô có cái đặc biệt là
h́nh như ông ta muốn xa lánh nơi ồn ào náo
nhiệt, thích nơi yên tỉnh, nên sĩ quan ai cũng
muốn ở gần Bộ Tư Lệnh hay phục
vụ trên các chiến hạm. Nhưng Thiếu tá
Tỵ, hết ở giang đoàn 75 Thủy Bộ (làm
chỉ huy Trưởng), mà trước đó tôi đă
gặp ông ta tại Năm Căn, khi ông đem chiến
đỉnh đi hộ tống bịnh viện
hạm HQ400 của tôi từ cửa sông Năm Căn
vào BTL/HQ/V5DH, ở ngay tại Năm Căn. Sau khi
rời giang đoàn 75, ông lại vào tận Xẻo Rô,
một nơi khỉ ho c̣ gáy để phục vụ
cho Hải quân. Không biết khi ông ta tŕnh diện
Đô Đốc Hoàng Cơ Minh, ông có được
ông Minh hỏi như ông ta đă hỏi tôi không ?
“Tại sao anh xin xuống đơn vị này ?”.
Chưa
hết, khi sang Mỹ, ai cũng muốn đến vùng
thủ đô tị nạn của người Việt
để ở, riêng vợ chồng ông ta, đi măi cho
đến vùng biên giới Mỹ Mễ để
sống. Gần đây, hômThứ Năm, ngày 4
tháng 3, 2013, hai vợ chồng ông ta từ Texas sang
Washington DC để xem hoa anh đào, chúng tôi gặp
nhau tại tiệm ăn Hương việt, trong khu Eden
center, tôi đề nghị anh ta, nên đi gặp
thầy tướng số hay tử vi nào giỏi,
chấm cho một lá số, xem là con ǵ, mà lúc nào anh ta
cũng bị ở xa mọi người ?
Tuy chọc anh ta như vậy, chứ sự thật,
phần tôi th́ cũng chẳng khá hơn anh ta bao nhiêu.
V́ hồi mới ra trường, khóa tôi, ai nấy
đều được gởi đi phục vụ
chiến hạm, Bộ Tư Lệnh, hay các giang đoàn
có căn cứ gần thành phố lớn. Riêng tôi,
th́ phải đến một đơn vị nằm
trong khu vực Đặc Khu Rừng Sát, đó là đội
33 Hải Thuyền, một đơn vị vừa
mới bị Việt cộng lấy mất một ghe
chủ lực. C̣n những tháng ngày trước 30
tháng 4, 1975, tôi cũng ở nơi xa xôi hẻo lánh như
anh ta, đó là Liên đoàn 1 Thủy Bộ, mà Bộ
chỉ huy nằm tại Xẻo Rô, trong căn cứ
của anh ta.
Tôi phụ trách Liên đoàn 1 Thủy Bộ kiêm Chỉ
huy Trưởng 211.1, nên trong vùng hoạt động
của tôi, ngoài hai giang đoàn cơ hữu là giang
đoàn 70 và 71, tôi c̣n phụ trách thêm Căn Cứ
Hải Quân Xẻo Rô và Tiền Doanh Yểm Trợ
Rạch Sỏi.
Đơn vị tôi trách nhiệm vùng rừng U
Minh Thượng, vùng này là một vùng śnh lầy
trải dài dọc theo hai bên con kinh Cán Gáo, chạy
từ đông sang tây.
Kinh Cán Gáo xuất phát từ thượng
nguồn,ở sâu trong rừng U Minh Thượng về
phía đông, chảy về hướng tây, phía sông Cái
Lớn. Hai bên con kinh Cán Gáo này có những con kinh
nhỏ từ hai bên rừng śnh chảy ra, nhập vào
kinh Cán Gáo. Tôi không biết, ban đầu t́m ra
những con kinh này, người xưa tại sao không
đặt tên những con kinh nhỏ hai bên kinh Cán Gáo,
bắt đầu kinh Thứ Nhất là kinh từ thượng
nguồn, mà họ đặt ngược lại, kinh
Thứ Nhất bắt đầu từ hạ nguồn,
nghĩa là, kinh Thứ Nhất bắt đầu từ
sông Cái Lớn tại Xẻo Rô, chạy sâu măi và ngược
ḍng, cho đến kinh Thứ 11. Nơi này có
một làng nhỏ, tên là G̣ Quao. Hằng ngày có ghe
buôn chở người và hàng hóa từ kinh Thứ 11
ra đến những vùng dọc theo hai bên kinh Cán Gáo.
Phía tây sông Cái Lớn là sông Cái Bé. Hai con sông này
thông thương với nhau bằng một con rạch
nhỏ, gọi là rạch Tắc Cậu. Thuyền
bè theo rạch Tắc Cậu qua sông Cái Bé ,rồi đến
kinh Rạch sỏi, để đổ người và
hàng hóa xuống trạm chót này, trạm Rạch
Sỏi.. Tại đây, hàng hóa chuyển ra chợ
Rạch Giá hay các tỉnh lân cận bằng xe đ̣.
Hết kinh Thứ 11, vùng rừng U Minh Thượng
nối tiếp với khu rừng khác về phía đông
bắc, có cái tên na ná như trên, đó là rừng U
Minh Hạ. Vùng này thuộc khu vực tỉnh Cà
Mau, mà Bộ chỉ Huy vùng 5 Duyên Hải đóng
tại Năm Căn. Các chiến hạm từ
biển muốn vào Bộ Chỉ Huy vùng 5 Duyên Hải
(BCH/V5DH) phải mất chừng nửa tiếng hải
hành, và phải có hộ tống của giang đoàn
đang hoạt động tại đây.
Hai vùng U Minh Thượng và U Minh Hạ giống nhau, v́
cả hai đều là rừng tràm và là rừng śnh
lầy.
Hai Trung Đoàn 32 và 33.
Hai Trung Đoàn 32 va 33 hoạt động ở vùng này
thường phối hợp với Hải quân mỗi
khi hành quân. V́ thế mỗi khi hai trung đoàn này
vào đây hoạt động, Căn Cứ Hải
Quân Xẻo Rô tương đối vững tâm hơn
về mặt an ninh. Ngay bên ngoài căn cứ là
chợ Xẻo Rô. Nhưng cái chợ lớn hơn
ở vùng này là chợ Kiên An, v́ Kiên An là quận
lỵ .
Tôi ở căn cứ Hải Quân Xẻo Rô chừng ba
tháng th́ Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh dời
Bộ Tư Lệnh của ông từ Rạch Sỏi
về B́nh Thủy, v́ thế Bộ Chi huy 211.1 của tôi
được lệnh dời về Rạch Sỏi,
nằm trong phạm vi của Tiền Doanh Yểm Trợ
Rạch Sỏi. Khi ấy hai giang đoàn 70 va 71 cũng
dời về đây, và không khí Tiền Doanh Rạch
Sỏi trở nên nhộn nhịp hơn. Tại đây
tôi thường xuyên liên lạc với quận
Rạch Sỏi và tỉnh Kiên Giang để theo dơi tin
tức và phối hợp hành quân.
Đến tối 29 tháng 4, 1975,
lợi dụng t́nh h́nh Sài G̣n lộn xộn, Việt
cộng đem quân tấn công Tiền Doanh Yểm
Trợ Rạch Sỏi. Chúng pháo kích vào Tiền
Doanh, làm chết hai và làm ba nhân viên khác của
Tiền Doanh bị thương. Chúng tôi
ứng trực cho đến sáng, rồi tôi thành
lập há Trung đội với trang bị hỏa
lực đầy đủ, đưa ra ngoài để
đẩy lùi địch xa Tiền Doanh chừng
một cây số.
Trong lúc đang theo dơi t́nh h́nh hai bên
ở bên ngoài Tiền Doanh, Trung úy Nghĩa, sĩ
quan hành quân của Liên Đoàn chạy ra báo cáo cho tôi
rằng, Sài G̣n đă đầu hàng. Tôi vội
chạy vào pḥng truyền tin, th́ nghe tiếng của
Đại Tướng Dương Vân Ḿnh kêu gọi quân
nhân buông súng. Tôi liền triệt thối hai trung đội
bên ngoài trở về đơn vị.
Mặt khác tôi gọi điện thoại về B́nh
Thủy để xin chỉ thị của Đại
Tá Nguyễn Bá Trang, Tư Lệnh Lực Lượng
Thủy Bộ, nhưng tôi chỉ gặp được
Trung Tá Nguyễn Văn Hoa, xử lư thuờng
vụ Tư Lệnh Lực Lượng Thuỷ Bộ.
Ông ta cho biết, Đại tá Trang đă rời B́nh
Thủy, xuống Cần Thơ, thay thế Đô
Đốc Thăng. Tôi hỏi Trung Tá Hoa, với
t́nh h́nh hiện tại, xin ông cho chỉ thị. Ông
bảo tôi theo lệnh địa phương. Tôi nói
với ông rằng, từ trước đến nay, chúng
tôi chỉ theo lệnh của Hải Quân, đâu có
đơn vị bộ binh hay địa phương nào
ra lệnh cho chúng tôi. Trung Tá Hoa nói, bây giờ th́
cứ theo lệnh họ đi. Gác máy, tôi gọi Trung
Tá Trổ, tỉnh trưởng Kiên Giang, để
biết thêm tin tức và t́nh h́nh vùng 4 chiến
thuật thế nào? Ông ta yêu cầu tôi chờ,
để ông hỏi lại Tư Lệnh vùng 4
chiến thuật, rồi cho biết sâu. Chừng năm
phút sau, ông ta gọi lại và cho tôi biết rằng,
lệnh của quân khu 4 là tử thủ.
Tôi nghĩ, như vậy là không ổn rồi. Sài G̣n
đầu hàng, Vùng 4 tử thủ (?). Tôi vội
tập họp các vị Chỉ Huy Trưởng các
đơn vị của tôi: Giang đoàn 70 TB, Giang đoàn
71 TB, Tiền doanh yểm trợ Rạch Sỏi để
thông báo quyết định của tôi. Sau khi
hỏi qua ư kiến từng người, tôi yêu cầu
các đơn vị cho tất cả nhân viên lên tàu,
sẵn sàng đợi lệnh.
Mặt khác tôi lên máy nói chuyện với Chỉ Huy Trưởng
Căn Cứ Hải Quân Xẻo Rô, yêu cầu ông ta cho
tất cả nhân viên lên tàu và t́m thêm vài chiếc
ghe, chở họ ra biển khi có lệnh. Tôi cũng
cho ông ta biết là tôi sẽ đón tất cả nhân
viên của căn cứ tại cửa sông Cái Lớn.
Tôi dặn tất cả sĩ quan đừng tiết
lộ cuộc di chuyển của chúng tôi cho tỉnh Kiên
Giang và quận Kiên Thành biết, v́ chúng tôi có thể
bị rắc rối nếu họ biết. Chúng tôi
kéo nhau ra biển, và trên đường từ sông
Rạch Sỏi ra biển, tôi cho các vị Chỉ Huy Trưởng
biết rằng, hể có B40 nào từ các nhà lầu
hai bên bờ sông bắn ra tàu, thi triệt hạ ngay các
nhà lầu đó.
Tối hôm đó đoàn tàu chúng tôi ra đến
cửa sông Cái Lớn. Chúng tôi gặp đoàn tàu
của Căn Cứ Hải Quân Xẻo Rô, dừng
lại giữa sông, để chuyến gia đ́nh và nhân
viên của căn cứ Xẻo Rô sang các tiểu đỉnh
của hai giang đoàn 70 và 71 Thủy Bộ.
Khi chuyển quân xong, tôi cho đoàn tàu
trực chỉ Ḥn Tre, hậu cứ của Duyên Đoàn
43 Hải Thuyền. Khoảng 3 giờ sáng chúng tôi
tới đảo Ḥn Tre, nhưng v́ không biết t́nh h́nh
trên Ḥn Tre như thế nào, chúng tôi đưa tàu lên
phía bắc Ḥn Tre, neo tại đây, chờ sáng hôm sau,
tùy theo t́nh h́nh mà quyết định.
Sáng hôm sau chúng tôi liên lạc được
với đài kiểm báo Ḥn Nam Du (đài kiểm báo
của vùng 4 Duyên hải). Nơi đây cho
biết, chiều hôm trước, tất cả tàu bè và
các đơn vị Hải Quân cơ động đă
đến Côn Sơn, và tất cả sẽ khởi hành
đi Guam khi có lệnh. Tôi nhờ đài kiểm báo
liên lạc với đoàn tàu, chờ chúng tôi ra đến
nơi mới khởi hành có được không ?.
Đài kiểm báo nói họ sẽ cố gắng liên
lạc, khi nào được sẽ báo cho chúng tôi
biết. Tuy là yêu cầu của tôi như vậy,
nhưng tôi nghĩ rằng, họ sẽ không
thể nào đợi chúng tôi được, v́
thời gian mà các chiến đĩnh của chúng tôi
khởi hành từ Ḥn Tre cho khi đến được
Côn đảo, ít nhất cũng phải mất 36
giờ. Họ không thể nào chờ đợi
với một thời gian quá đài như vậy
được. V́ thế tôi cho đoàn giang đỉnh
của tôi cập vào cầu tàu của Duyên Đoàn 43
để nghỉ ngơi. Các du kich Việt Cộng
địa phương tuy thấy chúng tôi vào, nhưng
không làm ǵ hơn là để chúng tôi đi lại
tự do trên bờ.
Khoảng 3 giờ chiều th́
đoàn ghe tàu của Đại Tá Nguyễn Văn
May, Tư lệnh Vùng 5 Duyên Hải ở Năm Căn
cũng kéo đến Ḥn Tre. Tuy tôi có gặp ông
để chào và hỏi thăm sức khỏe cũng
như t́nh h́nh, nhưng không để cập đến
lư do v́ sao ông kéo đoàn ghe tàu đến đây.
Đến khoảng 5 giờ chiều, Việt
cộng tại đây ra lệnh cho các đơn vị
Hải Quân chạy theo họ, để vào Kiên An.
