Lịch
Sử Hoa Kỳ - Phần 1: Từ Thuộc Địa
Đến Lập Quốc Phạm Văn Tuấn
|
Hoa
kỳ là một quốc gia khởi đầu từ
miền đất hoang vu và do các người dân can
đảm và yêu tự do, từ mọi xứ sở
của thế giới tới lập nghiệp. Họ
gồm nhiều quốc tịch và nhiều tôn giáo khác
nhau, trải qua nhiều thế hệ, mọi người
cùng sống với nhau và làm việc cùng nhau để
xây dựng nên Hiệp Chủng Quốc ngày nay, đây
là một quốc gia hùng mạnh, rộng lớn và
giầu có. Vào
năm 1400, giống người Inuit, c̣n gọi là người
Eskimos, và sắc dân da đỏ Indians là các cư dân
duy nhất tại miền Tây Bán Cầu này. Sau đó
200 năm, một số người từ các quốc
gia châu Âu đă dương buồm băng qua Đại
Tây Dương để tới miền Bắc Mỹ và
miền Nam Mỹ. Các người thuộc địa
đầu tiên này, lúc đầu phần lớn là người
Anh, đă định cư dọc theo bờ biển phía
đông của vùng Bắc Mỹ, đối với ngày
nay th́ từ tiểu bang Maine tới tiểu bang Georgia.
Những người định cư này đă sinh
sống theo luật lệ của nước Anh trong
nhiều năm. Sự tranh đấu đ̣i tự do
đă khiến cho họ tuyên bố độc lập và
thành lập nên Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ vào năm
1776. Ngày
nay, Hoa Kỳ là nơi sản xuất đứng đầu
thế giới về sản phẩm nông nghiệp và hàng
hóa công nghiệp và người dân có đời
sống với tiêu chuẩn cao nhất trên thế
giới. Hoa Kỳ c̣n là quốc gia dẫn đầu
về nhiều ngành như khoa học, kỹ thuật, y
khoa, sức mạnh quân sự, tài chánh và giải trí,
nhưng Hoa Kỳ vẫn c̣n nhiều vấn đề
cần phải giải quyết như nạn nghèo khó
trong khi có nhiều người quá giàu sang, nền kinh
tế chưa ổn định và nạn ô nhiễm môi
trường… 1/ Châu Mỹ Vào Trước Thời
Kỳ Thuộc Địa.
Trong
hàng ngàn năm, người da đỏ (Indians) là cư
dân duy nhất trên miền Tây Bán Cầu này. Phần
lớn các nhà khoa học tin tưởng rằng các người
da đỏ này đă di chuyển từ châu Á qua
miền Bắc Mỹ vào khoảng 15,000 năm về trước
và họ sinh sống trải dài từ bắc bán
cầu tới phần đất tận cùng của Nam
Mỹ. Có lẽ vào khoảng 6,000 năm về trước,
giống người Inuit, một giống dân khác
của châu Á, đă tràn qua Tây Bán Cầu rồi
họ tiến về phía đông, lên tới miền
Cực Khuyên (the Arctic Circle). Người
Vikings có lẽ là người da trắng đầu tiên
tới Mỹ Châu. Người ta tin rằng các toán người
đi biển, ưa mạo hiểm này đă khám phá và
định cư tạm thời trên bờ biển phía
đông của Bắc Mỹ vào khoảng 1,000 năm
về trước. Rồi vào năm 1492, nhà thám
hiểm Christopher Columbus đă từ nước Tây Ban
Nha, dương buồm đi về hướng tây
để t́m đường tới châu Á và ông ta
đă t́m thấy Tân Thế Giới (New World). Khi
Christopher Columbus t́m ra Tân Thế Giới, đă có
khoảng 80 triệu người Da Đỏ sinh
sống trên hai miền Nam và Bắc Mỹ, trong số này,
65 triệu người cư ngụ từ xứ Mexico
ngày nay tới mỏm cực nam của vùng Nam Mỹ c̣n
15 triệu người Da Đỏ sinh sống trên
miền đất Hoa Kỳ và Canada ngày nay. Các
người Da Đỏ gồm hàng trăm bộ
lạc khác nhau, với ngôn ngữ và lối sống khác
nhau. Các bộ lạc tại miền nam gồm các người
Aztec, Inca và Maya, họ đă tạo dựng được
các nền văn minh khá tiến bộ, lập nên các
thành phố và xây dựng được nhiều
kiến trúc khổng lồ, rực rỡ, họ cũng
thu thập được nhiều vàng bạc, ngọc
quư và các tài sản khác. Phần lớn các người
Da Đỏ tại phía bắc của Mexico đều
sinh sống trong các ngôi làng nhỏ, họ săn thú,
trồng trọt hoa màu như ngô (bắp), đậu và
bầu bí. Vài bộ lạc lại di chuyển để
t́m kiếm thức ăn mà không định cư
tại một nơi nhất định. 2/ Người Vikings Và Christopher Columbus.
Vào
khoảng năm 1000 sau Công Nguyên (CN), các người
Vikings từ miền đất Greenland, chỉ huy do Leif
Ericson, đă dùng thuyền tới thám hiểm tại
một địa điểm trên miền Bắc
Mỹ, có lẽ là Newfoundland, Canada. Đây có lẽ là
nhóm người da trắng đầu tiên tới
lục địa châu Mỹ, nhưng người Vikings
không thiết lập các khu định cư và các
cuộc thám hiểm của họ sớm bị quên lăng. Vào
khoảng năm 1400, các người dân châu Âu không
biết rằng đă có miền Tây Bán Cầu (the
Western Hemisphere), nhưng họ quan tâm tới việc t́m
kiếm một con đường biển ngắn
nhất để đi tới Viễn Đông là
miền có nhiều hương liệu và các đồ
vật quư giá.
