Lịch
Sử Hoa Kỳ - Phần 2: Từ Bành Trướng Lănh
Thổ Đến Nội Chiến Phạm Văn Tuấn
|
||||
14/ Bành Trướng
Lănh Thổ.
Ông
Thomas Jefferson được bầu làm Tổng Thống
Hoa Kỳ trong 2 lần bầu cử năm 1800 và 1804.
Triết lư chính trị của ông Jefferson chủ trương
rằng Hoa Kỳ sẽ là một quốc gia của các
nhà nông cỡ nhỏ (small farmers) và xă hội lư tưởng
là người dân sinh sống đơn giản nhưng
có sản xuất hữu ích. Tổng Thống Jefferson t́m
cách giảm bớt các chi phí của chính quyền cũng
như các món nợ của quốc gia. Vào
năm 1801, Tổng Thống Jefferson được tin nước
Pháp đă nhận từ nước Tây Ban Nha một vùng
đất rộng lớn giữa gịng sông Mississippi và
Rặng Núi Rocky, vùng đất này gọi tên là
Louisiana. Tây Ban Nha là một nước yếu nên không
gây ra mối đe dọa nào cho Hoa Kỳ nhưng khi vùng
đất thuộc về Hoàng Đế Napoléon cai
quản, th́ vùng đất này sẽ là một mối
lo cho Hoa Kỳ trong tương lai. Năm
1803, Tổng Thống Jefferson đă giàn xếp để
mua vùng đất Louisiana với giá 15 triệu. Bản
Hiến Pháp đă không cho phép chính quyền mua đất
đai nên ông Jefferson đă nói rằng ông đă làm
“dăn Bản Hiến Pháp cho tới khi bị nứt”
(he had to admit that he had “stretched the Constitution until it
cracked”). Công việc mua vùng đất Louisiana đă làm
cho Hoa Kỳ tăng thêm diện tích được
827,987 dặm vuông (2,144,476 cây số vuông). Qua
năm 1804, Tổng Thống Jefferson đă cử Meriwether
Lewis và William Clark đi khảo sát miền tây và hai nhà
nhà thám hiểm này đă tới tận bờ biển
Thái B́nh Dương. Báo cáo của 2 ông này đă cung
cấp các tin tức rất giá trị về các người
dân đỏ cùng với các tài nguyên thiên nhiên của
miền Viễn Tây. 15/ Cuộc
Chiến Tranh Năm 1812.
Vào
năm 1803, hai nước Anh và Pháp giao chiến với
nhau rồi cả hai nước đều t́m bắt các
tầu buôn Mỹ. Người Anh c̣n bắt các thủ
thủy Mỹ và bắt buộc họ phục vụ
cho nước Anh. Khi
ông James Madison lên làm Tổng Thống Hoa Kỳ kế
tiếp ông Jefferson vào năm 1809, nước Pháp
hứa sẽ không can thiệp vào các tầu biển
Mỹ nhưng nước Anh lại không, trong khi đó
dân chúng Hoa Kỳ tin tưởng rằng người
Anh đang khuyến khích người Da Đỏ
tấn công các người đi tiên phong di chuyển
về phía tây. V́ các lư do này, các người Mỹ
đă đ̣i hỏi phải gây chiến với nước
Anh. Các dân biểu chủ trương chiến tranh
được gọi là các “diều hâu hiếu
chiến” (War Hawks), gồm các ông Henry Clay của
Kentucky và John C. Calhoun của South Carolina, trong khi đó các
người chống chiến tranh gồm các người
miền Tân Anh Cát Lợi (New Englanders). Vào ngày 18 tháng 6
năm 1812, theo lời yêu cầu của Tổng
Thống Madison, Quốc Hội Hoa Kỳ đă tuyên
chiến với nước Anh và cuộc chiến tranh
bắt đầu. Khi
cuộc chiến khởi đầu, cả hai phe không
đạt thắng lợi nhưng vào ngày 24/8/1814, quân
đội Anh đă chiếm được Thủ
Đô Washington D.C., đă đốt cháy Điện
Capitol và các ṭa nhà của chính phủ Hoa Kỳ. Hành
động này của người Anh đă khiến cho
một số lớn người Mỹ t́nh nguyện ngăn
cản cuộc tấn công. Sau đó, Ḥa Ước
Ghent (the Treaty of Ghent) kư ngày 24/12/1814 và được chính
thức phê chuẩn vào ngày 17/2/1815, đă chấm
dứt cuộc Chiến Tranh năm 1812. Không bên nào
thắng cuộc chiến. Sau
cuộc chiến tranh, tinh thần quốc gia đă lên
rất cao tại Hoa Kỳ. Quốc gia này bành trướng
về phía tây, vài tiểu bang mới được sát
nhập vào Liên Bang và nền kinh tế phồn
thịnh. Các sử gia đă gọi giai đoạn
từ năm 1815 tới đầu thập niên 1820 là
“Thời Đại Cảm Giác Tốt Đẹp”
(the Era of Good Feeling) bởi v́ trong xứ sở có ḥa b́nh,
đoàn kết và lạc quan trước tương
lai. Vào lúc này, chính quyền Hoa Kỳ gia tăng các
dự án trong nước, quan trọng nhất là
đường lộ. Bắt đầu vào năm 1811,
đường lộ trải dài từ Cumberland,
Maryland, tới Vandalia, Illinois, đây là con đường
rất quan trọng cho việc chuyên chở hàng hóa và
cho phong trào các người khẩn hoang di chuyển
về phía tây. Trong
các năm giữa 1815 và 1820, Hoa Kỳ chiếm
được thêm hai mảnh đất. Năm 1818,
một hiệp ước với nước Anh cung
cấp cho Hoa Kỳ miền đất Red River Basin,
ở phía bắc của Lănh Thổ Louisiana (the Louisiana
Territory) rồi tới năm 1819, nước Tây Ban Nha
nhượng lại miền Florida cho Hoa Kỳ. 16/ Bành Trướng
Về Phía Tây.