Họ chạy trước, Hải Quân chúng tôi chạy
theo sau, kể cả đoàn ghe tàu của Đại Tá
May. Khi đoàn tàu đi được chừng 5
hải lư, tôi dặn anh thuyền trưởng chiếc
tàu LCM-8 , tàu của Tiền Doanh Yểm Trợ Rạch
Sỏi, mà tôi đang đi, hăy t́m chỗ nào cạn,
ủi tàu vào đó, rồi gọi máy báo cáo cho
tụi Việt Cộng biết là tàu ḿnh bị mắc
cạn. V́ nhiều tàu quá, chúng cũng chả thèm chú
ư đến tàu của tôi mắc cạn. Chúng
bảo, khi nào tàu tôi ra khỏi cạn th́ chạy vào
Kiên An sau.
Gác mũi LCM-8 lên cạn nghỉ một đêm, sáng
hôm sau, lúc 6 giờ, tôi cho tàu lùi khỏi cạn và
chạy vào bến tàu Rạch Giá. Tôi bỏ tàu
tại cầu tầu, và cho tất cả nhân viên, ai
nấy về với gia đ́nh của ḿnh. không
cần phải báo cáo với Việt Cộng ở Kiên
An. Theo tôi nghĩ, vào Kiên An, thế nào họ cũng
giam giữ chúng tôi vài tuần để chờ
lệnh cấp trên của họ.
Khi đó trên tàu của tôi, có
một nhân viên thuộc Tiền Doanh Yểm Trợ
Rạch Sỏi, anh Thuợng Sĩ Liêm, có gia đ́nh
tại Rạch Giá, anh ta mời chúng tôi ghé nhà anh ta
nghỉ ngơi trước khi về Sài G̣n hay quê quán
các nơi. Gia đ́nh tôi và gia đ́nh anh Liên,
Chỉ Huy Trưởng Tiền Doanh Yểm trợ
Rạch Sỏi, kéo nhau đến nhà anh Liêm nghỉ ngơi
một ngày một đêm. Sáng hôm sau chúng tôi
từ giả gia đ́nh anh Liêm, ra bến xe mua vé xe
đ̣ về Sài G̣n.
Tại Sài G̣n tôi có một căn nhà tại
cư xá Thanh Đa, nên chúng tôi về ở tạm nơi
đó, theo dơi tin tức. Sau đó tôi bung ra chợ
Trời Huỳnh Thúc Kháng, Sài G̣n, đón mua đồ
đạt mà người dân đô thành mang ra chợ
Trời bán. Tôi đón họ dọc đường
để mang đến chợ Trời bán lại
kiếm lời. Có hôm tôi đến chợ Bà
Chiểu, Gia Định. Tại đây, tôi làm quen
được với hai anh bán chợ Trời khá lâu
ở đây, nhờ một ít đồ dùng có
sẵn, tôi cho hai anh ta. Hôm sau tôi trở lại
đứng bên cạnh hai anh để bán những
mặt hàng tôi mua được. Thấy tôi có
nhiều hàng mà không có nơi bày hàng, hai anh mỗi người
thu hẹp chỗ ḿnh đứng, nhường cho tôi
một chỗ tuy hẹp, nhưng tương đối
cũng có thể bày hàng ra bán được. Hai
anh cũng rất vui sau khi tôi có chỗ và cho thêm đồ
dùng cho hai anh. Tuy ban đầu chỗ của tôi
đứng rất hẹp, nhưng vài ngày sau th́ tôi cũng
có một chỗ rộng bằng chỗ như hai anh.
Khi có chỗ bán ở chợ Bà
Chiểu rồi, hằng ngày tôi ra đó đứng mua
và bán hàng kiếm tiền sinh sống, không phải
xuống chợ Trời ở Sài G̣n nữa. Làm
được chừng hai tuần lễ, tôi kiếm
được trên một trăm ngàn đồng
(tiền lúc bấy giờ). Sau đó tôi bỏ
chợ Trời, đi tŕnh diện tại trường
Trung học Tabert theo thông cáo trên đài phát thanh
của chính phủ Việt cộng, để đi
học tập cải tạo. Tuy là đi tŕnh
diện để ở tù, nhưng mỗi người
khi đến tŕnh diện phải đóng trước
tiền ăn hai tháng.
Tổng số tiền tôi kiếm được khi buôn
bán ngoài chợ Trời bằng hai tháng tiền lương
của tôi trước đó. Nhưng khi đến
tŕnh diện đi tù, tôi không biết sau đó với
số tiền như vậy, bà xă tôi và bốn đứa
bé sinh sống bằng cách nào ?
Sau khi tŕnh diện, mọi quân nhân phải ngủ
ở đó ít nhất từ một đến ba đêm,
v́ thời gian ấn định cho tŕnh diện là ba ngày,
đó là những ngày 13, 14, và 15 tháng 6, 1975.
Ban đầu, bàn tính ngày đi tŕnh diện với bà
xă, chúng tôi nói, nên đi tŕnh diện ngày 13 cho đỡ
rắc rối. Nhưng khi đến ngày 13, tôi không
đi được v́ không nở chia tay với vợ
con, nên tự hẹn lại với ḿnh là ngày hôm sau
sẽ đi tŕnh diện.
Đến ngày 14, tôi cũng không thể rời nhà
được, v́ vợ con. Hơn nữa, đi
kỳ này không biết là phải xa gia đ́nh bao lâu ?
Cũng có thể là không bao giờ trở lại
với gia đ́nh. Ở thêm với gia đ́nh cho
đến thời hạn chót, ngày 15, tôi mới vát xách
vải bố đến tŕnh diện, vào cái giờ
gần như trong số những người đến
tŕnh diện sau chót. V́ tŕnh diện ngày cuối nên
tôi chỉ phải ngủ tại trường Tabert
một đêm thôi.
Sáng hôm sau tất cả chúng tôi, những quân nhân tŕnh
diện tại đây được Việt cộng lùa
lên xe molotova, chở tất cả ra Long Giao, một vùng
đất đỏ, lau sậy, mà các đơn vị
bộ binh của chúng ta trú đóng trước đây
bỏ lại. Nơi đây có những dăy nhà tương
đối có thể tạm trú mưa nắng nên
rất tiện cho bọn chúng quản lư chúng tôi.
Việc nấu nướng cho ăn uống th́ chúng
bắt chúng tôi phải tự làm lấy. Hằng
ngày họ lùa chúng tôi ra những băi lau sậy bắt
nhổ. Ban đầu chúng tôi không ai ngờ
được là chúng tôi sẽ nhổ được
những bụi lau sậy ấy bằng tay, v́ nhiều
cụm lau sậy rộng từ hai đến ba thước,
chiều cao phủ khỏi đầu người.
Thân lau sậy lớn bằng ngón tay. Thế mà
trong vài tuần lễ, cảnh rừng rú của lau
sậy không c̣n nữa.
Rồi chúng đi t́m cuốc xẻng, bắt chúng tôi
đi cuốc đất, vun luống,trồng khoai ḿ,
khoai lang, bắp. Nghĩa là những thứ ǵ ăn
được chúng đều bắt chúng tôi làm.
Sau vài tuần lễ chúng
bắt đầu bắt chúng tôi học tập, cái
gọi là mười
bài học tập cơ bản, nói về Mỹ Ngụy và cuộc chiến
tranh thần thánh của chúng về chống Mỹ
cứu nước.
Ở Long Giao được sáu tháng,
chúng di chuyển chúng tôi về Suối Máu, Tân
Hiệp.
Nơi đây có những dăy nhà tôn của Việt Nam
Cộng Ḥa để lại, có hàng rào kẻm gai, và
phân thành từng khu, chúng dễ kiểm soát được
chúng tôi, không sợ chúng tôi trốn. Về
Suối Máu lẽ dĩ nhiên phải tiếp tục
học tập mười bài cải tạo mà chúng
đă đưa ra.
Trong thời gian đó, những vùng
ở phía tây Bảy Hiền, có những trại mà thành
phần sĩ quan chúng tôi bị giam giữ tại đó,
họ t́m cách trốn trại. Nhưng không
trốn được, họ bị bắt lại,
bị xử án. Có người bị xử
bắn tại chỗ Có người bị
xử tử h́nh nhưng chưa đem ra hành quyết.
Có người bị xử án tù. Có lẽ chúng
thấy trại Suối Máu giữ tù an toàn hơn, nên
họ di chuyển số tù trên đó về trại
Suối Máu, nhốt chung với chúng tôi. Khi
đưa về Suối Máu, có hai anh bị án tù,
một anh bị kêu án xử tử. Chúng tôi coi
đó là một đ̣n hăm dọa, dằn mặt tù
cải tạo tại đây. Khi đó họ gọi
mỗi nhà mà chúng tôi bị giam giữ với cái tên
họ thường dùng là “lán”. Tôi ,anh Trần
Hữu Khánh, và anh Nguyễn Phú Bá, cả hai là
khóa 11 Hải quân, ở lán 10. Tôi nằm giữa,
anh Khánh và anh Bá nằm hai bên. C̣n anh Nguyễn Văn
Bảo (khóa 12), anh Trần Thế Diệp (khóa 11),
Thiếu tá Lư Anh Kiệt, làm ở hải tiếp
vụ trước kia, ở lán 9. Anh Nguyễn Khương
Ninh (khóa 12), tôi không nhớ anh ta ở lán nào.
Nhưng khi đó, Ninh được chỉ định
phục vụ nhà bếp.
Đệ Nhất Song Ngư Họp Khóa Trong Tù
2/ Hồi đó gặp dịp Song Ngư kỷ
niệm ngày ra trường, anh em gặp nhau, và muốn
có một buổi gặp mặt về ban đêm, để
cùng ăn chung một bửa. Anh em đồng ư và
đề nghị tôi làm trưởng ban tổ chức
cho lần họp khóa đặc biệt này. V́ anh em ai
cũng trắng tay, chẳng có ǵ đóng góp, tôi đề
nghị, nhờ anh Ninh, đang làm trong nhà bếp,
nấu hộ cho chúng tôi một nồi chè. Phần tôi,
đi thu góp từ mỗi anh em, mỗi người hai tán
đường đen hột xoài. Tuy thế, nhưng có
vài anh em không có đường để đóng góp.
Tôi phải thương lượng với những anh
có đường, cho những anh không có, mượn
tạm, khi nào có sẽ trả lại. Nói th́ dễ, nhưng
thời buổi đó, đi mượn được
hai tán đường, không phải là việc dễ làm.
Nhưng rồi chúng tôi cũng thực hiện
được. Đường và nếp, có được
bao nhiêu th́ đem giao cho Ninh. Nếu thiếu cái ǵ th́
nhờ Ninh xoay trở.
Tới đêm gặp mặt, Ninh ở lại
trễ trong nhà bếp, để quét dọn và lau chùi
bếp, đồng thời chờ chúng tôi đến
để phân phối chè. Mỗi người chúng tôi
đem một cái ca, đi đến nhà bếp, như
những cải tạo viên khác là đi lấy nước
đun sôi để uống. Đến nơi, gặp
Ninh, mỗi người đưa ca nhựa cho Ninh, anh
ta chỉ việc múc chè đổ vào đầy ca là
chúng tôi rời bếp. Chúng tôi hẹn gặp nhau
tại một khu trống vắng ở đầu
một lán, chờ anh Ninh đến. Chúng tôi bắt
đầu cuộc họp khóa bằng những câu
chuyện vui và những kỷ niệm hồi c̣n ở
quân trường và trong thời gian phục vụ
tại các đơn vị. Chúng tôi vừa tṛ
chuyện vừa thưởng thức món chè do anh Ninh
nấu. Đêm đó, tuy là một đêm trong tù, nhưng
chúng tôi cảm thấy đầy đủ ư nghĩa
về t́nh đồng môn hai năm trong quân trường,
và những ǵ đă trải qua sau 11 năm lăn
lộn trên sông rạch và biển cả. Đó là
lần họp khóa duy nhất trong tù. Tuy đơn sơ,
nhưng là một trời kỷ niệm khó quên,
nhất là anh đầu bếp Nguyễn Khương
Ninh, một kỷ niệm để đời tại
trại Suối Máu, Tân Hiệp.
Sau đó anh
Trần Thế Diệp, khóa 11,
dẫn anh Bảo và anh Kiệt đến rũ tôi gia
nhập vào nhóm vượt biên của anh ta khi
được thả về. Anh ta cho biết, anh c̣n vài
chiếc tàu có thể xử dụng vào việc này.
Sở dĩ anh cần tôi là để tôi làm thuyền
trưởng dẫn tàu đi. Tôi đồng ư ngay, và
mong cho chóng đến ngày thả về để lên tàu
ra khơi.
Kế hoạch chưa đến đâu th́ một hôm
Việt cộng tập họp chúng tôi và đọc tên
những cải tạo viên sẽ được
đưa ra Bắc để tiếp tục học
tập cải tạo. Phần Hải quân trong trại tôi
chỉ có tôi và anh Trần Hữu Khánh (khóa 11).
Hai ngày sau, chúng tôi được đưa xuống tàu,
chở ra Hải Pḥng, rồi chuyển sang xe lửa ra Hà
Nội, và tiếp tục đưa chúng tôi lên vùng
rừng núi phía bắc, giáp ranh với Trung quốc.
Trại đầu tiên chúng tôi được
đưa đến là một vùng rừng núi cách làng
dân rất xa, mà nơi đây người ta gọi là
trại Đá Cạnh. Tại đó có con suối
chảy qua. V́ không có nhà sẵn, nên thời gian đầu
chúng tôi phải ngủ ngoài trời. Sau đó họ
đưa chúng tôi lên rừng lấy tre nứa về xây
cất láng trại để ở. Ở đây
chừng ba bốn tháng, họ lại dời chúng tôi
sang một trại khác, tại đây có vài cái lán
sẵn, có thể chứa khoảng ba trăm người
tù.