Christopher
Columbus là một nhà hàng hải người Ư, ông ta
đă tin tưởng rằng ḿnh có thể t́m ra con
đường biển đi tới Viễn Đông
bằng cách dương buồm đi về hướng
tây. Được nhà vua và nữ hoàng Tây Ban Nha tài
trợ, Columbus ra đi từ Tây Ban Nha vào ngày 03/8/1492,
đă tới đất liền vào ngày 12 tháng 8 và ông
ta cho rằng đây là Viễn Đông. Thực ra,
Columbus đă bước lên ḥn đảo San Salvador,
một trong các ḥn đảo ở phía đông của
lục địa Bắc Mỹ. Christopher
Columbus qua đời vào năm 1506 rồi sau đó, các
người dân châu Âu đă gọi miền đất
chưa thám hiểm này là Tân Thế Giới (New World) và
gọi miền Tây Bán Cầu là America, theo tên của
Amerigo Vespucci, một người Ư. Ông Vespucci này đă
tự nhận rằng ḿnh đă thực hiện
được nhiều chuyến đi tới Tân
Thế Giới từ năm 1497. 3/ Thám Hiểm Và Định Cư Trên
Miền Đất Tân Thế Giới.
Sự
khám phá ra châu Mỹ đă tạo nên một làn sóng
phấn khởi tại châu Âu. Đối với người
dân châu Âu, Tân Thế Giới cho họ các cơ
hội để làm giầu, có thêm quyền lực và
thêm mạo hiểm. Các vua chúa của châu Âu t́m
kiếm có thêm lănh thổ tại Tân Thế Giới
để làm gia tăng sự quan trọng và quyền
lực. Các thầy tu Thiên Chúa giáo muốn phổ
biến tôn giáo của họ cho các người dân
bản xứ. Các thương nhân muốn t́m kiếm
nguồn tài nguyên để thêm vô phần tài sản
của họ. Các nhà thám hiểm coi Tân Thế Giới
là nơi mạo hiểm, để đạt được
danh tiếng và tài sản. V́ thế, các người châu
Âu từ nhiều quốc gia đă dương buồm
băng qua Đại Tây Dương để thám
hiểm Mỹ Châu và thiết lập các trạm
mậu dịch và các thuộc địa. Từ
năm 1500, các người Tây Ban Nha (Spaniards) và Bồ
Đào Nha (Portuguese) đă đi tới miền phía nam
của Tây Bán Cầu để t́m kiếm vàng bạc
và các tài sản khác. Người Tây Ban Nha chinh
phục rất nhanh xứ Inca của Peru, xứ Maya
của miền Trung Mỹ và xứ Aztec của Mễ Tây
Cơ (Mexico). Người Bồ Đào Nha kiểm soát
miền đất mà ngày nay là xứ Brazil. Như
vậy tới năm 1600, các người Tây Ban Nha và
Bồ Đào Nha đă chinh phục được
từ xứ Mễ Tây Cơ xuống phía nam. Cũng
từ năm 1500, người Tây Ban Nha đă đi
tới miền tây nam và miền tây của Hoa Kỳ ngày
nay và họ đă không t́m thấy vàng bạc như
tại các xứ Inca, Aztec…nhưng họ đă
kiểm soát được miền Florida và miền
đất phía tây của ḍng sông Mississippi. Vào năm
1526, người Tây Ban Nha thiết lập nên nơi
định cư đầu tiên, các sử gia tin
rằng nơi định cư này là San Miguel de Gualdape,
ở đâu đó dọc theo bờ biển từ South
Carolina tới Georgia. Nơi định cư đầu
tiên này bị bỏ trống vào năm 1527 rồi
tới năm 1565, người Tây Ban Nha lập nên nơi
định cư St. Augustine, Fla., rồi họ cũng
tổ chức các hội truyền giáo và các nơi
định cư khác tại miền nam và miền tây
của Hoa Kỳ ngày nay. Người
Anh và người Pháp cũng thám hiểm miền đông
của Bắc Mỹ vào khoảng năm 1500. Lúc đầu,
cả hai nước này chỉ gửi đi tới Tân
Thế Giới các nhà thám hiểm và các người buôn
lông thú, nhưng sau năm 1600, họ cũng thiết
lập các nơi định cư vĩnh viễn. Các nơi
định cư của người Pháp phần
lớn là tại xứ Canada ngày nay c̣n các vùng đất
định cư của người Anh là 13 thuộc
địa mà sau này trở thành Hiệp Chủng
Quốc hay Hoa Kỳ. Trong nhiều năm, người
Anh và người Pháp đă đánh phá lẫn nhau
để giành quyền kiểm soát xứ Canada và
miền đất nằm giữa Đại Tây Dương
và gịng sông Mississippi và cuối cùng, nước Anh
đă thắng nước Pháp năm 1763 sau khi nước
Pháp thua trận chiến được gọi là
“Trận Chiến Tranh giữa người Pháp và người
Da Đỏ” (the French and Indian War). 4/ Di Sản Thuộc Địa.
Các
nhà thám hiểm tới miền bắc của tây bán
cầu đă không t́m thấy vàng bạc hay các tài
sản nào khác, hay các nền văn minh giống như
các người Tây Ban Nha đă t́m được.
Họ chỉ thấy một vùng đất hoang vu có các
thổ dân Da Đỏ cư ngụ rải rác. Các người
định cư đầu tiên đă gặp phải
nhiều cảnh gian nan khi họ thiết lập các khu
định cư dọc theo bờ biển phía đông.