Vào
đầu thập niên 1800, hàng ngàn các người
khẩn hoang vượt qua rặng núi Appalachian để
di chuyển về phía tây, tới các tiểu bang và
miền đất mới. Những người khẩn
hoang này định cư ngay cả sau lằn biên
giới phía tây. Họ dồn về Texas, California và các
miền đất phía tây thuộc về Mexico, họ cũng
tới định cư tại hạt Oregon, một vùng
đất rộng lớn nằm giữa California và
Alaska mà cả hai nước Anh và Hoa Kỳ đều
cho là thuộc về ḿnh. Tới giữa thập niên
1800, Hoa Kỳ đă kiểm soát được các vùng
đất đai của Mexico và phần đất phía
nam của hạt Oregon khiến cho xứ sở Hoa
Kỳ trải dài từ bờ biển miền đông
tới bờ biển miền tây. Các
người khẩn hoang là loại người can đảm,
chịu cực nhọc, họ đi về phía tây để
t́m kiếm một đời sống tốt đẹp
hơn. Họ bị hấp dẫn bởi vùng đất
mở rộng của miền Tây, bởi đất
đai tốt làm nông trại, lại giàu tài nguyên
về khoáng sản và rừng cây. Do làm việc chăm
chỉ, người khẩn hoang miền Tây đă định
cư nơi miền hoang dă giống như người
miền Đông trước kia. Công
việc xây dựng tại miền Tây đă sinh ra các
thay đổi về chính trị. Miền Tây có thêm dân
số, họ được nhận vào Liên Bang nhưng
các người miền Đông giàu có vẫn kiểm
soát chính quyền và các chính sách kinh tế. Các người
miền Tây, gồm cả các nông dân, công nhân thành
thị và thợ thủ công, chẳng bao lâu đă
đoàn kết lại để làm thăng tiến
quyền lợi. Họ đă t́m thấy ở ông Andrew
Jackson là một nhà lănh đạo cứng cỏi và
họ đă giúp vào công tác bầu ông Jackson làm
Tổng Thống vào năm 1828. Sau đó ông Andrew Jackson
đă có các biện pháp làm giảm quyền lực
của các nhà giàu miền Đông, giúp đỡ người
dân thường. Ngoài ra, chính quyền Hoa Kỳ vào
thời đó đă có các cải tổ xă hội như
quyền lợi của phụ nữ, cải tiến giáo
dục và hủy bỏ chế độ nô lệ. Trong
thời gian “bành trướng” (the Expansion Era), Hoa
Kỳ và châu u đă duy tŕ được các liên
hệ ḥa b́nh, nhưng vào năm 1823, Tổng Thống
James Monroe đă phổ biến chủ thuyết Monroe
(the Monroe Doctrine), đây là lời xác định
cảnh cáo rằng các nước châu u không nên
can thiệp vào các quốc gia tự do của miền Tây
Bán Cầu 17/ Người
Mỹ Di Chuyển Về Phía Tây.