V́ tôi không thích làm tổ trưởng hay lán trưởng,
nên khi mới vào gian lán trại mới, tôi vác ba lô
đặt ở khu giữa dăy giường, v́ thông thường
bọn chúng hay chỉ định người nằm
đầu dăy giường và cuối dăy giường
làm đội trưởng, đội phó, hay tổ trưởng,
tổ phó. Hôm đó dăy giường từ đầu
đến cuối có tất cả là 39 chỗ nằm
ngủ. Sau khi vào vị trí chỗ ngủ xong, họ
chia thành tổ như sau: từ số 1 đến người
thứ 13 là tổ 1, từ số 14 đến số 26
là tổ 2, và từ số 27 đến số 39 là
tổ 3. Tổ tôi, anh số 1 là anh Khánh, được
chỉ định làm láng trưởng kiêm tổ trưởng
tổ 1, tôi số 13, người cuối cùng trong
tổ, nên được chỉ định làm tổ
phó tổ 1. V́ thế khi dẫn anh em lên núi chặt cây
làm láng trại, tổ 1 là phần hành của tôi, v́
anh Khánh bận chức lán trưởng, có nhiều
việc khác phải làm.
Một hôm tôi dẫn tổ tôi lên rừng phát quang và
chặt cây. V́ trời nắng và anh em quá mệt, tôi nói
với anh em rằng:
Nếu không có tụi cán bộ, các anh cứ lẫn vào
rừng, xem chỗ nào mát ngồi nghỉ. Tôi ở bên
ngoài, khi tụi nó đến, nghe tôi hú hay tằng
hắng lớn, anh em trở lại nhiệm sở. Nhưng
số tôi xui, tên cán bộ đi kiểm soát, nó không
đi từ ngoài vào, mà chúng tôi không biết nó vào phía
trong rừng lúc nào, nên nó kiểm sóat chúng tôi từ
trong rừng đi ra. Nó không thấy anh em làm việc, nên
khi ra ngoài, nó gọi tôi đến hỏi:
Những anh kia làm việc ở đâu ?
Tôi chỉ vào rừng, nhưng nó vừa từ trong
đó đi ra, chẳng thấy ai cả. Nó nghĩ tôi
đă dối nó. Nó kêu tôi xách con dao theo nó đến
một cây thật lớn, thân cây ôm một ṿng tay chưa
hết, nó bảo tôi chặt hạ cái cây đó
xuống.
Khi tôi chặt cái cây độ chừng mười phút
th́ hết giờ làm việc, chúng cho gọi thu quân. Tôi
gọi anh em và cho điểm danh để về
trại. Về đến trại, vừa rửa tay chân
xong th́ nhà bếp gọi lấy cơm. Trong lúc anh em
đang chờ lănh cơm th́ tên cán bộ xuất
hiện t́m tôi. Hắn hỏi tôi, đă hạ cái cây
mà hắn chỉ định xong chưa? Tôi trả
lời - chưa! V́ tôi đang chặt cây th́ có
lệnh thu quân về lán trại. Hắn bảo tôi:
- Anh vào lấy dao ra rừng chặt cái cây ấy cho ngă
rồi mới về ăn cơm. Nghe thế, anh Chương,
cùng tổ với tôi, biết nó phạt tôi, nên anh nói:
- Anh chờ tôi đi lấy dao chặt phụ với
anh cho nhanh. Một ḿnh anh, chặt đến chin giờ
tối cũng chưa ngă cái cây đó đâu. Nói xong
anh ta chạy vào lán, xách con dao đi theo tôi, trở vào
rừng. Hai anh em thay phiên nhau chặt cái cây ấy,
mất gần một tiếng đồng hồ cây
mới ngă xuống.
Hai anh em xách dao xuống suối, rửa dao và tay chân
xong, mới trở về lán trại ăn cơm sau. Anh
Chương giúp tôi chặt cây, nên mọi cảm t́nh
tôi đều dành cho anh ta từ đó.
Ở trại này được vài tháng, chúng
chuyển chúng tôi đến trại Kiên Thành. Trại
này có cái đặc biệt là người Thượng
ở đây từ trước, nay họ đă bỏ
đi. V́ khi chúng tôi mới đến, phải phát
quang để xây dựng lán trại, chúng tôi đă
gặp những hủ, ghè, mà bên trong đựng xương
hay tro hài cốt người chết. Sở dĩ chúng
tôi để ư việc này là v́, sau khi ở trại này
vài tháng th́ một số anh em đă vĩnh viễn ra
đi, mà nguyên nhân là bịnh thiếu dinh dưỡng
hay tai nạn khi vào rừng làm việc.
Anh Nguyễn Văn Chương, người đă giúp
tôi chặt ngă cái cây mà tên cán bộ phạt tôi, cũng
lâm vào trường hợp này. Một hôm, tôi ra
cổng trại để đi làm, thấy anh đang
đứng cùng một số bạn bè tại trạm
xá, ngay cổng ra vào, chờ xin thuốc, lẽ dĩ
nhiên là những rễ cây mà họ gọi là thuốc
nam. Tôi kêu lớn và hỏi anh ta:
- Anh Chương hôm nay bịnh ǵ mà vào xin thuốc
vậy ?
- Không biết bịnh ǵ mà lúc nào ḿnh cũng thấy
người lờ đờ,buồn bực, yếu
đuối, nhiều khi đi đứng không vững.
Tôi nói với anh:
- Anh cố gắng giữ ǵn sức khỏe, nếu không,
để cho cơ thể bị quỵ xuống, là không
đứng dậy được đâu.
Ba ngày sau, tôi được ở nhà dọn dẹp lán
trại, th́ một anh bạn ở lán 6 (tôi ở lán
3) chạy tới kêu tôi, nhờ sang nhanh lán anh, xem
hộ t́nh trạng anh Chương. Anh ta nói:
- Nhờ anh sang xem hộ, anh Chương h́nh như
chết rồi, mà sao anh ấy c̣n hút thuốc.
Tôi vội vàng vứt cái chổi vào góc nhà và chạy
sang lán 6. Vừa vào cửa, cái giường thứ tư
từ cửa vào, anh Chương nằm ngửa, hai tay
buông xuôi theo thân ḿnh, điếu thuốc trên miệng
anh vẫn c̣n cháy. Tôi gọi anh ba lần thật
lớn, nhưng anh ta vẫn nằm im. Tôi dùng tay gở
điếu thuốc từ miệng của anh, dùng khăn
lau sạch miệng anh, rồi tôi kề tai ngay sát
miệng anh, để nghe thử anh c̣n thở hay không
? Tôi kề tai sát miệng anh ba lần, nhưng tôi
chẳng nghe thấy ǵ cả. Tôi nói với anh bạn:
- Anh lên báo cáo với họ là anh Chương đă
chết rồi.
Nói xong, tôi kéo áo quần anh Chương ngay ngắn
lại, sửa tư thế nằm của anh cho b́nh thường,
và kê cái gối ngay giữa đầu cho anh. Tôi
thầm khấn vái trong đầu:
- Anh Chương ! anh là bạn thân nhất của tôi
ở trại này kể từ khi tôi và anh ở chung
một tổ. Tôi rất muốn gần anh, để có
dịp giúp đỡ lẫn nhau khi cần thiết. Nhưng
khi vào đây, tôi và anh bị tách xa nhau. Như anh
biết, tôi ở lán 3, c̣n anh th́ ở lán 6. Gặp
nhau đă khó rồi, th́ làm sao giúp nhau được
? Thôi th́ “sống khôn thác thiên !”, anh mau về
với vợ con, cho bà và các con của anh biết để
khỏi phải mong đợi anh.
Vài ngày sau, anh Nguyễn Quang Thái, một Thiếu Tá
Hải quân cũng vội vả ra đi. Anh Thái, trước
năm 1975, đă có thời gian ở chung cùng Đội
34 Hải Thuyền với tôi, tại rạch Bà
Hiền, nơi mà Trung Úy Nguyễn Đức Bổng,
khóa 10, bị Việt cộng phục kích bắn
chết tại Băi Ngao. Rạch Bà Hiền chảy ra sông
Hàm Luông, cách cửa sông chừng vài hải lư. Từ
ngày anh Thái vào tù cộng sản đến nay, anh đă
bị phù thủng, phù lên xẹp xuống đă ba
lần. Những người có kinh nghiệm về
bịnh này cho biết, bịnh phù thủng mà phù lên
xẹp xuống ba lần là không c̣n cách nào trị
được nữa. Bịnh t́nh của anh được
ban chỉ huy trại biết, v́ anh ta không đi lao
động được nữa, nên họ đă cho
anh ta vào phụ giúp những việc nhẹ trong nhà
bếp khoảng chừng hai tuần lễ trước
khi anh chết. Tôi tưởng rằng anh vào nhà bếp
là cái may cho anh ta, v́ nếu có thêm một vắt cơm
mỗi ngày, cơ thể cũng không đến nổi
suy sụp như những anh em đi lao động trong
rừng sâu. Một tối nọ, anh được
chỉ định canh chừng cái chảo nấu cơm,
phải giữ cho cái chảo luôn luôn có nước nóng,
để sáng hôm sau nấu cơm cho kịp. Anh Thái lúc
bấy giờ đang ở dưới nhà bếp,
từ bảy đến tám giờ tối, cái chảo
cơm cạn nước, anh Thái lấy cái thùng xách nước,
lội xuống suối, múc một phần ba thùng nước,
xách lên để châm thêm vào chảo nấu cơm. Anh
vừa bước lên ḥn đá tại bờ suối,
v́ ḥn đá trơn hay anh bước trật chân sao
đó, anh ngă ngay trên bờ suối, nằm nửa trên,
nửa dưới. Một anh bạn khác cũng cần
nước suối để đánh răng, xuống
bờ suối, thấy anh Thái đang nằm dài trên
bờ suối, anh ta truy hô lên. Anh em chạy ra, đỡ
Thái lên, đưa vào lán, nhưng anh Thái đă bất
tĩnh. Anh lán trưởng liền chạy lên báo cáo
cho ban chỉ huy trại.
Trại cho cán bộ xuống, rồi chỉ định
hai cải tạo viên khiên anh Thái ra trạm xá để
điều trị.
Sáng hôm sau, một anh trong hai người khiên Thái,
đến t́m tôi nói nhỏ:
- Tôi biết anh cùng là Hải quân với anh Thái, nên
cho anh biết là, anh Thái đă chết tối hôm qua,
khi chúng tôi khiên anh ta được nửa đường
từ đây ra trạm xá. Anh đừng cho ai biết,
tụi cán bộ biết tôi x́ tin này ra là chúng
nhốt tôi ngay. Tôi trả lời:
- Anh cho tôi biết tin là quư lắm rồi, và tôi
phải cảm ơn anh, chứ tôi c̣n ḷng nào đi nói
bậy nói bạ để hại anh.
Rồi sau đó, thêm vài anh đi lao động trong
rừng sâu, trượt chân ngă chết.
Thấy t́nh h́nh chết liên tục như vậy, anh
Nguyễn Gianh Chấp, đội trưởng lán tôi, bàn
với tôi:
- Anh có thấy tụi ḿnh vào đây bị Hời
yếm không ? Tôi trả lời:
- Tôi không nghĩ vậy ! Khi mới vào đây, anh cũng
như tôi và mọi người, ai
cũng đập hủ, ghè. Chúng ḿnh bị chết
nhiều là do thiếu dinh dưỡng, đi lao động
không cẩn thận, nguy hại đến tính mạng
là chuyện thường. Kỳ này nếu có xin quà
vợ, th́ nói bà gởi cho đường sữa thêm
một tí, để lấy lại sức khỏe. Hơn
nữa, anh nhớ dặn anh em là lúc đi lao động,
đừng cố dùng quá sức. Nếu để cho ḿnh
mất sức quá đà, té xuống là đứng lên
không được, như trường hợp anh Thái.
Làm từ từ và đi chầm chậm, miễn làm
sao cây gỗ hay than củi về đến lán trại
đúng giờ giấc và an toàn là tốt. Đâu
cần phải vội vàng để về lán trại
sớm.
Tôi được vào đội mộc.
Sau một đêm mưa dầm dề, sáng ra, lán nào cũng
ẩm ướt lạnh lẻo, nhái ở ngoài chui vào
nằm dưới gầm giường. Tôi xách gậy
chui dưới gầm giường đuổi bắt
nhái kiếm tí thịt. Xoay tới xoay lui, tôi đụng
phải chân anh Chấp. Thấy tôi, Chấp hỏi:
- Anh Niệm có muốn vào đội mộc không ? Tôi
ghi tên anh nhé !
- Dạ ! Anh cho tôi ghi tên vào đội mộc. Nhớ
ghi danh anh Lộc Không quân nữa nhé ! Tôi với anh
ấy là cặp lao động ưng ư nhất, cho anh
ấy vào đội mộc để tôi hướng
dẫn anh ta. Tôi trả lời anh Chấp.
Khi danh sách đội mộc được gởi lên
ban chỉ huy trại. Họ trắc nghiệm bằng cách
cho mỗi người dùng cưa, cắt hai đầu
một cây gổ dài đúng thước tấc ấn
định, và hai đầu bằng phẳng, là
được xung vào đội mộc. Mỗi người
cưa 15 cây trong ngày.
Phần tôi, tuy cưa thấy mệt, nhưng tôi đă
đạt được chỉ tiêu ấn định.
Nh́n sang Lộc, anh ta lắc đầu nói:
- Thôi, để tao lên rừng chặt cây cho chắc
ăn. Tao làm như thế này th́ ba ngày sau, tao cắt cũng
chưa xong 15 cây này đâu.
Tôi an ủi Lộc:
- Thôi, để tao phụ kéo với mày cho nhanh.
Nói xong, tôi tới phụ với Lộc cưa cho
hết 15 cây gỗ, phần của anh ta.
Tuy hôm đó Lộc làm đạt chỉ tiêu, nhưng
Lộc quyết không vào đội mộc.
H́nh như có nhiều khó khăn cho anh ta sao đó ?
Mặc dù tôi cố khuyên anh ta nhiều lần. Trước
đó, tôi với Lộc thường đi chặt cây
chung.