Họ chỉ biết ở phía sau khu định cư
là vùng đất rộng bao la, chính các tài nguyên
của vùng đất bao la này: đất đai màu
mỡ, sông nước dư thừa và rất nhiều
khoáng sản…, tất cả về sau đă giúp cho Hoa
Ky trở thành một trong các quốc gia rộng lớn
nhất và thịnh vượng nhất. Vào
năm 1585, Sir Walter Raleigh đă gửi các người
định cư tới ḥn đảo Roanoke (Roanoke
Island) nằm bên ngoài bờ biển North Carolina, nhưng
xứ thuộc địa này đă gặp thất
bại. Qua năm 1607, vào khoảng 100 người Anh
tới bờ biển gần Vịnh Chesapeake, họ
lập nên khu định cư đầu tiên Jamestown,
rồi trong ṿng 150 năm, làn sóng người di dân
tới Bắc Mỹ và họ đă định cư
dọc theo bờ biển, phần lớn họ là người
Anh, nhưng cũng có các người dân từ các nước
Pháp, Đức, Ḥa Lan, Ái Nhĩ Lan và vài quốc gia khác.
Lúc
đầu, các người thuộc địa này đă
gặp phải nhiều gian nan và nguy hiểm trên
miền đất Bắc Mỹ, họ thiếu
thốn thực phẩm, gặp các bệnh tật và
đôi khi bị các dân Da Đỏ tấn công. Nhưng
dần dần họ cũng xây dựng được
các nông trại và đồn điền sản
xuất, lập nên các thị trấn, nhà thờ và trường
học, làm các đường lộ và bắt đầu
các kỹ nghệ. Các người thuộc địa cũng
làm phát triển các cơ cấu chính trị và
niềm tin xă hội, họ cố gắng thiết
lập một chính quyền dân chủ, đề cao
tự do cá nhân và họ tin rằng chăm chỉ làm
việc là một cách để tiến bộ. Từ
năm 1600, Vua nước Anh đă ban ra các nghị
định để thiết lập các xứ
thuộc đia tại Bắc Mỹ. Các nghị định
này cho phép các công ty thương mại được
quyền tuyển người đi định cư
tại Bắc Mỹ và quản lư họ. Tới
giữa thế kỷ 18, đă có 13 xứ thuộc
địa Anh, mỗi thuộc địa có một viên
toàn quyền (a governor) và một ban lập pháp
(legislature), nhưng mọi xứ thuộc địa
đều ở dưới quyền kiểm soát
của chính phủ Anh. 13
xứ thuộc địa trải dài từ tiểu bang
Maine ngày nay tới tiểu bang Georgia ở phía nam,
gồm có các xứ thuộc địa Tân Anh Cát
Lợi (the New England Colonies) với Massachusetts, Connecticut,
Rhode Island và New Hampshire ở mạn bắc, các xứ
thuộc địa miền trung (the Middle Colonies) với
New York, New Jersey, Pennsyvania và Delaware, hai xứ Virginia và
Maryland nằm dọc theo Vịnh Chesapeake, và các xứ
thuộc địa Miền Nam (the Southern Colonies) với
North Carolina, South Carolina và Georgia. 5/ Hai Xứ Thuộc Địa Virginia Và
Maryland.
Hai
xứ thuộc địa Virginia và Maryland được
thiết lập v́ các lư do khác nhau nhưng đă phát
triển theo cùng một cách. Virginia
bắt đầu với nơi định cư
Jamestown vào năm 1607. Công ty London, một tổ chức
của các thương gia người Anh, đă gửi
các người định cư tới Bắc Mỹ
với chủ đích để họ t́m kiếm vàng
bạc và các kho tàng, nhưng các người định
cư đă không t́m thấy một kho tàng nào mà
phải chịu đựng nhiều gian nan. Vào lúc này,
Đại Úy John Smith đă giúp đỡ xứ
thuộc địa sống c̣n vào các ngày ban đầu.
Vào khoảng năm 1612, các người thuộc địa
tại Jamestown đă trồng thuốc lá và công ty London
đă bán sản phẩm này tại châu Âu. Nhờ
thuốc lá bán được giá cao, xứ Virginia đă
trở nên thịnh vượng. Xứ
Maryland được thiết lập nên do gia đ́nh
Calverts. Đây là một gia đ́nh Anh giàu có, theo đạo
Cơ Đốc (Catholics). Các người Cơ Đốc
bị ngược đăi tại nước Anh nên gia
đ́nh Calverts muốn cung cấp cho họ một nơi
mà họ có thể hưởng thụ nền tự do.
Vào năm 1632, Cecilius Calvert trở nên sở hữu
chủ miền đất Maryland rồi Leonard Calvert
đă hướng dẫn các người di cư thành
lập nơi định cư Maryland đầu tiên vào
năm 1634. Các người dân định cư tại
Maryland cũng trồng thuốc lá và xứ thuộc
địa này cũng phát triển sung túc. Do
muốn có tiếng nói trong chính quyền địa phương,
các người Virginia đă kháng cáo lên Công Ty London và
v́ công ty này muốn khuyến khích nhiều người
tới Virginia, nên Công Ty London đă đồng ư.
Kết quả là vào năm 1619, Nghị Viện Burgesses
(the House of Burgesses) đă được thiết lập
và đây là cơ sở lập pháp đầu tiên
tại Mỹ Châu. Xứ Maryland cũng hấp dẫn các
người định cư Cơ Đốc và Tin Lành.
Vào năm 1649, gia đ́nh Calverts đă chấp thuận
tự do tôn giáo cho cả hai thứ tín ngưỡng
kể trên. Đây là sự dung thứ tôn giáo đầu
tiên (first religious toleration) tại miền Bắc Mỹ. 6/ Xứ Tân Anh Cát Lợi (New England).