Vào
năm 1820, các người Mỹ tiên phong đă
thiết lập các nơi định cư vùng biên
giới xa tới tận gịng sông Mississippi. Qua thập
niên 1830, phong trào đi về phía tây đă đẩy
biên giới qua khỏi gịng sông kể trên, tới Iowa,
Missouri, Arkansas và miền đông của Texas. Miền
đất ở quá xa hơn, được gọi là
“Đồng Bằng rộng lớn” (the Great Plain), là
nơi có đất đai khô cằn, không có cây
cối và có vẻ là nơi nông trại xấu. Nhưng
các nhà thám hiểm, các nhà buôn và các người tiên
phong đă đi xa hơn về phía tây, nói rằng có
vùng đất nông trại tốt và rừng cây ở
bên kia rặng núi Rocky. Qua thập niên 1840, nhiều nhà
tiên phong đă thực hiện được các hành
tŕnh dài bên kia “Đồng Bằng rộng lớn”,
tới tận miền Viễn Tây (the Far West). Trong
số các người khẩn hoang, có người đi
về hướng tây để t́m sự tự do tôn
giáo, nổi tiếng nhất trong loại người này
là các người Mormons, định cư tại Utah vào
năm 1847. Ngoài ra các thị trần và thành phố
mới cũng mọc lên tại miền tây và tại các
trung tâm thị tứ này đă có các nhà thờ, ngân hàng,
văn pḥng luật sư, trường học, bệnh
viện, cửa hàng, khách sạn… Vào
giữa thập niên 1840, hàng ngàn người Mỹ
đă sinh sống tại hạt Oregon và các miền
đất mà nước Mexico cho là thuộc về
họ. Các người Mỹ tại miền này tin
rằng Hoa Kỳ nên kiểm soát toàn thể Bắc
Mỹ và v́ niềm tin này, họ đă đ̣i hỏi
phải kiểm soát tất cả đất đai
Oregon và phần lănh thổ của Mexico. Việc giành
miền Oregon của nước Anh đă được
dàn xếp dễ dàng bởi v́ nước Anh cho
rằng không đáng lưu giữ miền Oregon, v́
thế vào năm 1849, chính quyền Anh đă giao lại
cho Hoa Kỳ phần đất Oregon phía nam của vĩ
tuyến 49, ngoại trừ ḥn đảo Vancouver. Việc
tranh giành miền lănh thổ Mexican th́ phức tạp hơn.
Vào năm 1835, các người định cư Mỹ
tại Texas đă dàn dựng một cuộc nổi
loạn chống lại chính quyền Mexico. Qua năm
1936, các người định cư kể trên công
bố rằng Texas là một nước cộng ḥa
độc lập rồi 9 năm sau, Hoa Kỳ sát
nhập Texas và coi là một tiểu bang. Vào
năm 1846, Tổng Thống James K. Polk phái Tướng
Zachary Taylor đi chiếm miền đất gần Rio
Grande mà cả hai nước Hoa Kỳ và Mexico đều
coi là của ḿnh. Chiến tranh đă xẩy ra giữa
binh lính của Tướng Taylor và quân đội
Mexico. Ngày 13/5/1846, theo lời yêu cầu của Tổng
Thống Polk, Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên chiến
với Mexico và Hoa Kỳ dễ dàng đánh bại nước
Mexico yếu đuối. Hiệp Ước Guadalupe
Hidalgo kư ngày 2/2/1848 đă chấm dứt cuộc
chiến tranh và đă cho Hoa Kỳ miền đất
rộng lớn từ phía tây Texas tới bờ biển
Thái B́nh Dương và phía bắc tới Oregon. Qua
năm 1853, nhờ Vụ Mua Gadsden (the Gadsden Purchase), Hoa
Kỳ đă mua của Mexico dẻo đất phía nam
của Arizona và New Mexico, Hoa Kỳ như vậy có đầy
đủ mọi tiểu bang ngoại trừ tiểu
bang Alaska mua của nước Nga vào năm 1867 và sát
nhập tiểu bang Hawaii vào năm 1898. Việc bành trướng
lănh thổ miền Tây đă làm gia tăng niềm
tự hào quốc gia và là yếu tố chính cho
việc phát triển kinh tế nhưng cũng làm
dạn nứt giữa miền Bắc và miền Nam mà
sau này đưa tới cuộc Nội Chiến. Trong
khi các người tiền phong di chuyển về phía tây,
họ đă xâm chiếm đất đai của các người
da đỏ mà loại thổ dân này đă cư
ngụ trong hàng ngàn năm. Chiến tranh thường
xẩy ra giữa các người khẩn hoang và các người
da đỏ và chính quyền Hoa Kỳ thường
gửi quân lính tới đánh nhau với các người
da đỏ và các trận chiến này được
gọi là “Chiến Tranh Da Đỏ” (the Indian Wars). 18/ Bành Trướng
Và Nền Kinh Tế.