Một hôm, khi hai đứa khiên cây về, v́ Lộc
to cao và mập hơn tôi, nên anh ta dành cho tôi phần
ngọn, anh ta khiên phần gốc, và Lộc để
tôi đi trước. Hôm đó trời mưa, chúng tôi
khiên một cái cây lên dốc, tôi trượt chân, té
xuống, nhưng Lộc vẫn giữ cây gỗ trên
vai của anh chặt cứng. C̣n đầu cây phía tôi
th́ cắm chặt trên triền dốc, mặc dù tôi té
nằm dài trên triền dốc. Sở dĩ Lộc
vẫn giữ cây gỗ, v́ nếu Lộc quăng cây
gỗ xuống, tôi sẽ bị thương dễ dàng.
Sau đó Lộc lựa thế, để đầu cây
gát trên lưng tôi, đặt phần gỗ của anh
trên mặt đất. Sau đó Lộc đến nâng
đầu cây gỗ đang đè tôi, để tôi ḅ
ra. Rất may, lần này, sau khi ḅ ra khỏi tầm
đè của cây gổ, tôi thử đứng dậy,
làm vài động tác, xem chân tay và cơ thể có ǵ
trục trặc không ? Tôi quá mừng khi thấy mọi
việc đều b́nh thường. Tôi nói với
Lộc:
- Nhờ mày giữ chặt đầu cây của mày nên
không sao. Nếu mày thả đầu cây khi tao bị trượt
chân ngă té, tao không biết việc ǵ sẽ xảy ra.
Lộc nói:
- Tụi ḿnh hên nên không có tai nạn cũng đỡ.
Thôi, chúng ta ngồi nghỉ chừng năm mười
phút,chờ tạnh mưa, khiên nó về.
Sau khi vào được đội mộc, tôi ít khi
phải vào rừng chặt cây nữa. Công việc
của đội mộc, lúc ban đầu là xây
cất lán trại. Khi chúng tôi di chuyển đến
một vùng mới lạ, đội mộc phải làm
việc nhiều và nặng hơn các anh em đi
rừng. Công việc đó là cất lên sáu dăy nhà cho
cải tạo viên ở, và những dăy nhà khác cho
tụi cán bộ ở nữa.
Cũng v́ muốn tránh những hiểm nguy khi đi lao
động trong rừng sâu, nên nhiều anh t́nh
nguyện vào tổ cưa xẻ. Tổ cưa xẻ này
dùng cưa lớn, xẻ những cây gổ thật
lớn ra thành những tấm váng mỏng để
đóng tủ, giường, bàn ghế, … Trong các
đội, tổ, nhóm, th́ chỉ có tổ cưa
xẻ là được cấp phần ăn phụ
trội là ngô, khoai, sắn. Tuy thấy có phần ăn
phụ trội, ai cũng muốn, nhưng đây là
một việc không những cần sức, sự kiên
nhẩn, và sự khéo tay nữa, mới sản xuất
được một tấm ván từ đầu đến
đuôi, có độ dày như nhau. Khu vực trại
Kiên Thành chúng tôi ở lúc bấy giờ có loại
gổ vàng tâm, một loại gổ mà tụi cán
bộ cho là gổ quư. Chúng cho những toán đi
rừng t́m loại gổ này, càng lớn càng tốt.
Chặt xong, khiên hay lăn đến khu cưa xẻ, cũng
ở trong rừng, giao cho họ. Khi xẻ gổ thành
những tấm ván có kích thước theo yêu cầu
của tụi cán bộ, chúng cho mang về rạp
mộc, giao cho chúng tôi. Anh cán bộ trông coi đội
mộc, một hôm, đă họp bàn trước
với ban tham mưu của chúng, chúng đồng ư
bắt đội mộc phải đóng cho mỗi tên
cán bộ một cái rương để đựng
quần áo, có thể mang theo, khi thuyên chuyển sang
những đơn vị khác. Cái rương đựng
quần áo này, đặc biệt là phải có ổ khóa.
Chúng tôi phải nhờ các anh làm trong tổ rèn nghiên
cứu làm những bản khóa để gắn vào rương.
Từ khi có chương tŕnh làm rương bằng
gổ vàng tâm, nhóm ba người chúng tôi làm việc có
vẻ thoải mái hơn, v́ những tên cán bộ ai cũng
muốn cái tương của ḿnh đẹp, nên khi
đóng sắp xong, các anh đến rạp mộc
để tự chọn cho ḿnh một cái, và yêu
cầu chúng tôi làm theo ư họ muốn.
Một hôm, chúng tôi quá đói, họp nhau lại, yêu
cầu anh tổ trưởng phải t́m cách để
anh em đi ra bên ngoài t́m thức ăn, đem về
ăn chung, cho đở đói. Toán th́ đi mót
bắp trong rừng bắp mới thu hoạch, toán thi
đi mót khoai lang, toán th́ đi mót khoai ḿ, … Riêng toán
chúng tôi, v́ phụ trách vườn rau, nên tôi trách
nhiệm nhổ su hào, đem vào trại mộc lùi
tại đống lửa sưởi ấm. Bất
ngờ tên cán bộ đội mộc ghé vào rạp
mộc, gặp tôi, đang dồn một đống su
hào khá cao trong đống tro lửa. Tuy anh ta thấy ḷ
lửa của tôi có triệu chứng bất thường,
nhưng anh ta vẫn làm thinh, v́ cái rương của
anh ta chưa được tôi báo cáo t́nh trạng
thế nào? Anh ta hỏi tôi, tôi dẫn anh ta đến
nơi để gổ làm rương ḥm, chỉ cho anh
ta những tấm gổ dự trù để đóng
chiếc rương của anh ta. Nhưng tôi chỉ
những tấm gổ có vết đen và có lằn
nứt, rồi nói với anh ta rằng:
- Đáng lẽ tôi đă đóng cái rương
của cán bộ rồi, nhưng thấy gổ xấu,
nên phải chờ một vài hôm nữa, có gổ
tốt vào, tôi sẽ thay thế những tấm gổ
xấu đó. Anh ta có vẻ hài ḷng. Anh ta cố t́m
những tấm gổ khác trong kho, nhưng không c̣n
nữa. V́ phải lựa gổ, và nghe tôi hứa
sẽ đổi ván tốt, anh ta quên mất ḷ lửa
đang lùi su hào của tôi. Anh ta quay mặt bước
ra cửa và dặn thêm tôi:
- Nếu gổ nhập vào kho, anh nhớ làm ngay hộ
cho tôi, kẻo nhở đi xa, không có ḥm đựng
quần áo.
Tôi trả lời:
- Cán bộ là cán bộ trách nhiệm đội
mộc, lẽ dĩ nhiên tôi phải làm nhanh và làm
kỷ cho cán bộ.
Hôm đó, khi anh em tập họp tại trại mộc
đầy đủ, chúng tôi có một bửa ăn no
đủ thứ. Tôi kể lại chuyện tên cán
bộ mê cái rương gổ vàng tâm, không thèm
hỏi tôi những ǵ trong ḷ lửa. Anh em thích thú quá
nói:
- Anh hên lắm, nếu nó giả vờ lấy lửa làm
mồi hút thuốc lào, thế nào nó cũng lấy cây
moi đống tro ra. Như vậy hôm nay anh không có
bửa ăn này, mà c̣n bị chúng nhốt trong nhà
đặc biệt rồi.
Những tháng sau đó đội mộc chúng tôi
được chuyển sang Bộ chỉ huy Liên
trại. Tại đây chúng bắt chúng tôi phải
cất một hội trường có khả năng
chứa khoảng một ngàn người. V́ là hội
trường lớn và đặc biệt, họ
bắt chúng tôi phải đẻo những cây gổ
lớn mới lấy từ rừng về, thành
những trụ cột vuông. Tôi là một thành viên
trong vụ đẻo cột bằng riều này.
Tội nghiệp cho cha Nam, và Thầy Thuần. Hai vị
này lớn tuổi, nhỏ con, ốm yếu, mà suốt
ngày phải cầm cây riều quá nặng, người
lúc nào trông cũng quá xác xơ. Nhiều khi đang
đẻo cây, ông vất cái riều xuống đất,
rồi ngồi xuống đất nói:
- Tôi thấy chóng mặt và khó thở quá !
Tôi bỏ riều, đến an ủi cha:
- Khi nào vừa thấy mệt là cha phải ngưng tay
ngay, ngồi nghỉ cho đến khi khỏe mới
trở lại làm việc. Ở đây, mỗi người
chúng ta, nếu có chuyện ǵ xảy ra, không có ai
cứu chúng ta được đâu ! Nhất là trong hoàn
cảnh này, hơn sáu tháng nay, đâu có ai nhận
được một gói quà từ thân nhân ở
Miền Nam gởi ra. Hơn nữa Trung Cộng sắp
đánh Việt Cộng, bọn này chúng càng canh giữ
ḿnh kỷ hơn.
Sau khi xây cất hội trường xong, trại Kiên Thành
của chúng tôi có mười người được
kêu tên để chuyển sang một trại khác,trong
đó có tên tôi. Trại mới này, sĩ quan cải
tạo là cấp Trung Úy. Nghe anh em đồn là mười
người này sắp được thả về, nên
chúng tôi cũng mừng thầm. Nhưng khi chuyển
sang đó,chúng tôi lại học được thêm
một nghề khác, đó là nhổ mạ, cấy lúa.
Ở chung trại với cấp Trung Úy, Thiếu Úy
được chừng hai tháng th́ họ chuyển nguyên
trại này sang một vùng có nông trường, gọi
là nông trường Trần Phú. Vùng này là một vùng
ở đồng bằng, không c̣n ở trong rừng núi
nữa. Hằng đêm chúng tôi lắng tai nghe tin
tức từ nông trường này phát thanh bằng
hệ thống loa lớn cho dân chúng ở nông trường
nghe. Sau vài tháng nghe tin, chúng tôi nghĩ rằng thế nào
Trung Cộng cũng đánh Việt cộng để
chiếm vùng biên giới Việt Trung. Chừng một
tháng sau, một số dân từ Yên Bái được
dời về khu Trần Phú mà chúng tôi đang ở, tôi
t́nh cờ gặp được một bà từ Yên Bái
xuống. Bà ta hỏi tôi, chú có biết vùng Yên Bái
đó không ? Tôi trả lời, chúng tôi vừa từ
trên đó chuyển về đây. Bà ta cho tôi biết:
Một đêm, chúng tôi đang ngồi xem ti-vi th́ quân
Trung Cộng kéo đến. Bà con tranh nhau bỏ chạy
về nhà. Sau đó bà con được chính quyền
kêu gọi, tập họp lại và chở về đây
tị nạn tạm thời.
Chúng tôi ở đây chừng nửa năm th́ họ
đưa chúng tôi lên xe lửa, chuyển về Thanh Hóa,
một trại mà chúng gọi là Trại 5 Thanh Hóa.
Trại này trước đó là một trại
nhốt thành phần h́nh sự. Chung quanh là ṿng thành xây
bằng đá, phía trên có cọc sắt và rào kẻm
gai. Trại viên rất khó trốn trại bằng cách
vượt thành rào. Một hôm họ gọi anh Phan
Nhật Nam lên ban chỉ huy trại để điều
tra việc ǵ đó. Sau mấy hôm làm việc với
họ, anh Nam bị đưa nhốt trong pḥng tối.
Lúc bấy giờ tôi được chuyển sang nhà
bếp, nấu nước sôi, rồi gánh nước
đem phân phối cho các nhà có cải tạo viên
ở.
Khi tôi gánh nước ra các dăy nhà gần cổng, v́
mệt, tôi hạ gánh nước xuống đất,
để t́m bóng mát ngồi nghỉ. Trong lúc đó anh
Nam cũng bị gọi lên ban chỉ huy làm việc ǵ
đó. Thấy anh Nam một ḿnh đứng dưới
gốc cây mít, tôi đến hỏi thăm. Chưa
hỏi được ǵ, nhưng anh Nam sợ sự
việc có liên hệ đến tôi, nên anh ta nói:
- Anh gánh nước đi phát cho anh em đi. Nếu
để chúng thấy anh nói chuyện với tôi, chúng
sẽ gọi anh lên làm việc đó. Nghe anh Nam nói
thế, tôi vội chào anh Nam và gánh nước đi phân
phối cho các nhà gần đó.
Vài ngày sau, anh em đồn rằng ông cụ anh Nam có
ghé Trại 5 Thanh Hóa thăm anh Nam. Tin đó cũng cho
biết rằng, ông cụ anh Nam là người ở
trong quân đội miền Bắc. (Sự thật
thế nào, xin quư vị hiểu biết đính chính
hộ, thành thật cảm ơn). Tôi không biết rơ
sự việc thế nào, nhưng sau khi ông cụ anh Nam
ghé thăm anh ta, th́ sau đó anh Nam được
thả về trại để đi làm việc như
các trại viên khác.
Ở trại 5 Lam Sơn Thanh Hóa thêm vài tháng nữa th́
họ chuyển chúng tôi vào trại Xuân Lộc, ở
Miền Nam. Về trại này chừng một tháng th́ bà
xă tôi vào thăm nuôi, lúc ấy trại cũng cho
biết là tôi đă có lệnh được thả.
Không có ǵ mừng hơn tin này.
Tôi cho bà xă tôi
biết, và nói với bà, tôi sẽ cố gắng t́m
mọi cách ở Sài G̣n, để t́m đường
vượt biên.
Khi bà xă tôi về th́ ba tuần lễ
sau tôi được thả. Tôi về Sài G̣n, lúc
đầu tôi tạm trú tại Ḥa Hưng, nhà người
quen tôi ở trọ học hồi c̣n là sinh viên. Tôi không
biết v́ lư do ǵ mà phường không quản lư tôi
như mọi người khác, mà hồ sơ của tôi
được quận 3 lưu giữ. Mỗi lần có
chuyện ǵ, tôi phải tŕnh diện trực tiếp
quận 3 Sài G̣n. Sau mấy lần tŕnh diện, họ
bắt tôi phải trở về quê gốc là Khánh Ḥa
để sinh sống. Họ nói rằng họ sẽ
trả tôi về lại quê quán. Tôi nói, mấy
chục năm qua tôi sinh sống ở Sài G̣n, quê tôi,
hồi tôi mới sinh, hiện nay không c̣n thân nhân nào
ở đó nữa. Tuy nhiên họ cóc cần biết thân
nhân của tôi như thế nào, họ bắt buộc
tôi phải về Tu Bông, nơi sinh quán của tôi.