Các
người Thanh Giáo (the Puritans) là những người
Anh theo đạo Tin Lành, đă bị ngược đăi
v́ họ chống đối Nhà Thờ Anh Cát Giáo (the
Church of England). Một số các người Thanh Giáo,
được gọi tên là các người Pilgrims,
đă được các thương nhân người
Anh trợ giúp tiền bạc để di cư sang Tân
Thế Giới, vào năm 1620 họ đă lập nên các
thuộc địa Tân Anh Cát Lợi (the New England
colonies). Các người Pilgrims đă thiết lập nên
thuộc địa Plymouth (the Plymouth Colony), đây là nơi
định cư vĩnh viễn thứ hai của người
Anh tại Bắc Mỹ.
Trong
các năm từ 1628 tới 1630, các người Thanh Giáo
tạo nên xứ thuộc địa Vịnh Massachusetts
(the Massachusetts Bay Colony) mà ngày nay là hai thành phố Salem
và Boston, rồi sau đó thuộc địa Plymouth
trở thành một phần của thuộc địa
Massachusetts vào năm 1691. Từ
Massachusetts, các người định cư tỏa
rộng ra để thành lập 3 khu thuộc địa
khác là Connecticut, đầu tiên được định
cư vào năm 1633 rồi trở nên một xứ
thuộc địa vào năm 1636, sau đó các người
định cư tới Rhode Island năm 1636 và nơi này
thành xứ thuộc địa vào năm 1647. Sau cùng New
Hampshire được dân định cư tới cư
ngụ vào năm 1623 rồi trở nên một xứ
thuộc địa vào năm 1680. Các
nhà lănh đạo Thanh Giáo quan trọng của các
xứ thuộc địa Tân Anh Cát Lợi gồm có các
Thống Đốc (governors) William Bradford của Plymouth,
John Winthrop của Massachusetts và Roger Williams là người
sáng lập ra xứ Rhode Island. Đời
sống tại miền Tân Anh Cát Lợi thường
tập trung vào các thị trấn (towns) nhưng mỗi
gia đ́nh đều có một mảnh đất để
trồng trọt và kiếm sống. Sau đó không lâu,
người dân tại nơi đây đă bắt đầu
các kỹ nghệ nhỏ như đánh cá, xẻ
gỗ và làm đồ mộc, và các nghề thủ công. Các
người Thanh Giáo cũng đóng góp vào nền
cộng ḥa của Bắc Mỹ. Các người Pilgrims
đă viết ra “Thỏa Ước Mayflower” (the
Mayflower Compact), đây là sự đồng ư của các
người nam di cư trưởng thành về các
luật lệ chính đáng và b́nh đẳng dành cho
mọi người (just and equal laws for all). Các người
Thanh Giáo này cũng tổ chức các buổi hội
họp của thị trấn để bàn bạc và
giải quyết các vấn đề về luật pháp. 7/ Các Xứ Thuộc Địa Miền
Trung.
Sau
khi các người Anh bắt đầu định cư
trên miền đất của Tân Thế Giới, các người
Ḥa Lan (the Dutch) đă thành lập xứ New Netherland,
một địa điểm mậu dịch và
thuộc địa mà ngày nay là thành phố New York và
miền bắc của tiểu bang New Jersey. Người
Ḥa Lan định cư vĩnh viễn tại New York vào
năm 1624 và New Jersey vào năm 1660. Vào
năm 1638, các người Thụy Điển đă
thiết lập nên một địa điểm
mậu dịch và định cư được
gọi tên là New Sweden mà ngày nay là tiểu bang Delaware và
phần phía nam của tiểu bang New Jersey. Sau đó người
Ḥa Lan chiếm New Sweden vào năm 1655. Qua năm 1664, người
Anh nhờ thành lập khá hơn, đă chiếm New
Netherland và New Sweden. Vua
Charles II của nước Anh đă ban cho người
em James, là Bá Tước York (the Duke of York) thị
trấn New York và lănh thổ New Jersey rồi các người
bạn của vị Bá Tước này đă thành
lập nên các khu nông trại khổng lồ tại
miền bắc của thị trấn New York. Phía nam
của thị trấn này, được gọi tên là
thành phố New Amsterdam, đă trở nên thành phố New
York, đây là một trung tâm mậu dịch và đóng
tầu. Bá Tước York cũng đă cho hai người
bạn của ông ta xứ New Jersey rồi hai ông chủ
này đă cho phép xứ thuộc địa này nhiều
tự do chính trị và tôn giáo, nhờ vậy New Jersey
đă thu hút được nhiều người định
cư. Vào
năm 1643, các người Thụy Điển đă
thiết lập được một nơi định
cư nhỏ mà ngày nay là Pennsyvania nhưng vào năm
1681, ông William Penn của nước Anh, đă nhận
được một nghị định xác nhận ông
ta là sở hữu chủ của hai miền Pennsylvania và
Delaware. Ông William Penn là một người theo đạo
Quaker, một tôn giáo bị ngược đăi tại
nhiều quốc gia ở châu Âu. Do lời khuyến khích
của ông William Penn, các người theo đạo
Quaker và các tôn giáo khác đă đổ về miền
Pennsylvania rồi cũng do cách trù liệu định cư
của ông Penn, xứ Pennsylvania đă phát triển
rực rỡ và Philadelphia, một nơi định cư,
đă trở nên một thành phố rộng lớn
nhất trong các xứ thuộc địa Bắc
Mỹ. 8/ Các Xứ Thuộc Địa Miền
Nam.
Vào
năm 1663, Vua Charles II của nước Anh đă ban cho
8 chủ nhân miền đất trải dài từ
Virginia tới Florida, gọi là Carolina, nhưng các người
Virginia đă định cư tại phần đất
phía bắc của Carolina từ 10 năm về trước.