Sự
bành trướng đất đai tại Hoa Kỳ vào
miền trung tâm ph́ nhiêu của lục địa
Bắc Mỹ đă khiến cho Hoa Kỳ trở nên
một quốc gia đứng đầu về nông
nghiệp. Nhiều người khẩn hoang thấy
rằng họ có thể sản xuất nhiều hơn
lượng cần dùng. Sau đó họ tập trung vào
những sản phẩm có giá trị cao. Vào thời
đại đó, các nhà máy tại châu u và
tại miền đông của Hoa Kỳ đang cần
tới bông g̣n v́ thế các nông gia tại miền nam cũng
như tại miền Texas xa xăm đă trồng bông g̣n
để cung cấp cho các nhà máy kể trên. Nhiều
người định cư tại Kentucky và Tennessee
đă trồng thuốc lá. Các người miền trung
tây (midwesterners) sản xuất nhiều bắp (corn) và lúa
mạch và họ cũng nuôi gia súc. Nông gia tại
miền viễn tây trồng lúa mạch, trái cây và các
sản phẩm khác có giá trị. Các
kỹ thuật mới và các máy móc mới cũng làm tăng
sản lượng của các nông dân Mỹ. Vào năm
1793, Eli Whitney đă phát minh ra máy cán bông g̣n (cotton gin),
thứ máy này cho phép người trồng bông g̣n tách
ĺa sợi bông với hột bông, nhanh gấp 50 lần
người thợ làm bằng tay, nhờ vậy máy cán
bông g̣n đă được phổ biến rộng răi
vào các năm 1800. Năm 1834, Cyrus McCormick xin bằng sáng
chế ra máy gặt (reaper) nhờ máy này mà nông dân thu
hoạch các hạt lúa nhanh chóng hơn rất nhiều. Các
khoáng sản cũng được t́m thấy tại
miền Tây. Vào năm 1848, vàng đă được t́m
thấy tại Sutter’s Mill, California. Trước kia, các
sản phẩm do các thợ thủ công làm trong nhà hay
trong xưởng nhỏ của gia đ́nh, nhưng vào
đầu các năm 1800, các kỹ nghệ gia đă
lắp đặt các nhà máy với máy móc tối tân
để sản xuất ra hàng hóa nhanh chóng hơn.
Phần lớn các nhà máy kỹ nghệ được
đặt tại miền đông của Hoa Kỳ. Nền
kinh tế của Hoa Kỳ phát triển cũng là
nhờ các phương tiện giao thông được
mở rộng và tu bổ, chẳng hạn như hệ
thống đường lộ quốc gia (the National
Road) tại miền đông và hệ thống “Oregon and
Santa Fe trails” của miền Tây, nhờ vậy sự
du lịch và chuyên chở hàng hóa bằng đường
bộ trở nên dễ dàng hơn trước. Vào
năm 1807, nhà phát minh Robert Fulton đă thành công về
con tầu thủy Clermont. Tầu thủy sớm trở
thành một phương tiện chuyển vận hàng hóa
trên sông và trên biển. Vào đầu các năm 1800,
nhiều con sông đào đă được thực
hiện để nối các đường sông ng̣i,
quan trọng nhất là con kênh đào Erie (the Erie Canal) hoàn
thành vào năm 1825, mở ra thủy lộ nối gịng
sông Hudson trong tiểu bang New York với Ngũ Hồ (the
Great Lakes) của miền Trung Tây (the Midwest). Tầu
thuyền đă dùng các thủy lộ để chuyên
chở các hàng hóa kỹ nghệ từ miền đông
sang miền tây và chở nông phẩm và nguyên liệu
từ miền tây về miền đông. Trên
đất liền, các xe lửa dùng hơi nước
cũng là một phương tiện chuyên chở quan
trọng. Vào các năm 1820, các đường xe
lửa tại Hoa Kỳ c̣n ở trong ṿng thí nghiệm
nhưng qua năm 1850, đă có 9,000 dậm (miles) (14,500
km) đường xe lửa hoạt động. Vào
năm 1837, Samuel F.B. Morse thành công về điện báo
(telegraph) và phát minh này đă giúp cho ngành thương
mại có được một phương tiện thông
tin nhanh nhất vào thời kỳ đó. Ngoài ra hệ
thống bưu điện cũng được phát
triển để phụ giúp vào công việc thông tin. Sự
phát triển về ngành ấn loát cũng giúp ích cho
đại chúng và các nghệ sĩ. Nhờ phưong pháp
ấn loát mới gọi là phép in “li-tô” (lithography),
các nghệ sĩ có thể in tác phẩm ra nhiều
bản với giá rẻ hơn. Sau năm 1820 các
miền hoang vu đă được khai phá, nhiều người
dần dần ca ngợi phong cảnh và đời
sống thiên nhiên tại các miền đất biên
giới hay tại các miền đồng cỏ bao la. Dân
chúng Hoa Kỳ được đọc các tác phẩm
văn chương của James Fenimore Cooper, trong đó tác
giả đă mô tả các người da đỏ và các
người khẩn hoang với các hành động cao
thượng và tấm ḷng trong sáng. Ralph Waldo Emerson và các
nhà triết học Mỹ đă khen ngợi thiên nhiên là
cội nguồn của vẻ đẹp và chân lư dành
cho mọi người, kể cả người giàu
lẫn kẻ nghèo. Tại
thành thị, người dân dồn tới các rạp hát
và các nơi giải trí, các đoàn tŕnh diễn văn
nghệ cũng đi tới nhiều nơi để
phục vụ khán giả của nhiều thị
trấn và thành phố. 19/ Nền Chính
Trị Thời Tổng Thống Andrew Jackson.