Một buổi sáng, tôi đến tŕnh diện họ
theo giấy gọi. Vào văn pḥng, tôi ngồi chờ một chốc th́ một tên cán bộ ra
gặp tôi. Anh ta thảy nguyên tập hồ sơ trên bàn
cho tôi, và nói:
- Anh muốn ở Sài G̣n th́ phải biết điều.
Tôi lật tập hồ sơ ra xem th́ không thấy
thiếu một giấy tờ nào mà từ trước
tôi đă nộp cho họ. Tôi xem một chốc
rồi cầm xấp hồ sơ đứng lên, chào
anh ta ra về.
Khi gặp lại bà xă, tôi cho bà biết là bọn công
an muốn làm tiền. Bà dúi cho tôi ba trăm đồng
và nói:
- Nếu cần th́ đưa cho chúng. Cố gắng
ở trong này. Về Tu Bông, tụi chúng biết ông là
cựu Hải quân, chúng cài cho ông vượt biên,
dễ bị lộ lắm.
Một tuần lễ sau, tôi nhận được thư
công an quận 3, gọi tŕnh diện. Trước khi
rời nhà, tôi gói theo ba trăm đồng, để
xem họ muốn ǵ. Khi vào, tôi gặp tên cán bộ
tuần trước. anh ta hỏi liền:
- Đă sẵn sàng chưa ?
Tôi trả lời:
- Sáng nay trước khi rời nhà, tôi hỏi mượn
ông cụ một ít tiền, nhưng ông rên quá. Ông nói
rằng, ông đă về hưu, không làm ra tiền. có
mấy đồng bạc làm để dành, mấy năm
nay tiêu gần hết. Tôi năn nỉ quá, ông mới
mở tủ cho tôi mượn có ba trăm đồng
thôi.
- Bỏ trong phong b́ chưa ? Anh ta hỏi.
- Rồi .
- Đâu ? Đưa đây !
Tôi móc túi, lấy phong b́ có tiền bên trong, đưa
cho anh ta.
Đưa một tay nhận phong b́, tay kia anh ta kéo
hộc tủ, rồi bỏ nhanh phong b́ vào đó đóng
lại.
Anh ta ngồi lại bàn đó với tôi chừng ba phút
sau, nh́n qua lại, không thấy ai, anh ta kéo hộc
tủ, lấy bao thơ mà tôi đưa, bỏ vội
vào túi, quay vào trong, đi ngay. Khi anh quay trở ra, anh ta
đưa cho tôi một tờ giấy và nói:
- Nếu anh muốn ở thêm th́ phải biết điều.
Tôi cầm tờ giấy đọc trong khi anh ta quay lưng,
đi vào trong.
Tờ giấy đó là tờ giấy cho phép tôi
được ở Sài G̣n ba tháng.
Tôi nghĩ ngay, mỗi ba tháng phải đóng ba trăm,
tôi không đủ sức lo việc ấy.
Tuy nhiên, tôi vẫn phải cầm tờ giấy phép
rời pḥng công an.
Sau đó mấy tuần, tôi gặp được anh
bạn tù cùng trại, anh ta hỏi tôi hiện đang
ở đâu ? Tôi cho anh ta biết, hiện tôi đang
ở Ḥa Hưng, và mới xin được giấy phép
ở lại Sào G̣n ba tháng. Anh ta hỏi:
- Hết ba tháng, rồi tính sao ?
- Chắc phải trốn ở Sài G̣n, t́m đường
vượt biên.
- Anh ta bảo tôi:
- Nếu không có chỗ ở, anh sang tôi ở tạm, mà
chỉ ở ban đêm thôi. Nếu ở ban ngày,
bọn công an thấy, chúng ḿnh sẽ có nhiều
rắc rối.
Nghe anh ta nói thế, tôi như mới chết được
hồi sinh. Tôi nói:
- Được anh cho ở tạm ban đêm là tốt
quá rồi. Ban ngày, tôi với chiếc xe đạp này
sẽ lang thang khắp đầu hè xó chợ vùng Sài G̣n
– Chợ Lớn này cho đến khi chúng tôi rời
khỏi đất nước này.
V́ không có nhà ở, nên sau đó một tuần, tôi
đă dời đến nhà anh ta để ở.
Bà vợ của anh ta bán ở chợ Thị Nghè, nên
mỗi đêm, trước khi công an đi lục soát
khu vực của chị ta, chị đều được
công an thông báo trước. Đêm đó anh chị
bạn cho tôi biết, để tôi lánh mặt, đi nơi
khác. Mỗi sáng , tôi phải rời nhà anh chị
bạn lúc sáu giờ. Dọc theo hai bên đường
Dương Công Trừng , hàng quán bán thức ăn sáng
rất nhiều. Tuy nhiên, tôi chỉ mua một đồng
khoai ḿ luộc, để làm ấm bao tử từ sáng
cho đến trưa. Trưa đến, dọc theo
đường, gặp quán cơm nào, th́ tôi dừng
xe đạp lại để mua một đỉa cơm
ăn cho đỡ đói. Một hôm, tôi ghé lại
một quán ăn bên lề đường Phan Đ́nh
Phùng, quận 3, tôi hỏi bà chủ quán, một đỉa
cơm giá bao nhiêu ? Bà ta cho biết, một đỉa cơm,
gồm một chén rưỡi cơm trắng với ba
miếng thịt heo và ba muổng nước thịt giá
năm đồng. Tôi hỏi thêm:
- Nếu tôi chỉ cần cơm trắng thôi, th́ tôi
phải trả bao nhiêu tiền ?
- Ba đồng rưởi. Bà ta trả lời.
- Nếu vậy, bà cho tôi một đỉa cơm
trắng.
Sau khi đưa đỉa cơm cho tôi và bà ta ngồi
nh́n tôi ăn cơm trắng, bà nói với tôi:
- Đưa đỉa cơm đây, tôi chang cho vài
muổng nước thịt ăn tạm, chứ ăn
như vậy, làm sao nuốt cho vô.
Tôi ch́a đỉa cơm về phía bà ta. Bà ta chang cho tôi
hai muổng nước thịt.
Tôi nói lời cảm ơn bà ta, rồi tiếp tục
ăn. Lần này th́ tôi ăn nhanh hơn, và tôi cảm
thấy đỉa cơm hôm đó quá ngon, v́ có thêm
hai muổng nước thịt mà bà bán cơm đă
cho. Ăn xong, tôi trả muổng đỉa, và nói
lời cảm ơn với bà ta một lần nữa.
Sau đó tôi tiếp tục đạp xe hướng
về Chợ Lớn, để cố t́m mối vượt
biên.
Môt hôm tôi gặp anh Nguyễn Khoa Lô, bạn cùng khóa
Hải quân, ở trên một căn gác trên đường
Dương Công Trừng, gần ngă ra vào nhà của anh
bạn mà tôi đang ở nhờ. Lô hỏi tôi, có
dự định vượt biên không ? Tôi trả
lời, đang đi t́m mà chưa có. Lô nói, nếu tôi
có chỗ, tôi sẽ giới thiệu cho anh.
Tôi trả lời:
- Nếu vậy, th́ anh giới thiệu cho tôi càng
sớm càng tốt, để tôi chuẩn bị, v́
vợ con tôi hiện đang ở Khánh Ḥa. Tuy dặn
thế, nhưng ba tuần lễ sau, Lô đến
gặp tôi, hỏi:
- Anh sẵn sàng đi chưa ?
Tôi trả lời:
- Lúc nào cũng sẵn sàng.
Lô nói:
- Ba ngày nữa họ sẽ rời bến.
Tôi nói:
- Sợ không kịp, v́ bà xă tôi ở măi tận Tu Bông,
phía bắc tỉnh Khánh Ḥa. Tôi nói thêm, nếu bà xă tôi
vào kịp th́ họ cho tôi mấy chỗ ?
Lô không trả lời, nên tôi yêu cầu cho tôi bảy
chỗ. Sáu chỗ cho gia đ́nh tôi, một chỗ cho
anh Cần, người bạn mà cho tôi dung thân một
thời gian qua trong nhà của anh ta.
May quá, hôm đó bà xă tôi từ Nha Trang vào Sài G̣n. Tôi
báo cho bà biết, về đưa mấy đứa
nhỏ vào Sài G̣n gấp. Sau đó tôi gặp lại
anh Lô, và cho anh ta biết, tôi nhận đi chuyến
đó. Anh ta cho tôi ngày giờ và địa điểm
hẹn để những người dẫn đường
gặp gia đ́nh tôi và tôi, v́ họ chia chúng tôi làm
hai nhóm khác nhau: nhóm của bà xă tôi và mấy đứa
bé. Nhóm thứ hai là tôi và anh bạn là Cần.
Bà xă tôi và mấy đứa bé phải xuống
Rạch Giá trước tôi một ngày. C̣n tôi và anh
bạn th́ sáng hôm sau mới rời Sài G̣n. Khi hai chúng
tôi vào bến xe Chợ Lớn, đang ngồi trên xe
đ̣, chiếc xe chạy tới chạy lui sao đó,
bị một xe đ̣ khác húc sau lái xe. Tuy nhiên, v́ không
thiệt hại nhiều, chiếc xe vẫn c̣n tiếp
tục nhận khách đi Rạch giá. Khi xe tôi đến
Rạch giá th́ có người đón chúng tôi đến
một nhà đợi, ngay tối hôm đó. Đến
tám giờ tối, tôi gặp được chị tài
công ghe chở khách, chạy tới lui để dồn
khách lại những chỗ đă ấn định,
để ghe đến bốc sáng hôm sau. V́ chưa
gặp được bà xă tôi, và tôi cũng không
biết bà đang ở đâu, nên tôi nói với
chị tài công lái ghe đón khách:
- Tôi là tài công cho chuyến đi này, gia đ́nh tôi
xuống đây ngày hôm qua, mà tôi chưa gặp
được mặt, chị có cách nào cho tôi gặp
gia đ́nh tôi trước khi ghe rời bến không ?
Chị ta trả lời:
- Tất cả mọi người đang tụ tập
tại nhà ông chủ ở bên kia.
Tôi hỏi:
- Tôi có thể sang đó để gặp mặt gia
đ́nh tôi được không ?
Chị ta trả lời:
- Bây giờ đi lại nhiều lần bất
tiện lắm. Đợi sáng mai gặp luôn.
Tôi nói với chị ta:
- Nếu tôi không gặp mặt được gia đ́nh
tôi tối nay, ngày mai tôi sẽ không đi. Nếu có
trở ngại ǵ là do chị, v́ chị không báo cho
chủ biết để đón tôi. Chị ta suy nghĩ
một hồi rồi nói:
- Vậy anh lên ghe, tôi sẽ chở anh đến đó.
Tôi nhảy lên ghe ngay. Chị ta chạy chừng mười
phút, đưa tôi đến một căn nhà sát
bờ sông, mà từ bờ sông vào căn nhà, hai bên
thắp hai hàng đèn sáng trưng. Tôi hỏi chị
ta:
- Họ làm ǵ vậy ? Không sợ công an đến
bắt sao ?
Chị ta nói:
- Đă mướn thầy Pháp yếm bùa rồi, th́
ai mà đến được !
Tôi vào nhà và rất mừng khi gặp lại được
bà xă tôi và mấy đứa bé.
Sau đó tôi gặp người chủ tổ chức,
cho họ ư kiến là nên tắt đèn, v́ nếu
đèn sáng quá, công an dễ nghi ngờ, dễ đến
đây bắt chúng ta. Anh ta nghe lời, tắt hết
đèn. Đêm đó tôi ở lại chỗ này cho
đến gần sáng. Trời vẫn c̣n tối, lúc
đó khoảng chừng bốn năm giờ sáng, chúng
tôi được đưa ra ghe lớn, chờ ngoài
cửa Rạch Giá. Khi anh chủ ghe cho tôi biết,
mọi người đă có mặt đầy đủ
trên ghe, tôi cho kéo neo, và hướng ghe ra biển,
thẳng ḥn Nam Du, v́ tôi sợ, nếu đi gần Phú
Quốc,dễ bị tàu công an chận bắt.
Đến khoảng bốn giờ chiều, một
chiếc ghe lớn hơn ghe tôi, trên cột cờ có
treo cờ đỏ sao vàng, chạy theo ghe tôi. Tôi nghi
ngờ là ghe công an theo đuổi, nên tôi thử đổi
hướng nhiều lần, chiếc ghe đó luôn
đổi hướng để theo ghe tôi.
Đến tám giờ tối, tôi bắt đầu tăng
máy để cố thoát khỏi ghe theo đuổi. Tôi
càng chạy nhanh th́ ghe kia cũng chạy nhanh hơn. Tuy
nhiên ban đêm khó theo dơi, nên sau vài tiếng đồng
hồ, tôi không c̣n thấy chiếc ghe đó ở phía
sau ghe tôi nữa. Niềm vui chưa trọn th́ anh
thợ máy lên báo cáo cho tôi biết, máy ghe có trục
trặc, và có thể ngưng chạy bất cứ lúc
nào. Tôi hỏi anh ta, tại sao như vậy ? Anh ta nói:
- Trước khi ghe dùng để vượt biên,
chiếc ghe đă được xử dụng đi lưới
cá ngoài biển liên tiếp cả mười ngày, và có
lúc, nhớt của máy ghe đă cạn. V́ thế, máy
ghe trục trặc kể từ khi đó.