Sau năm 1663, miền đất Carolina này đă thu hút
các người định cư Anh, các người Pháp
theo đạo Tin Lành được gọi là dân
Huguenots và các người từ các xứ thuộc
địa khác. Năm 1712, miền đất phía
bắc Carolina được chia thành North Carolina và South
Carolina. North Carolina là xứ thuộc địa của các
nông trại nhỏ và là nơi trao đổi lông thú.
Tại South Carolina, các chủ đất giàu có đă
cho thiết lập các khu trồng lúa và các đồn
điền chàm (indigo plantations). Các đồn điền
này cần tới nhiều dân lao động nên các
chủ đất đă mang tới nơi đây
nhiều người nô lệ da đen. Cũng vào
thời gian này, Charleston, S.C., đă trở nên một
hải cảng giàu có và là một nơi sinh hoạt xă
hội sống động. Một
phần ba phía nam của Miền Carolina đă không
được định cư cho tới năm 1733.
Sau đó, ông James Oglethorpe của nước Anh đă
thành lập nên xứ Georgia và ông ta hy vọng rằng
xứ sở này sẽ trở nên một thuộc địa
của các nông trại nhỏ. Nghị định
của xứ thuộc địa Georgia đă cấm
đoán việc nhập cảng các người nô
lệ da đen v́ vậy chế độ nô lệ và
các đồn điền đă không phát triển
tại Georgia nhưng sau năm 1750, luật lệ
của Georgia đă thay đổi, cho phép các người
định cư mang dân nô lệ tới và v́ thế các
đồn điền cũng phát triển. 9/ Đời Sống Tại Các Xứ
Thuộc Địa Bắc Mỹ.
Kinh
tế phát triển và các tự do tôn giáo - chính
trị, đă lôi cuốn nhiều người di cư
tới Bắc Mỹ. Vào năm 1753, dân số thuộc
địa là 1.33 triệu người, phần lớn các
người định cư từ nước Anh nhưng
cũng có nhiều người từ các xứ khác
của miền Tây châu Âu. Nền mậu dịch nô
lệ cũng mang tới nơi đây các người dân
của châu Phi và vào thập niên 1750, người da
đen chiếm 20 % dân số. Các
người dân châu Âu vào thời kỳ đó biết
rằng đi sang Tân Thế Giới sẽ gặp
nhiều gian nan và nguy hiểm nhưng miền đất
mới này cũng sẽ cung cấp các cơ hội cho
mọi người tạo dựng một đời
sống mới, v́ thế nhiều người đă t́m
cách di cư sang miền Bắc Mỹ. Ngoài những người
Thanh Giáo, Cơ Đốc La Mă, Quakers và Huguenots, c̣n có
các người Do Thái (Jews) và các người Tin Lành
gốc Đức. Các
người khá giả của châu Âu muốn tới Tân
Thế Giới v́ họ mong muốn giàu có hơn, c̣n các
người nghèo tới miền đất mới này
khi họ kư giao kèo làm mướn cho một người
chủ và người chủ đồng ư trả cho người
làm mướn tiền chuyên chở, thực phẩm,
quần áo và nơi trú ngụ. Phần lớn giao kèo kéo
dài trong 4 năm, sau đó người làm mướn
được tự do làm việc cho chính ḿnh. Cũng
có những người tới Bắc Mỹ mà không
phải tự nguyện. Họ là các tù nhân trong các
trại tù quá đông người của nước
Anh, các người Ái Nhĩ Lan bị người Anh
bắt làm tù binh sau các trận chiến và các người
da đen châu Phi bị bắt v́ chiến tranh bộ
lạc và bị bán cho các kẻ buôn người
từ châu Âu.
Đầu
tiên, các người da đen có cùng địa vị
luật pháp với các người da trắng làm mướn
nhưng từ 1660, sự b́nh đẳng của người
da đen giảm đi. Nhiều chủ đất đă
gia tăng thời gian nô lệ của người da
đen tới vô kỳ hạn và việc này bắt
đầu chế độ nô lệ tại miền
Bắc Mỹ, rồi các đồn điền miền
Nam cần tới nhiều lao công nên các chủ đồn
điền đă thấy có lợi nhuận khi họ
mua các dân nô lệ để làm việc. Vào
thuở ban đầu, các người thuộc địa
đă trồng trọt các thực phẩm để
sinh sống. Các đồn điền lớn trồng lúa,
chàm và thuốc lá c̣n các nông trại nhỏ nuôi gia súc
và trồng bắp và lúa mạch (wheat). Khi không bận
rộn v́ mùa màng, họ đi câu cá hay đi săn thú
rừng. Một số người khác chặt cây,
xẻ gỗ để làm ra các thùng gỗ (barrels) hay
để đóng tầu. Các người thuộc địa
đă dùng một phần sản phẩm của họ
rồi họ xuất cảng một phần lớn các
hàng hóa. Họ buôn bán với nước Anh là nơi các
kỹ nghệ cần tới các nguyên liệu của các
xứ thuộc địa và ngược lại, họ
cũng mua về nhiều sản phẩm đă chế
biến. Các xứ thuộc địa này cũng giao
dịch với các nước Pháp, Ḥa Lan và Tây Ban Nha. Giống
như tại châu Âu, tại các xứ thuộc địa
Bắc Mỹ đă có các người giàu và các
kẻ nghèo, nhưng tại châu Âu, các tập quán
(traditions) đă làm cho việc thăng tiến kinh
tế và xă hội trở nên khó khăn. Tại
miền Bắc Mỹ này, đă không có vấn đề
đó. Sự thăng tiến dành cho mọi người
nếu người đó chịu khó làm việc chăm
chỉ, ngoại trừ đối với các người
nô lệ. Tại miền Tân Thế Giới, đất
đai th́ dư thừa và rất dễ dàng sở
hữu các mảnh đất và lại có nhiều cơ
hội để mọi người bắt đầu
các cơ sở thương mại mới. Các người
làm mướn và các con cháu của họ đă
trở thành các thương gia khá giả hay các chủ
đất giàu có. Các xứ thuộc địa c̣n
cần tới các nhà chuyên môn như các luật sư,
y sĩ, giáo chức và tu sĩ, và v́ các tŕnh độ
chuyên môn không cao nên mọi người đều có
nhiều cơ hội thành đạt. Các
người thuộc địa không ưa các định
chế của quá khứ mà lại muốn tạo nên các
thứ mới để dùng riêng cho họ. V́ các người
thuộc địa sinh sống dưới luật pháp
của nước Anh nhưng luật lệ làm tại
nước Anh bị coi như không thích hợp với
họ và thái độ độc lập này sẽ
sớm gây nên sự xung đột giữa người
Anh và người thuộc địa của vùng
Bắc Mỹ. 10/ Phong Trào Đ̣i Độc Lập
(1754-1783).