Trong
cuộc bầu cử năm 1824, có 4 ứng viên ra tranh
cử kể cả hai ông John Quincy Adams và Andrew Jackson. Ông
Jackson được nhiều phiếu cử trị
đoàn nhất (electoral votes) nhưng không được
đa số phiếu v́ vậy Hạ Viện phải
bầu chọn Tổng Thống mới, Hạ Viện
đă chọn ông Adams. Do cay đắng, ông Jackson và các
người theo ông đă tách ra khỏi Đảng Dân
Chủ - Cộng Ḥa (the Democratic-Republic Party) mà lập nên
một đảng phái mới gọi là Đảng Dân
Chủ (the Democratic Party). Ông
Adams và các vị Tổng Thống thời trước
đều từ các gia đ́nh giàu có của miền
Đông trong khi ông Jackson sinh ra từ một gia đ́nh
nghèo trong một căn nhà gỗ. Ông Jackson nổi danh là
một chiến sĩ chống người da đỏ
và là một vị anh hùng trong trân chiến tranh 1812. Năm
1828, ông Jackson lại ra tranh cử Tổng Thống. Ông
kêu gọi các nông dân và các người khẩn hoang
miền Tây, các công nhân thành thị và các thợ
thủ công hăy hủng hộ ông. Ông hứa hẹn
chấm dứt sự độc quyền của người
giàu có và bảo vệ quyền lợi của “các người
tầm thường” (the common man). Chính sách của ông
Jackson là quyền lực chính trị b́nh đẳng cho
mọi người (his policy of equal political power for all)
đă trở thành “nền Dân Chủ Jackson” (the
Jacksonian Democracy). Do quá tŕnh và các chính sách, ông Jackson
được sự ủng hộ của dân chúng
miền Tây và dân chúng của các thành phố đang phát
triển. Ông Andrew Jackson đă đắc cử vào năm
1828 và 1832. Khi
ông Andrew Jackson trở nên Tổng Thống, nhiều người
nhà giàu miền đông đă nắm giữ trong
suốt đời nhiều chức vụ của chính
quyền liên bang. Ông Jackson bèn giải nhiệm những
người này, thay bằng các người ủng
hộ ông. Vài sử gia cho rằng hành động này là
khởi đầu một hệ thống hư hỏng
(the spoils system) trong chính quyền liên bang. Tại
Hoa Kỳ, các nhiệm vụ chính của ngân hàng là
điều hành nguồn cung cấp tiền tệ
của quốc gia. Ông Jackson lại tin rằng ngân hàng
hoạt động độc quyền để ưu
đăi các nhà giàu, v́ thế ông muốn lập ra
một ngân hàng trung ương thứ hai nhưng không
thành. Vào
năm 1828, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua một đạo
luật đánh thuế cao vào các hàng hóa nhập
cảng vào Hoa Kỳ. Các tiểu bang miền Nam tin
rằng đạo luật này ưu đăi các hàng hóa
kỹ nghệ của miền Tân Anh Cát Lợi (New
England). Phát biểu cho tiểu bang South Carolina, ông Calhoun
khi đó là Phó Tổng Thống, tuyên bố rằng
mọi tiểu bang có thể vô hiệu hóa một đạo
luật của Liên Bang nếu đạo luật đó
không hợp hiến và tiểu bang South Carolina dọa rút
ra khỏi Liên Bang nếu chính quyền Liên Bang c̣n thu
thuế. Hành động này tạo nên sự khủng
hoảng về Hiến Pháp. Năm 1833, Tổng Thống
Jackson khuyên Quốc Hội thông qua đạo luật
“Sức Mạnh” (the Force Bill) cho phép Tổng Thống
dùng quân lực để thu thuế, nhưng Quốc
Hội Hoa Kỳ vào thời đó đă lại hạ
thấp mức thuế tới điểm làm vừa ḷng
tiểu bang South Carolina. Ảnh
hưởng của ông Andrew Jackson c̣n tiếp tục sau
khi ông ta đă rời khỏi chức vụ. Khi đó
ông Jackson đă chỉ định ông Martin Van Buren là
ứng cử viên của đảng Dân Chủ trong
cuộc bầu cử năm 1836. Bốn năm về trước,
các người chống đối ông Jackson đă thành
lập ra đảng Whig (the Whig Party) và đảng phái
này đă ủng hộ ông William Henry Harrison để
đối đầu với ông Van Buren. Ông Harrison cũng
là một anh hùng trong chiến tranh như ông Jackson.