Tôi bảo anh ta cho giảm máy chậm lại. Mặc dù
máy ghe đă được cho chạy chậm lại,
nhưng sau chừng nửa giờ, máy ghe ngừng
hẳn, không c̣n hoạt động ǵ được
nữa. Tôi bắt buộc phải thả ghe trôi
lềnh bềnh trên biển. Sau đó tôi gọi
tất cả thanh niên họp lại, yêu cầu họ
lấy bao cát, kết lại thành một cái buồm,
để sáng hôm sau trương buồm lên mà
chạy, v́ dù sao chúng tôi cũng đă ở ngoài
biển khơi rồi. Sau một đêm làm việc, sáng
hôm sau chúng tôi có được một cánh buồm, trương
lên chạy tạm,trông cũng được như ư
muốn. Đến khoảng chín giờ sáng, chúng tôi
thấy năm chiếc ghe ở xa, tụ họp lại
một chỗ chừng mười lăm phút. Sau đó
chúng tỏa ra chạy thẳng về hướng ghe
của chúng tôi. Khi đến gần ghe chúng tôi,
họ chia nhau vây bủa chung quanh ghe, quay đại liên
về phía ghe chúng tôi, và lên cơ bẩm súng đại
liên, yêu cầu ghe chúng tôi dừng lại. Tôi cho
hạ buồm xuống. Họ nhảy qua ghe chúng tôi,
dồn hết mọi người ra giữa sàn ghe,
hỏi chúng tôi:
- Ghe vượt biên đi về đâu ?
Không ai dám trả lời, nên tôi nói nhỏ với anh
chủ ghe, anh này tên Đằng:
- Anh t́m cách liên lạc với tên chóp bu, xin nó thả
ghe ḿnh đi.
Đằng nói:
- Trước hết ḿnh phải có tiền cho chúng, ḿnh
mới nói được.
Tôi nói:
- Đó là việc anh thường làm, anh biết
phải làm thế nào. Phần tôi chỉ biết lái
ghe mà thôi.
Đằng nói:
- Thế th́ anh cho phép tôi xin tiền bà con để
nộp cho chúng, hy vọng chúng sẽ thả ḿnh đi.
Tôi hỏi anh ta:
- Anh xin tiền bằng cách nào ?
Anh ta nói:
- Ḿnh đem cái nón để trên sàn ghe, rồi nói
với bà con, ai có ǵ th́ bỏ vào nón, để
đưa cho họ, để họ thả ḿnh đi.
Tôi nói:
- Năm chiếc ghe to tổ bố của họ,
tiền đâu mà lo cho xuể !
Đằng nói:
- Để tôi thử xem sao ?
Nói xong, anh ta đi lấy cái nón ra để trên sàn
ghe, rồi anh ta đi rỉ tai mọi người,
để họ cho tiền. Anh ta bắt đầu
bỏ tiền vào nón trước tiên. Kế theo anh ta,
bà con, ai có ǵ cho nấy. Người th́ bỏ tiền
vào nón, người th́ bỏ vàng. Sau chừng một
tiếng đồng hồ, anh chủ ghe ra chỗ cái nón,
thu những vàng bạc mà bà con vừa bỏ vào,
rồi anh bước qua tàu Côn Đảo, v́ đây là
đoàn tàu Côn Đảo, loại tàu tuần tiễu
của nhà nước, để lo lót tiền cho chúng.
Sau đó anh ta trở về ghe, và nói với tôi
rằng:
- Họ chê quá ít ! Tuy nhiên, tôi có đưa riêng cho anh
chính trị viên một sợi dây chuyền khá đẹp,
tôi không biết của ai cho. Anh chính trị viên đă
bỏ riêng vào túi, c̣n những thứ khác và tiền
bạc th́ anh ta để trên bàn, và nói, bao nhiêu đây
th́ tôi làm sao chia cho năm tàu chúng tôi được.
V́ anh ta lấy sợi dây chuyền dấu riêng trong túi
áo của anh ta, nên tôi thấy có nhiều hy vọng
họ sẽ thả ḿnh đi.
Tôi nói:
- Nếu vậy, anh đem cái nón khi nảy để
lại chỗ cũ, và nói với bà con, ai c̣n ǵ cho thêm
để nộp cho chúng. Lần này th́, v́ đă cho
rồi, nên chỉ c̣n đôi ba người cho vài ba ngàn
đồng, và một vài chiếc nhẩn vàng.
Khi có thêm tí ti tiền và vàng, th́ Đằng ra lấy
và mang sang tàu Côn Đảo, đưa thêm cho anh chính
trị viên. Anh chính trị viên nói với Đằng:
- Để tôi đề nghị với anh em, cho ghe anh
được tự do. Khi Đằng trở về cho
tôi biết quyết định của anh chính trị
viên như thế, tôi bảo anh ta rằng:
- Anh nhờ họ kéo ghe ḿnh từ bây giờ cho
tới tối, về hướng Singapore thử
được không ?
Đằng nghe tôi nói thế, vội vàng nhảy
trở lại tàu Côn Đảo, để xin kéo ghe chúng
tôi về hướng Singapore. Thật chúng tôi không
ngờ, họ đồng ư kéo ghe chúng tôi cho đến
sáu giờ chiều theo hướng chúng tôi muốn. Lúc
ấy tôi ra mặt, và xin họ kéo cho đế tám
giờ tối. V́ tàu họ lớn nên khi kéo, ghe chúng tôi
chạy tương đối cũng khá nhanh. Đến
tám giờ tối, tôi phỏng chừng ghe chúng tôi
đến ngang bờ biển Mă Lai. Họ cho tàu
của họ chạy chậm lại, mở dây, và
bảo chúng tôi tháo dây ra, rồi họ quay tàu chạy
trở lại vùng biển Việt Nam, bỏ ghe chúng tôi
trôi ĺnh b́nh trên biển. Tôi cho trương buồm lên
và dùng mái chèo, chèo ghe chúng tôi về hướng
Singapore, nhưng ghe chẳng đi được như
ḿnh mong muốn. Lúc bấy giờ tôi biết được
là ghe chúng tôi đang ở trên thủy tŕnh Việt Nam
– Singapore, v́ suốt ba đêm, ghe chúng tôi ĺnh b́nh
trong vùng biển đó, có rất nhiều tàu bè qua
lại. Chúng tôi đốt lửa để kêu
cứu. Có vài ba chiếc tàu ngừng lại quan sát, nhưng
sau đó họ bỏ đi, không tàu nào cứu chúng tôi
cả.
Sáng ngày thứ tư, anh cơ khí phụ trách máy ghe, lên
báo cáo với tôi rằng nước ngọt đă
hết. Tôi hỏi anh ta là c̣n bao nhiêu ? Anh ta trả
lời là không rơ, nhưng khi bơm nước ngọt
lên, nước lên rất ít và yếu. Tôi bảo anh
ta và anh Đằng chủ ghe, nên hạn chế nước
uống ngay từ bây giờ. Mỗi người
chỉ được ba nắp b́nh 20 lít cho ba buổi
thôi. Sau đó tôi quyết định lái ghe trở
về. Tôi giải thích cho tất cả thanh niên là nên
dồn sức lại để chèo ghe về đến
bến bờ Việt Nam trước khi chúng ta bị
chết khát trên biển. Buồm cũng được
kéo lên. Lần về này nhờ gió xuôi nên ghe đi tương
đối nhanh.
Ba hôm sau ghe chúng tôi đang tiến vào cửa Rạch
Giá lúc tám giờ tối, th́ phát hiện một tàu
tuần tiễu đang chạy qua lại, cắt ngang
tuyến đường vào cửa biển Rạch Giá.
Tôi sợ ghe bị chận bắt, nên tôi cho ghe đi
dọc sát bờ rừng U Minh Thượng, và khi ghe
đến khoảng kinh 5, tức là con kinh gần
quận Kiên An, tôi dừng ghe lại, thả neo nơi
cạn, nước khoảng ngang bụng, rồi thông báo
cho mọi người biết là có ghe công an chận
tại cửa Rạch Giá, nếu chúng ta tiếp
tục đi vào, sẽ bị bắt, nên ghe phải neo
tạm tại đây. Sau đó tôi thông báo cho anh Đằng,
chủ tàu, các anh trong ban tổ chức, và quân nhân, ai
muốn rời ghe bây giờ th́ sẵn sang nhảy
xuống biển, để lội vào bờ. Lúc
bấy giờ có 12 người muốn lội vào
bờ. Trước khi rời ghe, tôi dặn bà xă tôi, nên
giữ mấy đứa bé trên ghe, sẵn sàng chấp
nhận bị bắt. Phần tôi, tôi phải đi theo
nhóm người lội vào bờ. Lúc bấy giờ, bà
xă tôi chỉ c̣n một chiếc nhẩn, bà gở
chiếc nhẩn trao cho tôi, và dặn, anh nên bảo
trọng, và đừng để chúng bắt. Tôi
kiểm soát neo thật chắc chắn, và thả thêm dây
neo dài hơn. Sau đó tôi nhảy xuống biển,
dẫn đường cho mọi người cùng
lội vào bờ. Khi vào đến bờ, tôi nói
với anh Đằng:
- Các anh là những người tổ chức, quen
đường đi nước bước ở đây,
nên các anh cần phải đi trước, dẫn
đường cho những anh em khác theo sau. Từ đó
về sau, các anh ấy dẫn đi đâu, tôi chỉ
việc đi theo, không chú ư đến các anh ấy
đi đúng đường hay sai. V́ thế khi vào
bờ, thay v́ đi quẹo trái, để đi về
sông Cái Lớn, Cái Bé, các anh này lại quẹo
phải, để đi sâu vào rừng U Minh Thượng.
Tôi cũng không biết tại sao lúc đó tôi không
để ư đến việc này. V́ suốt một
đêm từ mười giờ tối đến sáu
giờ sáng, môt khoảng thời gian dài như vậy,
chúng tôi đi khá xa, mặc dù là rừng śnh lầy và
đi trong đêm tối. Sáng hôm sau, tôi ước
chừng, chắc cũng đă đến kinh Thứ 11,
thuộc U Minh Thượng, và nếu tiếp tục
đi, chúng tôi có thể bắt đầu vào rừng
U Minh Hạ. Nhưng v́ Trời đă sáng, chúng tôi dè
dặt hơn, có nghĩa là, dù đi trong rừng śnh
lầy, chúng tôi vẫn phải giữ im lặng. V́ quá
mệt, chúng tôi phải dừng lại để
nghỉ lấy sức tại một khu đất khô,
ai có đem theo thực phẩm khô th́ mang ra ăn
tạm. Khi đó anh chủ tàu lên tiếng:
- - Thưa các anh em, hiện tại tôi c̣n một ít
tiền mang theo, bây giờ, các anh ngồi ở đây
chờ, nhóm anh em chúng tôi đi ra ngoài làng, t́m mua
một chiếc ghe. Sau khi có ghe, chúng tôi sẽ quay
lại đây, chở các anh em, để chúng ta cùng
rời khỏi nơi này. Mọi người nghe có lư,
nên đồng ư để cho các anh ấy đi trước.
Tôi hỏi:
- Nhóm anh có mấy người ?
- Có bốn người. Anh ta trả lời.
Sau khi bốn người rời khỏi nhóm, tôi
hỏi thêm:
- Có anh nào muốn tách rời thành nhóm nhỏ nữa
không ?
Tôi giải thích:
- Anh Đằng lúc nảy nói sẽ trở lại
đón chúng ta, nếu anh t́m mua được ghe, tôi
thấy anh ta nói có lư, nhưng bây giờ nghĩ
lại, trong hoàn cảnh khó khăn này, anh ta nếu t́m
được ghe, nhóm anh ấy sẽ đi luôn, và
sẽ không bao giờ trở lại đây nữa.
Một nhóm khác, ba người, lên tiếng:
- Nhóm tôi cũng xin đi ra làng, t́m phương
tiện.
Tôi hỏi:
- Anh đi hướng nào ?
Anh ta trả lời:
- Theo hướng anh Đằng vừa mới đi ra.
Tôi nói:
- Nếu vậy th́ các anh cứ đi !
Bảy người đă ra đi, c̣n lại năm anh
em, không thuộc nhóm nào cả, v́ mới biết nhau
trong chuyến ghe vượt biên này. Chỉ có tôi và
anh Cần, anh bạn mà đă cho tôi trú ngụ mấy
tháng qua ở Sài G̣n, khi tôi bị công an Sài G̣n đuổi
về quê sinh sống, mà lúc nào tôi cũng phải
giữ anh ấy đi chung với tôi. Tôi nói:
- Bây giờ, nếu không ai đi riêng, chúng ta năm người,
cùng đi chung với nhau, do tôi hướng dẫn. Nói
xong, tôi bước đi trước, đi về hướng
rừng śnh. Đi chừng mười lăm phút, tôi
bảo anh em chờ, để tôi leo lên cây cao quan sát
địa thế. Khi lên ngọn cây cao tôi thấy rơ ràng
quang cảnh chung quanh. Nào đảo Ḥn Tre ở ngoài
biển, rồi rừng U Minh Thượng, một cánh
đồng, một dăy làng. Ba yếu tố này:
rừng, cánh đồng, và làng, chạy song song từ
hướng đông sang hướng tây. Tôi nghĩ
lại, nếu tối hôm qua chúng tôi đi về hướng
tây, chắc bây giờ chúng tôi cũng đă đến
sông Cái Lớn rồi. tôi leo xuống cây và tiếp
tục đi vào rừng śnh lầy. Chừng nửa
giờ sau, tôi nh́n lại phía sau, chỉ thấy có hai
người. Tôi hỏi một anh bạn, c̣n hai anh kia
đâu rồi ? Anh này tên là Khôi, Đại Úy Không quân,
anh ta nói:
- Hai anh kia nói là, suốt một đêm lội śnh,
đă quá mệt, mà bây giờ tiếp tục lội śnh
nữa, đi không nổi, nên hai anh quay trở lại,
nói là theo hai nhóm kia, để ra làng t́m đường
đi.