Các
liên lạc giữa nước Anh và các thuộc địa
Bắc Mỹ bắt đầu dạn nứt vào
giữa thế kỷ 18. Nước Anh dần dần
siết chặt sự kiểm soát các xứ thuộc
địa. Các nhà lănh đạo Anh đă thông qua các
đạo luật để giới hạn các tự
do và đánh thuế lên các người thuộc địa,
trong khi các người này lại quen với cách tự
quản trị, đồng thời họ cũng làm phát
triển tinh thần đoàn kết và độc
lập.V́ thế các người thuộc địa
Bắc Mỹ đă coi người Anh xen lấn vào các
công việc nội bộ của họ.Sự xung đột
giữa người Mỹ và người Anh càng tăng
thêm, tới ngày 19 tháng 4 năm 1775, cuộc Chiến
Tranh Cách Mạng (the Revolutionary War) đă nổ ra
giữa hai bên rồi trong thời gian chiến tranh, vào
ngày 4 tháng 7 năm 1776, các người thuộc địa
Bắc Mỹ đă tuyên bố độc lập
khỏi quyền cai trị của người Anh. Vào năm
1783, các người thuộc địa đă chiến
thắng quân đội Anh. a/
Cuộc chiến tranh Pháp và Da Đỏ. Trong
thời kỳ thuộc địa, cả hai nước
Anh và Pháp đều tranh giành nhau quyền kiểm soát
phần đất phía đông của Bắc Mỹ. Khi
các người định cư di chuyển sâu vào
trong đất liền th́ cả hai quốc gia kể trên
đều tranh giành vùng đất rất rộng
lớn nằm giữa rặng núi Appalachian và ḍng sông
Mississippi. Sự tranh giành này khiến cho nổ ra
cuộc chiến tranh Pháp và Da Đỏ (the French and
Indian War) vào năm 1754. Do
người Anh đă chiến thắng cuộc chiến
kể trên và do Hiệp Ước Paris (the Treaty of Paris)
kư kết vào năm 1763, nước Anh được
quyền kiểm soát: (1)
tất cả miền đất mà ngày nay là nước
Canada. (2)
tất cả các miền đất của người
Pháp ở phía đông của ḍng sông Mississippi,
ngoại trừ New Orleans. Nước
Anh cũng nhận được miền Florida từ nước
Tây Ban Nha vào năm 1763. Như vậy, nước Anh
đă kiểm soát toàn thể Bắc Mỹ từ Đại
Tây Dương tới ḍng sông Mississippi. b/
Các chính sách của nước Anh thay đổi. Sau
cuộc chiến tranh Pháp và Da Đỏ, người
Anh t́m cách kiểm soát thêm vùng đất Bắc
Mỹ rộng lớn. Do phải dùng nhiều tiền
bạc vào cuộc chiến tranh kể trên, số
nợ của quốc gia (the national debt) đă tăng lên
gần gấp đôi. Vua George III là vua của nước
Anh vào năm 1760, đă chỉ thị cho Nghị
Viện Anh phải t́m ra các chính sách để giải
quyết vấn đề nợ nần. V́ thế
Quốc Hội Anh đă ban ra các đạo luật
giới hạn tự do của các người Mỹ
thuộc địa, đánh thuế họ hoặc
cả hai cách. Vào
năm 1763, Quốc Hội Anh bỏ phiếu cho phép quân
đội Anh trú đóng tại Bắc Mỹ để
tăng cường kiểm soát. Hai năm sau, đạo
luật Đồn Trú (the Quartering Act) bắt buộc các
người dân thuộc địa phải cung cấp
cho quân đội Anh nơi trú ngụ và thực
phẩm. Ngoài ra, người Anh c̣n công bố vào tháng
10 năm 1763, cấm đoán người dân thuộc
địa không được phép định cư
ở phía tây của rặng núi Appalachian. Vua
George và Quốc Hội Anh tin tưởng rằng các người
thuộc địa phải tuân theo các điều
lệ mậu dịch và phải trả phí tổn cho
việc duy tŕ Đế Quốc Anh. Vào năm 1764,
Quốc Hội Anh thông qua Đạo Luật Đường
(the Sugar Act) theo đó mật đường phải
trả thuế khi mang tới các xứ thuộc địa,
rồi sau đó là Đạo Luật Tem Thuế (the
Stamp Act) vào năm 1765 đă đánh thuế lên
giấy, các tài liệu luật pháp và các tài liệu
in ấn. Các
người thuộc địa đă phản đối
các luật lệ Anh. Họ cho rằng chính quyền Anh
không có quyền giới hạn sự định cư
của họ cũng như khước từ sự
tự do bất cứ h́nh thức nào. Họ cũng
chống cự mạnh mẽ các loại thuế má. V́
không được có người đại diện
trong Quốc Hội Anh, các người thuộc địa
biện luận rằng nước Anh không có quyền
đánh thuế họ. Để
chống lại các luật lệ mới, các người
thuộc địa đă tổ chức các cuộc
tẩy chay rộng lớn đối với các hàng hóa
của nước Anh, đồng thời nhiều người
thuộc địa tham gia vào một hội bí mật
gọi là “Các Người Con của Tự Do” (Sons of
Liberty) và nhóm người này đe dọa dùng bạo
lực để chống lại sự bắt buộc
phải thi hành luật lệ rồi vào năm 1765, các
đại diện của 9 xứ thuộc địa
đă hội họp với nhau để cứu xét các
hành động chung chống lại nước Anh. Vào
năm 1767, Quốc Hội Anh thông qua Đạo Luật
Townshend, cho phép đánh thuế lên ch́, sơn, giấy và
trà nhập cảng vào các xứ thuộc địa, v́
vậy sự căng thẳng giữa người Anh và
người Mỹ thuộc địa đă gia tăng
rồi sau đó, nước Anh gửi quân đội