Tới khi bầu cử, các cử tri vẫn c̣n trung thành
với ông Jackson, đă bầu cho ông Van Buren. Qua
năm 1837, một cuộc suy thoái đă làm cho nền
kinh tế của Hoa Kỳ bị thương tổn
trong một thời gian ngắn nhưng rồi sự
thịnh vượng đă trở lại. Tới
cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1840, hai ông
Van Buren và Harrison lại ra tranh chức với nhau. Đảng
Whig đă đề cao ông Harrison là một anh hùng trong
chiến tranh, là người đă từng sinh sống
trong căn nhà gỗ và là biểu tượng của
miền biên giới, nên cuối cùng ông William Henry
Harrison đă thắng cử. 20/ Phong Trào Băi
Bỏ Chế Độ Nô Lệ.
Vào
đầu các năm 1800, các tiểu bang thuộc
miền Bắc Hoa Kỳ đă ra các đạo luật
tiêu hủy chế độ nô lệ (slavery) nhưng
hệ thống đồn điền của miền Nam
và nền kinh tế của các tiểu bang miền Nam
đă lệ thuộc vào các người nô lệ như
là một nguồn cung cấp lao động rẻ
tiền. Như vậy vấn đề ngăn cấm
hay cho phép nô lệ đă trở nên một vấn
đề chính trị và xă hội từ đầu các
năm 1800. Qua các năm tháng, người ta đă t́m cách
cân bằng số tiểu bang tự do (free states), nơi
này chế độ nô lệ bị cấm đoán, và
số tiểu bang nô lệ (slave states), nơi cho phép dùng
người nô lệ, cả hai phe sẽ có cùng số
đại biểu tại Thượng Viện Hoa
Kỳ. Vào năm 1819, chính quyền liên bang đă
thực hiện được sự cân bằng
giữa hai loại tiểu bang tự do và nô lệ,
mỗi loại có 11 tiểu bang. Vào
năm 1818, khi lănh thổ Missouri (the Territory of Missouri)
nạp đơn xin gia nhập Liên Bang Hoa Kỳ, điều
nan giải đă xẩy ra bởi v́ người ta không
biết sẽ chấp nhận Missouri là tiểu bang
tự do hay nô lệ? Qua năm 1820, các nhà lănh đạo
đă ban ra đạo luật Ḥa Giải Missouri (the
Missouri Compromise) nhờ đó sự cân bằng đă
được duy tŕ: tiểu bang Massachusetts đồng
ư cắt phần đất phía bắc thành tiểu
bang Maine và Maine gia nhập Liên Bang như là tiểu bang
tự do. Năm 1821, Missouri gia nhập với danh nghĩa
tiểu bang nô lệ, như vậy có 12 tiểu bang
tự do và 12 tiểu bang nô lệ. Đạo
luật Ḥa Giải Missouri c̣n dự trù một điều
quan trọng khác: đạo luật này xác định
rằng chế độ nô lệ sẽ bị cấm
đoán măi măi (forever prohibited) tại mọi phần
đất có được từ Vụ Mua Lănh
Thổ Louisiana (the Louisiana Purchase), các phần đất
đó ở phía bắc của biên giới phía nam
của tiểu bang Missouri, ngoại trừ chính tiểu
bang Missouri. Đạo
luật Ḥa Giải Missouri đă làm hài ḷng nhiều người
Mỹ bởi v́ đây là câu trả lời cho chế
độ nô lệ, nhưng c̣n một số người
khác nữa kêu gọi hủy bỏ hoàn toàn chế
độ nô lệ. Vào năm 1821, ông Benjamin Lundy,
một người Quaker, vận động cho công
việc tiêu hủy dần dần chế độ nô
lệ trong tờ báo có tên là The Genius of Universal
Emancipation, trong khi đó tại miền Tân Anh Cát
Lợi, ông William Lloyd Garrison là một nhà báo, đă
đ̣i hỏi chấm dứt ngay lập tức chế
độ kể trên. Từ phong trào giải phóng nô