Sau đó tôi bắt đầu hướng ra bờ
rừng, để đi theo con đường dọc
theo bờ rừng và cánh đồng. Vừa ra khỏi
rừng th́ chúng tôi nghe tiếng súng bắn,chúng tôi nh́n
về hướng tiếng súng, th́ thấy có một
số người tụ tập ở đó. Tôi cố
đi nhanh về hướng tây để lánh xa nhóm người
và nơi vừa có tiếng súng nổ. Chúng tôi, ba anh
em đi trên con đường đê dọc bờ
rừng đến khoảng 12 giờ trưa, tôi đổi
ư, và băng qua cánh đồng ruộng, để vào
làng. Khi vào làng, tôi cũng theo con đường làng
đi sâu về phía tây. Chúng tôi đi qua một căn
nhà, cách đường chúng tôi đi chừng mười
thước. Trong nhà đó đang có hai thanh niên và
một thiếu nữ. Thấy chúng tôi, từ bên trong
họ hỏi vọng ra:
- Các anh đi đâu đó ?
Tôi trả lời:
- Hôm qua chúng tôi đi ăn đám giổ trong miệt
thứ, say quá không về được, hôm nay mới
về.
3/ Chúng nh́n theo chúng tôi một lúc, trong lúc chúng tôi
vẫn tiếp tục đi, rồi chúng nói với
nhau, mà chúng tôi nghe được:
- Tụi này đi vượt biên, chứ đi ăn
đám giổ ǵ.
Tuy nghe nhưng tôi không trả lời ǵ cả, tiếp
tục đi. Anh bạn đi phía sau tôi nghe bọn
chúng nói thế, hoảng quá, vội đi nhanh lên
gần tôi, nói:
- Anh có nghe bọn chúng nói ǵ không ? Chúng nói ḿnh
đi vượt biên chứ không phải đi ăn
giổ.
Tôi nói nhỏ với anh bạn:
- Tôi nghe rồi. Anh nên đi chậm lại,
giữ khoảng cách như lúc trước, và giữ b́nh
tĩnh. Nếu không, chúng nghi ngờ, ra chận
bắt, ḿnh không có lối thoát thân. Chừng hai mươi
phút sau, chúng tôi qua khỏi trạm công an đó, chúng tôi
gặp một em bé trai chừng 14-15 tuổi, tôi
hỏi em:
- Ba má có ở nhà không ?
- Dạ không. Em bé trả lời.
- Nhà cháu gần đây không, cho các chú ghé uống tí nước
cho đỡ khát.
- Dạ, gần tới nhà cháu rồi.
Đi một hồi, thằng bé la lên:
- Má cháu về rồi !
- Tôi tiến gần đến má thằng bé và chào
hỏi:
- Chào chị Mười ! Chị mới đi
chợ về phải không ? anh Mười có ở
nhà không hở chị ? (Sở dĩ tôi biết ông bà
này thứ Mười, v́ trên đường đi, tôi
gạ hỏi thằng bé, và nó cho biết, ba nó thứ
Mười.)
- Chắc ông ấy sang hàng xóm rồi th́ phải.
Anh ở đâu ghé chơi vậy ?
- Tôi ở Rạch sỏi. Hôm qua mấy anh em
rủ nhau vào miệt Thứ ăn đám giổ người
bà con, nhậu say, không về trong ngày kịp, hôm nay
mới ṃ về.
Vưa nói chuyện, tôi vừa liếc mắt nh́n
về phía trạm công an mà chúng tôi vừa mới
đi ngang qua, thấy một tên công an đi ra ngoài sân,
nh́n về phía chúng tôi. Chị Mười nói:
- Mời các anh vào nhà ngồi chơi, uống nước.
Sẵn dịp khát nước, tôi nói:
- Chị cho chúng tôi mỗi người một gáo nước
lạnh là được rồi. Ghé thăm anh
chị một chốc, rồi phải về, kẻo
trễ.
Chị Mười bảo thằng con:
- Con vào trong, lấy cái ca, rót nước,đem ra
mời các chú uống nghen con !
Thằng bé “Dạ!”, rồi chạy vào trong bưng
ca nước lạnh đem ra. Tôi nhường cho
anh Cần, bạn tôi uống trước. Rồi
đến anh Khôi. Tôi uống sau cùng. Tôi không
muốn uống nước trước, v́ phải
tỏ vẻ, ḿnh không gấp gáp ǵ. Vả
lại, dừng chân ghé thăm bạn, chúng tôi phải
tỏ vẻ ung dung, để tạo tin tưởng cho
chị Mười. Uống nước xong,tôi nói
với chị Mười:
- Nếu anh Mười về, nhờ chị chuyển
lời chúng tôi có ghé thăm anh Mười, nhưng
rất tiếc, anh lại vắng nhà. Nhờ
chị nhắn lời với anh Mười, tôi là anh
Chín đá gà ở Rạch Sỏi, nhờ chị nói
lại với anh Mười, hôm nào đi xem đá
gà, mời anh Mười ghé tôi ăn cơm trưa, và
làm vài chai la ve.
Chị Mười trả lời:
- Được rồi ! Cảm ơn các anh trước.
Để ảnh về, tôi sẽ nói lại.
Để khỏi mất th́ giờ, tôi đứng
dậy, thúc hai anh bạn, và nói với chị Mười:
- Thôi, chúng tôi xin phép chị đi về. Hôm nào rănh,
chúng tôi sẽ vào đây, thăm anh chị.
Chúng tôi rời nhà chị Mười, đi theo con
lộ, ngược hướng với trạm công an.
Chừng một cây số sau, chúng tôi đi ngang qua
một mái nhà cạnh đường đi, mà trên sân
trước nhà, có một đống ổi và
khoảng bảy tám buồng dừa. Anh chủ nhà
khoảng dưới ba mươi tuổi, tôi mở
lời chào anh ta:
- Chào anh ! Hôm nay thu hoạch đem ra chợ
phải không ?
- Dạ ! Phải thu hoạch nhanh. Nếu không,
chim sóc chúng phá dữ lắm !
- Anh cho chúng tôi đôi trái, ăn thử xem ổi ngon
thế nào, có được không ?
- Mời các anh cứ tự nhiên ! Cây nhà lá vườn
mà !
Tôi cúi xuống nhặt một quả ổi, ngắt cái
lá c̣n nơi cuống vứt đi, đưa lên
miệng cắn ăn. Nhai được mấy
miếng ổi, tôi lên tiếng cảm ơn và khen:
- Ổi của anh ngon và ngọt quá ! Mỗi năm
anh thu hoạch nhiều như thế này là sống sung
túc rồi. Anh ta đính chính:
- Mỗi mùa chúng tôi chỉ thu hoạch có một
lần như thế này thôi. Nghề chính của tôi
không phải là nghề này.
- Vậy chứ anh làm nghề ǵ thêm nữa ? Tôi
hỏi:
- Tôi là công an trưởng ấp ở đây, nên có
thêm chút ít trái cây, cũng tạm sống qua ngày.
Hai anh bạn tôi nghe nói là công an trưởng ấp, nên
hai anh nháy mắt với tôi là cần rút lui sớm.
Tôi nói với anh công an trưởng ấp:
- Thôi, bây giờ chúng tôi xin phép anh đi về.
Cảm ơn anh đă cho chúng tôi thưởng thức
ổi ngon của anh. Hôm nào anh có ra Rạch
Sỏi, tôi là anh Chín đá gà ở chợ Rạch
sỏi, mời anh ghé lại nhà chơi. Tôi sẽ
đưa anh ra chợ, thử hủ tiếu Rạch
sỏi cho biết.
Nói xong tôi bước đi. Hai anh bạn tôi cũng
nói cảm ơn và giả từ anh ta.
Chúng tôi đi về hướng đồng ruộng
chừng năm trăm thước, một rừng cây
hiện ra trước mặt chúng tôi. Tôi hoảng
quá ! V́ nếu tiếp tục đi, chúng tôi
phải đi vào cánh rừng. C̣n nếu quay
trở lại, tên công an sẽ cho là chúng tôi không
biết đường, chúng tôi sẽ gặp rắc
rối ngay. Nhưng đă đến nước
liều, chúng tôi tiếp tục tiến gần rừng
cây. Khi đến gần, tôi bảo hai anh bạn
nh́n lại xem tên công an có nh́n theo chúng tôi hay không.
Nếu không, tôi sẽ hô: Một, Hai, Ba, chúng ta cùng lúc
nhảy vào rừng cây.
Đi một lúc, chúng tôi nghe
tiếng tát nước, chúng tôi tiến về hướng
tiếng động, gặp hai thanh niên đang tát
nước vào vườn bằng gàu giai. Tôi lên
tiếng:
- Chào hai anh! Vườn khô lắm hay sao mà phải
tát nước ?
Một anh trả lời:
- Cần làm ẩm vườn cho cây sai trái.
Chúng tôi chào hai anh rồi tiếp tục đi. May
quá ! Một ngôi nhà hiện ra trước mặt
chúng tôi. Khi đến trước sân nhà th́ chúng
tôi gặp một bà cụ đang ở đó. Tôi
chào bà cụ và hỏi:
- Thưa bác, tàu đ̣ đến chưa bác ? Chúng
cháu đang chờ tàu đ̣ để đi Rạch
Sỏi. Ông cụ ở trong nhà bước ra sân,
nghe tôi hỏi thế, vội trả lời thay cho bà
cụ:
- Ghe nó vừa mới tới, nó chạy vào trong kia rước
thêm khách. Chừng năm mười phút nữa, nó
sẽ trở lại đây. Nếu các cháu đi
Rạch Sỏi, chờ một chốc, ghe sẽ trở
lại đây. Thấy trước nhà ông bà
cụ là bờ sông, tôi vội hỏi:
- Ghe đ̣ sẽ ghé ngay bờ sông trước nhà bác
phải không ?
- Ừ! Ngày nào ghe đó cũng ghé đây, bỏ
và đón khách.
Ông cụ nh́n ra sông rồi nói:
- Ghe nó ra rồi kia ! Xuống bờ sông đứng
chờ nó vào.
Ba anh em chúng tôi cảm ơn ông bà cụ, rồi đi
vội ra bờ sông đứng chờ. Chiếc ghe
đ̣ đang hướng về phía chúng tôi. Tôi
nh́n những ḍng chữ trên ghe, thấy hai chữ
lớn nhất là “G̣ Quao”. Không tiện hỏi
nữa, tôi chỉ đoán chừng là chiếc ghe đ̣
này chạy từ Rạch sỏi đến G̣ Quao,
chặng kinh cuối cùng của miệt Thứ, kinh
Thứ 11.
Ghe cập vào bến, tôi đưa mắt ra hiệu cho
anh Cần và anh Khôi lên ghe trước. Tiếp
đó tôi quay lại đưa tay lên vẩy chào ông bà
cụ đang đứng trong nhà nh́n ra, để
chứng tỏ cho những người khác biết là
chúng tôi là người nhà của ông bà cụ trong vùng
này. Chào xong, tôi quay lại bước lên ghe.
Ghe chạy một lúc là đến kinh Cán Gáo, con kinh
bắt đầu từ phía đông kinh Thứ 11,
rừng U Minh Thượng, ra cho đến Xẻo Rô,
gặp sông Cái Lớn.
Đến khoảng chừng ba
giờ chiều, ghe dừng lại An Biên, khoảng kinh
Thứ 5. Sau khi khách hàng xuống và lên xong, ghe
rời bến, tiếp tục hướng về sông Cái
Lớn. Khi ghe đến chợ Xẻo Rô, khu
chợ ngay bên ngoài cổng Căn Cứ Hải quân
Xẻo Rô, mà trước năm 1975, tôi đă từng
làm việc tại đây, và tôi cũng đă nhiều
lần ra chợ này ăn phở hay mua đồ
lặt vặt. Ghe cập bến ngay chợ, tôi nh́n
lên hàng chữ bằng xi măng, khắc dài theo mặt
chợ nh́n ra sông với cái tên “CHỢ XẺO RÔ”.
Tôi đọc rơ ràng là “CHỢ XẺO RÔ”, nhưng
không biết tại sao lúc đó, tôi cứ nghĩ
rằng, đó là chợ Rạch Sỏi, và chỉ
cần đợi ghe rời bến, chạy chừng hai
trăm thước nữa, ghé đầu vàm, phía bên
đối diện, là chúng tôi đến bến
Rạch Sỏi. Bến ghe đầu vàm này là dùng
cho khách hàng ở phía bờ bên kia kinh Cán Gáo.
Tại đây không có cầu cho ghe cập bến, nên
ghe phải ủi mũi vào băi. Tôi đưa tay
ngoắc hai anh bạn, bảo rời ghe để lên
bờ.
Tôi vừa bước lên bờ th́
gặp vợ chồng tên công an đứng ngay đó,
tôi tiếp tục đi theo đường để vào
làng. Khi ấy hai anh bạn tôi cũng đă lên
bờ, và đă cách xa ghe chừng năm thước.
Đột nhiên tôi nhớ lại là tôi đă xuống
sai chỗ mà tôi muốn đến, v́ thế nên tôi
quay trở lại ghe, để tiếp tục đi ra
Rạch Sỏi.
Nhưng v́ có tên công an đứng đó, khi tôi quay
lại, tôi phải có lư do chính đáng, nếu không, tên
công an có thể chận hỏi và bắt giữ tôi.
Khi đó chiếc ghe đă quay mũi, và đă cách xa
bến chừng bảy tám thước. Tôi nói
lớn với hai anh bạn của tôi:
- Anh Mười không có ở nhà. Thôi để khi
khác, chúng ta ghé thăm anh chị ấy sau. Hôm nay
chúng ta về Rạch Sỏi nhậu cũng được.
Rồi tôi bảo hai anh bạn:
- Anh Hai và anh Ba, hảy gọi ghe quay trở lại
chở chúng ta.
Anh Cần và anh Khôi hô lớn, và vẩy tay gọi ghe
quay trở lại. May quá, dù ghe đă rời
khỏi bến chừng mười thước, nhưng
khi nghe khách gọi, ghe liền quay lại, ủi mũi
vào bờ, đón chúng tôi. Khi mũi ghe sát bờ,
tôi cũng vừa đến
4/ Anh Hai và anh Ba, hảy gọi ghe quay trở
lại chở chúng ta.