tới Boston và thành phố New York. Vào ngày 5 tháng 3 năm
1770, một số người dân tại Boston đă
chế nhạo một nhóm quân Anh và nhóm quân đội
này đă xả súng bắn vào các người dân
sự làm cho 3 người chết và 8 người
bị thương. Tai nạn này được gọi
là “cuộc tàn sát Boston” (the Boston Massacre), đă làm
phẫn uất các người dân thuộc địa. Qua
năm 1773, Quốc Hội Anh giảm thuế cho loại
trà do Công Ty Đông Ấn bán ra (the East India Company) và xác
nhận lại quyền đánh thuế lên người
dân thuộc địa. Người dân Mỹ thuộc
đia đă tức giận v́ Công Ty Đông Ấn
được hưởng lợi rồi các nhà buôn
thuộc địa từ chối bán loại trà kể
trên. Vào ngày 16 tháng 12 năm 1773, một số người
dân thuộc địa ăn mặc giả làm các người
da đỏ, đă lên các con tầu của Công Ty Đông
Ấn đậu tại Boston và ném các thùng trà
xuống nước trong Hải Cảng Boston.
Đầu
năm 1774, do tức giận, Quốc Hội Anh đă thông
qua các đạo luật trừng phạt các người
thuộc địa, gồm có đóng cửa hải
cảng Boston, tăng thêm quyền lực của
Thống Đốc Anh tại thuộc địa
Massachusetts và bắt các người thuộc địa
phải nuôi ăn và cho cư ngụ các binh lính Anh. Các
đạo luật kể trên được các người
dân thuộc địa gọi là “các Đạo
Luật không thể chấp nhận được”
(the Intolerable Acts). 12/ Các Nghị Hội Lục Địa Và
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập.
Các
đạo luật không thể chấp nhận
được đă làm cho các người dân
thuộc địa tức giận. Ngày 5/9/1774, các đại
biểu của 12 xứ thuộc địa đă
hội họp lần thứ nhất tại Philadelphia,
lần họp này được gọi là Nghị
Hội Lục Địa Thứ Nhất (the First
Continental Congress). Các đại biểu của Nghị
Hội này muốn t́m cách dàn ḥa với chính quyền
Anh, họ xác nhận ḷng trung thành với nước
Anh và đồng ư rằng Quốc Hội Anh (the
Parliament) có quyền điều khiển các công
việc đối ngoại của các xứ thuộc
địa, nhưng họ cũng muốn chấm
dứt mọi mậu dịch với nước Anh cho
tới khi nào Quốc Hội Anh xét lại các đạo
luật không thể chấp nhận được. Vua
George đă làm tiêu tan hy vọng ḥa giải do nhấn
mạnh rằng các thuộc địa hoặc phải
theo các luật lệ Anh hay sẽ bị đàn áp. Vào
ngày 19/4/1775, các đội quân Anh đă cố công
chiếm đoạt các đồ tiếp liệu quân
sự của dân quân Massachusetts, hành động này
đă khiến cho xẩy ra cuộc Chiến Tranh Cách
Mạng (the Revolutionary War). Các người dân thuộc
địa, đầu tiên tại Lexington rồi tại
Concord, Mass., đă cầm súng chống lại quân đội
Anh và tại Concord, dân quân thuộc địa đă ngăn
chặn được bước tiến của quân
đội Anh. Tin chiến thắng này đă được
lan truyền khiến cho gia tăng hy vọng thắng
lợi. Rồi sau đó các nhà lănh đạo thuộc
địa đă hội họp vào ngày 10/5/1775, đây
là Nghị Hội Lục Địa Lần Thứ Hai
(the Second Continental Congress) và nhiệm vụ của
Nghị Hội này là phải chuẩn bị chiến
tranh. Nghị Hội đă tổ chức Quân Đội
Lục Địa (the Continental Army) và các người dân
thuộc địa đă tham gia. Vào ngày 15/6/1775,
Nghị Hội chỉ định ông George Washington làm
Tổng Tư Lệnh Quân Đội. Vào
ngày 23/8/1775, Vua George chính thức công bố rằng các
xứ thuộc địa đă nổi loạn và người
dân Bắc Mỹ phải chấm dứt sự phản
đối hay sẽ bị nước Anh đánh
bại. Một số người thuộc địa,
được gọi là những “người trung thành”
(the Loyalists) muốn phục tùng các luật lệ
của nước Anh, nhưng các người Bắc
Mỹ khác ủng hộ việc chiến đấu v́
độc lập. Nhiều người c̣n đang phân
vân th́ họ được đọc một quyển
sách mỏng của Thomas Paine, có tên là “Lương
Tri” (Common Sense) trong đó tác giả nói với các người
thuộc địa Bắc Mỹ rằng: “Họ
phải hoặc là chấp nhận chế độ
độc đoán của Vương Triều Anh hay là
ném bỏ xiềng xích do công bố một nước
cộng ḥa”(They must either accept the tyranny of the British Crown
or throw off their shackes by proclaiming a republic). Vào
ngày 4 tháng 7 năm 1776, Nghị Hội Lần Thứ Hai
chính thức công bố Bản Tuyên Ngôn Độc
Lập (the Declaration of Independence) và sự thành lập
Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ (the United States of
America). Được viết bởi ông Thomas Jefferson
của tiểu bang Virginia, Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập đă nói rằng mọi người
được sinh ra b́nh đẳng và có các quyền
sinh sống, tự do và theo đuổi hạnh phúc.