lệ này, đă có vài nhân vật da đen danh
tiếng như các ông Frederick Douglass và Sojourner Truth. Tại
các tiểu bang miền Nam, người ta luôn luôn lư
luận rằng chế độ nô lệ th́ cần
thiết cho nền kinh tế đồn điền. Sau
năm 1830, một số người miền Nam bắt
đầu tin rằng các người da đen th́
thấp hèn hơn người da trắng và rồi
sự ủng hộ công việc duy tŕ nô lệ đă
gia tăng tại miền Nam. Sau
khi trận chiến tranh Mễ Tây Cơ (the Mexican War)
chấm dứt vào năm 1848, nhiều vùng đất
mới sẽ trở thành các tiểu bang mới và như
thế, sẽ là các tiểu bang tự do hay nô lệ? Cũng
có vài người đề nghị chủ thuyết
“chủ quyền phổ thông” (the doctrine of popular
sovereignty) theo đó người dân trong tiểu bang
sẽ quyết định cho phép hay cấm đoán nô
lệ. Vào
năm 1849, tiểu bang California nạp đơn xin gia
nhập Liên Bang. Sự gia nhập này lại gây nên
cuộc tranh luận rằng California sẽ được
nhận vô là tiểu bang tự do hay nô lệ? Các
vị Dân Biểu Quốc Hội trở nên những phát
ngôn viên về chế độ nô lệ. Ông Calhoun, Thượng
Nghị Sĩ của tiểu bang South Carolina, diễn
tả quan niệm của những người tin tưởng
rằng họ có quyền sở hữu nô lệ. Thượng
Nghị Sĩ Seward là một trong những người
chống đối mạnh mẽ chế độ nô
lệ, đă nói rằng luật đạo đức
(moral law) c̣n cao cả hơn Hiến Pháp Hoa Kỳ, đ̣i
hỏi rằng chính quyền Hoa Kỳ phải hủy
bỏ chế độ nô lệ. Thượng Nghị
Sĩ Clay của tiểu bang Kentucky có lập trường
dung ḥa, đă thúc dục miền Bắc và miền Nam
nên ḥa giải với nhau để tránh sự chấm
dứt Liên Bang. Thượng
Nghị Sĩ Clay và một số vị khác đă thành
công trong việc chấp thuận đạo luật Ḥa
Giải năm 1850 (the Compromise of 1850) theo đó California
được chấp nhận vào Liên Bang như là
một tiểu bang tự do và sự hủy bỏ công
việc buôn bán nô lệ tại Washington D.C. Và để
dàn ḥa, Quốc Hội Hoa Kỳ đồng ư rằng các
lănh thổ New Mexico và Utah khi trở thành tiểu bang th́
cư dân sẽ quyết định cho phép nô lệ hay
không. Phương pháp này cũng được áp
dụng cho 2 tiểu bang sau này là Kansas và Nebraska,
bằng đạo luật Kansas-Nebraska Act. Không
vừa ḷng với đạo luật Kansas-Nebraska,
một số người chống nô lệ đă
lập ra Đảng Cộng Ḥa (the Republican Party) vào năm
1854. Quốc gia Hoa Kỳ vào thời gian này đang
ở trong t́nh trạng xáo trộn. Sau năm 1854, các người
miền Nam coi họ thuộc về một nhóm quốc
gia khác biệt (a separate national group). Tại miền
Bắc, các người chống nô lệ xúc tiến
việc cổ động cho phong trào của họ.
Cuốn tiểu thuyết “Căn nhà gỗ của Chú
Tom” (Uncle Tom’s Cabin, 1851-1852) đă trở thành cuốn
truyện được nhiều người đọc
nhất tại Hoa Kỳ. Cuốn truyện này mô tả
các nỗi ghê sợ đối với chế độ
nô lệ, nên đă gây ra cơn sốt trong công
việc bài trừ nô lệ. Tại tiểu bang Kansas vào
năm 1856, đă xẩy ra các cuộc đánh nhau
giữa các nhóm chống nô lệ và ủng hộ nô
lệ. 21/ Nội
Chiến Và Tái Thiết.