Anh Cần và anh Khôi hô lớn, và vẩy tay gọi ghe
quay trở lại. May quá, dù ghe đă rời
khỏi bến chừng mười thước, nhưng
khi nghe khách gọi, ghe liền quay lại, ủi mũi
vào bờ, đón chúng tôi. Khi mũi ghe sát bờ,
tôi cũng vừa đến nơi. Tôi hối thúc
hai anh bạn, cùng bước lên ghe.
Bước ngang anh anh phụ ghe
cột dây, tôi lập lại ư của tôi, đồng
thời cũng muốn chắc chắn rằng tên công
an nghe những ǵ tôi nói:
-Tính ghé anh Mười, thăm anh chị
ấy, làm vài chai, ngày mai về lại Rạch Sỏi,
nhưng anh chị ấy không có ở nhà, nên phải
về.
Khi ghe ra đến sông Cái Lớn,
ngồi bên cạnh anh Khôi phía trước ghe, tôi
hỏi Khôi:
- Tại sao anh không theo toán của anh chủ tàu
và các anh trong ban tổ chức, mà theo toán của tôi ?
- Họ đâu biết đường
bằng anh !
- Tại sao ?
- V́ khi anhh đưa ghe vào cảng Rạch Giá,
chỉ có anh là biết điểm đứng của
tụi ḿnh. C̣n những anh khác, họ đâu
biết ḿnh hiện đang ở đâu lúc đó.
Điểm thứ hai làm cho tôi tin anh hơn là, khi quay
trở lại rừng śnh lầy của nhóm năm anh
em chúng ḿnh, sau khi đi một lúc, anh đă cẩn
thận leo lên cây cao, để quan sát và định
lại vị trí hiện tại của chúng ta. Khi
xuống khỏi cây, anh đă nói cho anh em biết, ḿnh
đang ở đâu.
Tôi hỏi Khôi tiếp:
- Anh có biết đây là đâu không ?
- Biết chứ ! Tháng rồi tôi đợi
ngay vàm Tắc Cậu và sông Cái Lớn, để
chờ lên ghe lớn vượt biên. Nhưng
chờ măi không thấy ghe đâu cả, phải
trở về.
- Anh biết rơ vùng này, sao tôi xuống sai
chỗ, anh không nhắc tôi ?
- Tôi đâu biết anh đi đâu mà
nhắc ! Anh là trưởng toán, anh đi đâu chúng
tôi phải theo đó mà thôi
- Khi nảy, v́ tinh thần không ổn, tôi
xuống lộn chỗ, v́ tưởng lầm, chỗ ḿnh
xuống là Rạch Sỏi. May mà tên công an ở
đó không hỏi chúng ta. Nếu hỏi, ḿnh
trả lời lạng quạng, không có giấy
tờ đầy đủ, có thể nó bắt giữ
chúng ta v́ nghi ngờ vượt biên. Tôi dặn
chừng anh là, từ bây giờ trở đi, nơi
dừng chân và bến ghe duy nhất của chúng ta là
Rạch Sỏi thôi. Nếu tôi đi lạng
quạng, xuống các bến ghe khác, bằng mọi cách,
anh và anh Cần phải giữ tôi lại, và hai anh
chỉ cho tôi lên bờ tại bến ghe Rạch
Sỏi mà thôi, v́ từ đó, chúng ta mới có
thể đón xe đ̣ về Sài G̣n và đi về
những nơi khác mà chúng ta đang trú ngụ.
- Anh dặn th́ tôi làm. Trước đây
anh đâu có nói ǵ với tôi.
Đến Rạch Sỏi, ba anh em lên bờ,
chúng tôi kéo nhau ra bến xe Rạch sỏi. Lúc
bấy giờ đă năm giờ chiều rồi, không
c̣n xe nào chạy đi Sài G̣n nữa. Tôi hỏi Khôi:
- Theo anh, đêm nay chúng ta ở bến xe Rạch
Sỏi an toàn hơn, hay nên ra bến xe Rạch Giá ?
Khôi trả lời:
- Giữa hai bến xe th́ Rạch Giá tương
đối an toàn hơn Rạch Sỏi. V́ ở
đây, đôi khi, vài ba đêm, công an lục soát
một lần. C̣n tại bến xe Rạch Giá th́
việc lục soát ít khi xảy ra. Tôi đề
nghị, chúng ta ra bến xe Rạch Giá, mua vé về Sài
G̣n tối nay. Sáng mai, chúng ta lên xe về Sài G̣n.
Sở dĩ chúng ta phải mua vé xe trước, để,
nếu nhở bọn công an xét giấy, chúng ta có vé
xe, có thể xác nhận là chúng ta đi Sài G̣n.
Tôi đồng ư ngay, nên chúng tôi kéo nhau đón
xe lam đi Rạch giá.
Sau khi cơm nước xong, anh Khôi dẫn
đến nơi cho thuê chiếu để ngủ ban
đêm, anh mướn ba chiếc chiếu, rồi
dẫn chúng tôi đi t́m lề đường gọn
gàng sạch sẻ, để ngủ tạm qua đêm.
Sau một đêm và một ngày
vất vả mệt nhọc v́ băng rừng, lội
śnh, chúng tôi vừa nằm xuống là ngủ ngay.
Nhờ thế sáng hôm sau, ba giờ sáng, cả ba anh em
đều thức dậy. V́ chúng tôi mua vé đi
chuyến thứ nhất, nên những người
phụ trách xe chỉ xe đ̣ cho chúng tôi lên ngồi
chờ. Lên xe đ̣, sau khi vào vị trí, chúng tôi
tiếp tục ngủ trong khi chờ xe khởi hành.
Chúng tôi về đến Sài G̣n chừng ba giờ
chiều, anh Khôi từ giả chúng tôi. Phần tôi,
theo anh Cần, về nhà anh ta để tạm trú.
Sáng hôm sau, tôi đạp xe đi t́m
đứa cháu gái, đưa nó chiếc nhẩn c̣n
lại duy nhất trong túi của tôi, bảo nó đi
mua thức ăn, đi Rạch Sỏi, rồi đón
ghe vào An Biên, thăm bà xă tôi và mấy đứa bé.
Trong nhóm trẻ con, có thằng con trai của nó tôi mang
theo. Có tiền sẳn và cũng không bận
việc ǵ, đứa cháu tôi cầm chiếc nhẩn
ra tiệm vàng, đổi thành tiền, rồi ghé
chợ, mua những nhu cầu cần thiết để
phụ thêm thức ăn mà trại giam phát hằng ngày.
Tôi dặn đứa cháu, mua thức ăn từ ba
đến bốn tuần lễ,v́ tôi ước tính,
nhóm đàn bà con nít, họ không nhốt lâu làm ǵ sau
khi họ đă lột sạch vàng bạc mang theo trong
người. Chiều ngày thứ ba, sau ngày đứa
cháu tôi rời Sài G̣n th́ nó đă có mặt lại
ở Sài G̣n. Nó ghé Thị Nghè cho tôi biết,
mọi người trong gia đ́nh đều b́nh an.
Tôi không c̣n nhớ bằng cách nào mà
tôi nhắn tin cho Song Ngư hải ngoại là cả gia
đ́nh tôi bị bắt, chỉ c̣n một ḿnh tôi thoát
nạn,
v́ thế, sau chừng hai tuần lễ, bà xă và
mấy đứa nhỏ của tôi được
thả về. Bà xă tôi ghé lại nhà anh chị
Cần ở Thị Nghè để t́m tôi. Gặp
nhau, cả nhà mừng mừng tủi tủi, tôi
ngỏ ư xin anh chị Cần, cho chúng tôi ở thêm vài
ngày, lo thêm vài việc trước khi bà xă tôi rời
Sài G̣n.
May quá, ba ngày sau khi bà xă và các con
của chúng tôi được thả về, bưu
điện Sài G̣n đến tận nhà anh Cần giao
cho tôi một thùng quà mà tôi không biết trước là
quà của ai gởi. Sau khi kư nhận, xem địa
chỉ người gởi, tôi mới biết được
đó là quà của một Song Ngư, tên người
gởi là anh chị Nguyễn Kim Trọng, từ Houston,
Texas. Tôi vội gọi bà xă và các con đến
để cùng mở thùng quà. Thùng quà được
mở ra, chúng tôi mừng quá ! chúng tôi không
ngờ anh chị Nguyễn Kim Trọng khéo tay và có óc tính
toán quá. V́ trong thùng quà toàn là lụa ngoại
quốc, đủ màu, đủ kiểu. Những
loại lụa này dùng để may áo dài cho đàn bà,
và lúc bấy giờ, loại lụa này rất có giá
ở Việt Nam. Trong lúc chúng tôi bị nạn và
tiền bạc trong gia đ́nh tan biến theo sự
thất bại của chuyến vượt biên, th́
đây, phải nói là cái vốn để gầy
dựng lại cuộc sống cho gia đ́nh chúng tôi
trong lúc đó và tương lai.
Tôi hối thúc bà xă cùng mang thùng quà
xuống chợ Trời Sài G̣n bán. Trước khi
đến chợ, dọc theo hai bên đường
phố, có rất nhiều người đứng
chờ, mua hàng rẽ hơn để bán lại.
Khi biết được là hàng lụa, ai cũng
muốn mua. Chúng tôi bán thùng quà rất nhanh trong ṿng
một tiếng đồng hồ. Về nhà, chúng
tôi biếu anh chị Cần một ít tiền,coi như
cảm tạ anh chị đă giúp đỡ, cho tạm
trú trong thời gian chúng tôi không có nơi ở tại
sài G̣n. Hai ngày sau, v́ đă có tiền, bà xă tôi
vội dẫn bốn đứa con về lại Tu Bông,
để tiếp tục mua bám cám, chai, sống tạm
qua ngày, trong khi đó th́ tôi vẫn tiếp tục trú
ngụ nhà anh chị Cần ở Thị Nghè.
Chừng ba tuần lễ sau, vào
một buổi chiều,khoảng năm giờ, đứa
con trai anh Trung tá Hải quân Lư Thăng đạp xe
đến gọi tôi, nói rằng, ba cháu cần gặp
chú gấp. Tôi nghĩ, có lẽ có người
cần tài công cho ghe vượt biên, v́ tôi đă
từng gặp anh Thăng, và đă đề
cập đến việc này, và cũng đă dặn
với anh ta rằng, bất cứ nơi nào, hể có
người cần tài công, th́ giới thiệu cho tôi.
Anh Thăng, lúc đó, tôi không biết anh được
thả ra lúc nào, nhưng không biết v́ sao bà xă
của anh vẫn giữ được căn nhà trong cư
xá Hải quân Thị Nghè, và anh Thăng cũng có
một quày hàng bán xe đạp và phụ tùng tại
chợ Trời Đa Kao. Tôi vội vàng đạp
xe vào cư xá, gặp anh Thăng và người
chủ tổ chức vượt biên. Sau khi
được giới thiệu và chào hỏi nhau, tôi
hỏi qua ngày giờ và nơi chốn vượt biên.
Người tổ chức cho biết, ba hôm sau, tại
Bà Rịa. Tôi hỏi anh Thăng, nếu tôi
nhận làm tài công, th́ cho gia đ́nh tôi mấy chỗ
? anh Thăng quay lại hỏi nhỏ ông chủ
tổ chức, sau đó quay lại trả lời cho tôi
là chỉ có hai chỗ thôi. Tôi trả lời
với anh Thăng và ông chủ, nếu là hai chỗ th́
tôi không đi được, v́ gia đ́nh tôi có sáu
người. Sau khi nói thế, tôi không nghe hai người
trả lời, nên tôi tỏ ư muốn ra về, để
hai người tiện bàn tính công việc. Khi tôi
đứng lên giả từ, anh Thăng nói với ông
chủ:
- Thôi ! Như vậy th́ ḿnh tính theo kế
hoạch B.
Tôi bắt tay chào hai người, rời nhà anh Thăng.
Hai hôm sau, tin tức về chiếc ghe vượt biên
tại Bà Rịa mà anh Thăng giới thiệu cho tôi,
bay về Sài G̣n. Chúng tôi được người
quen cho hay, chiếc ghe đó đă bị bắt sáng hôm
đó, ngay khi c̣n tại bến chờ khách.
Như vậy tôi đến Xẻo Rô, kinh Cán Gáo,
và rừng U Minh Thượng năm 1974, để
phục vụ Liên giang đoàn Thủy Bộ 70-71.
Sau đó, tôi đă rời vùng này khi đất nước
Việt Nam Cộng Ḥa tan ră. Tám năm qua, nghĩa
là gồm bảy năm ở tù Cộng sản của
tôi, qua nhiều trại khác nhau, từ trong Nam ra ngoài
Bắc, nhất là qua các trại nhiều gian nguy,
chết chóc, do lao động ở những vùng
rừng núi nguy hiểm, thiếu ăn, cộng với
một năm lăn lóc ở Sài G̣n, Chợ Lớn, t́m
đường vượt biên. Sau đó tôi
trở lại vùng Xẻo Rô, kinh Cán Gáo, rừng U Minh
Thượng trong một hoàn cảnh chạy trốn
sự truy lùng của công an địa phương.
Lần ấy ghe tôi gồm chừng 60 người, mà
12 người dính líu đến vấn đề
tổ chức vượt biên cũng như nhóm lái ghe,
đă phải chạy trốn vào rừng U Minh Thượng.
Thế mà chỉ có ba anh em trong nhóm của tôi thoát
được bàn tay công an địa phương,
về lại được Sài G̣n b́nh yên.
Tuy rằng hoàn cảnh lúc bấy
giờ quá bi đát cho tôi và gia đ́nh, nhưng tôi c̣n
một chút may mắn, và sau đó được
những con mắt thương yêu và bao bọc của
Song Ngư, sau 13 năm trong Hải quân, đă cho tôi có
cơ hội tiếp tục sinh hoạt, và sau đó cơ
hội tiếp tục vượt biên, rời khỏi
đất nước đang bị thống trị
bởi Cộng sản. Chúng tôi có cơ hội xây
dựng lại cuộc đời cho các con nơi
xứ người, cái xứ mà phần đông người
Việt chúng ta mong muốn. Đó là Hiệp
Chủng quốc Hoa Kỳ.
Phan Hữu Niệm
|