Để bảo đảm các quyền lợi này, con
người tạo nên các chính quyền và chính
quyền dùng quyền lực do sự đồng ư
của người dân. Tinh thần gây nên bởi
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đă là yếu
tố quan trọng cho sự thắng lợi sau này
của người dân Bắc Mỹ. Các
người dân Bắc Mỹ đă phải
đương đầu với đế quốc hùng
mạnh nhất trên thế giới trong cuộc
Chiến Tranh Cách Mạng. Họ thiếu các đạo
quân được huấn luyện kỹ càng,
thiếu các sĩ quan điều khiển quân đội,
thiếu súng đạn và tiền bạc, nhưng
họ có ưu điểm là chiến đấu ngay
tại quê hương. Quân đội Anh tuy được
huấn luyện và trang bị đầy đủ, có
các sĩ quan kinh nghiệm chiến trường nhưng
họ phải chiến đấu tại một
miền đất không quen thuộc và cách xa quê nhà hàng
ngàn dậm. Các người thuộc địa Bắc
Mỹ c̣n nhận được sự giúp đỡ
của nước Pháp và các nước ở châu Âu
chống lại nước Anh. Cuộc
Chiến Tranh Cách Mạng đă kéo dài trong suốt
thập niên 1770 rồi vào ngày 19 tháng 10 năm 1781, người
Mỹ đă chiến thắng cuối cùng bằng
Trận Yorktown (the Battle of Yorktown) trong tiểu bang Virginia.
Hàng ngàn binh lính Anh đă đầu hàng và chính
quyền Anh quyết định t́m cách ḥa b́nh.
Cuối cùng vào ngày 3 tháng 9 năm 1783, người
Mỹ và người Anh đă kư Hiệp Ước
Paris Năm 1783 (the Treaty of Paris of 1783) chính thức
chấm dứt cuộc Chiến Tranh Cách Mạng. 13/ Thành Lập Một Quốc Gia.
Trong
nhiều năm, người Mỹ đă làm phát
triển các thái độ để giành được
tự do và độc lập. Các thái độ này bao
gồm niềm tin vào một chính quyền của dân,
một tinh thần đoàn kết, một niềm tin vào
tương lai với tinh thần quốc gia vững
mạnh. Khi
các thuộc địa Bắc Mỹ mới được
định cư, các thương gia và các chủ đất
là những người nắm quyền lực chính
trị. Nhưng các người thuộc địa
đă dùng các phương thức chính trị để
bày tỏ các quan điểm của họ về các
vấn đề quan trọng. Các vấn đề này
gồm có sự sở hữu đất đai, sự
đại diện trong chính quyền, sự đánh
thuế và vai tṛ của nhà thờ trong xă hội.
Từ năm 1774, Bắc Mỹ không c̣n là một xă
hội trong đó một thiểu số người cai
trị với sự ưng thuận thụ động
của đa số, mà mọi người đều có
tiếng nói tích cực trong chính quyền. Sau
Hiệp Ước Paris Năm 1783, quốc gia Hoa Kỳ
được thành lập gồm miền đất
nằm giữa Đại Tây Dương ở phía
đông và ḍng sông Mississippi ở phía tây, phía bắc là
Canada là lănh thổ thuộc nước Anh, và nước
Anh trả lại miền Florida cho Tây Ban Nha. Nước
Tây Ban Nha cũng kiểm soát phần đất phía tây
của ḍng sông Mississippi. 13 xứ thuộc địa
ban đầu trở thành 13 tiểu bang c̣n miền
đất phía tây của rặng núi Appalachian sau này
được chia thành các lănh địa (territories).
Sau
cuộc Chiến Tranh Cách Mạng, Hoa Kỳ c̣n là
một liên bang lỏng lẻo (a loose confederation of states)
nhưng vào năm 1787, các nhà lănh đạo Hợp
Chủng Quốc đă tụ họp với nhau để
viết ra Bản Hiến Pháp (the Constitution of the United
States). Các tác giả của Bản Hiến Pháp gồm
vài nhân vật danh tiếng và quan trọng của
Lịch Sử Hoa Kỳ, đó là các ông George Washington,
Thomas Jefferson và James Madison của Virginia, Alexander Hamilton
của New York và Benjamin Franklin của Pennsylvania… Bản
Hiến Pháp Hoa Kỳ chưa bảo đảm rơ ràng các
quyền lợi cá nhân, v́ thế 10 Tu Chính Án (amendments)
được gọi là các Đạo Luật Nhân
Quyền (the Bill of Rights), được thêm vào Bản
Hiến Pháp và các Đạo Luật Nhân Quyền
trở thành luật từ ngày 15/12/1791, bảo đảm
các tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do
hội họp và quyền được xét xử trước
bồi thẩm đoàn. Chính quyền Hoa Kỳ chính
thức hoạt động vào năm 1789 với Thủ
Đô tạm thời đặt tại thành phố New
York, rồi di chuyển về thành phố Philadelphia vào
năm 1790 và cuối cùng về Washington D. C. vào năm
1800. Phạm
Văn Tuấn |