Cuộc
bầu cử tổng thống vào năm 1860 đă
phản ánh sự chia rẽ quốc gia. Đảng Dân
Chủ bị tách ra làm hai cánh miền Bắc và
miền Nam. Các người bảo thủ của đảng
Whig và của đảng Know-Nothings (đảng này
đổ lỗi sự chia rẽ là do các người
di dân và người Cơ Đốc La Mă) lập ra
Đảng Liên Hiệp Hiến Pháp (the Constitution Union
Party), chỉ có đảng Cộng Ḥa (the Republican Party)
là c̣n đoàn kết nội bộ. Đảng Cộng
Ḥa đă chỉ định ông Abraham Lincoln, một
luật sư của tiểu bang Illinois, ra tranh cử
chức vụ Tổng Thống và ông Lincoln đă đắc
cử vào ngày 6 tháng 11 năm 1860. Ông
Abraham Lincoln nổi tiếng là một nhân vật
chống đối chế độ nô lệ v́
thế việc bầu ông Lincoln đă không được
miền Nam chấp nhận, bởi v́ họ e sợ
rằng ông Lincoln sẽ giới hạn hay chấm
dứt chế độ nô lệ. Báo động trước
viễn cảnh này, tiểu bang South Carolina ly khai
khỏi Liên Bang Hoa Kỳ vào ngày 20/12/1860, trước
khi ông Lincoln nhậm chức Tổng Thống. Sau đó
các tiểu bang Alabama, Florida, Georgia, Louisiana và Mississippi ly
khai vào tháng 1 năm 1861. Sáu tiểu bang ly khai tạo nên
các Tiểu Bang Liên Minh Hoa Kỳ vào tháng 2. Tới
cuối năm 1861, tới lượt các tiểu bang
Arkansas, North Carolina, Tennessee, Texas và Virginia đều ly
khai và gia nhập Liên Minh miền Nam. Tổng
Thống Abraham Lincoln nhậm chức vào ngày 4 tháng 3 năm
1861. Ông nhấn mạnh vào việc duy tŕ Liên Bang và hy
vọng vào sự ḥa giải nhưng một tháng sau
xẩy ra chiến tranh giữa hai miền Bắc và
miền Nam. Cuộc
Nội Chiến bắt đầu vào ngày 12/4/1861 khi quân
đội Miền Nam bắn vào Pháo Đài Sumter (Fort
Sumter), một vị trí quân sự trong hải cảng
Charleston. Sau đó, cả hai phe chuẩn bị chiến
tranh. Phe miền Bắc ưu thế hơn về dân
số, tài chánh và sức mạnh kỹ nghệ nhưng
phe miền Nam cương quyết bảo vệ niềm
tin của họ. Sau 4 năm chinh chiến, phe miền
Bắc chịu thiệt hại 360,000 binh lính trong khi
số tử vong của phe miền Nam là 260,000 quân nhân.
Thiệt hại về tài sản rất lớn lao,
đặc biệt tại miền Nam. Rất nhiều thành
phố, thị trấn, đồn điền, nhà máy và
đường xe lửa… của miền Nam bị tàn
phá khi quân đội miền Bắc tràn tới đánh
chiếm. Ngày
9 tháng 4 năm 1865, Tướng Robert E. Lee, Tư Lệnh
đạo quân Liên Minh, đă đầu hàng trước
Tư Lệnh của đạo quân Liên Bang là Tướng
Ulysses S. Grant tại Ṭa Án Appomattox của tiểu bang
Virginia (at Appomattox Court House in Virginia). Đội quân
cuối cùng của phe miền Nam đầu hàng vào ngày
26/5/1865. Cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ đă
gây nên sự chia rẽ và cảm giác cay đắng
giữa các người dân của cả hai miền
Bắc và Nam. Khi
bắt đầu cuộc Nội Chiến, mục tiêu
chính của Tổng Thống Lincoln là bảo tồn Liên
Bang nhưng tới ngày 01 tháng 1 năm 1863, Tổng
Thống Lincoln công bố bản Tuyên Ngôn Giải Phóng
(the Emancipation Proclamation), hứa hẹn tự do cho
mọi người nô lệ hiện c̣n đang sinh
sống trong các vùng đất của Liên Minh Miền
Nam. Khi
cuộc Nội Chiến chấm dứt, miền Nam
ở trong thời kỳ “Tái Kiến Thiết”
(Reconstruction). Vào lúc này, các người miền Bắc
chia làm 2 phe: phe ôn ḥa (the moderates) mong muốn tránh
việc trừng trị nặng nề các kẻ nổi
loạn, c̣n phe “cấp tiến” (the radicals) tin tưởng
rằng phe miền Nam phải bị trừng trị.
Tổng Thống Lincoln có lẽ đă t́m ra cách dung ḥa
nhưng ông đă bị tên John Wilkes ám sát vào ngày
14/4/1865 rồi qua đời vào ngày hôm sau, chưa
được một tuần lễ sau khi Tướng
Lee đầu hàng. Phó Tổng Thống Andrew Johnson
trở thành Tổng Thống. Tổng
Thống Andrew Johnson cố gắng thực hiện các chính
sách của cố Tổng Thống Lincoln nhưng ông
đă không thắng được sự chống đối
của phe cấp tiến. Phe này gồm nhiều vị
dân biểu thế lực nhất trong đảng
Cộng Ḥa, họ đă kiểm soát đủ số
phiếu bầu để thông qua chính sách Tái Kiến
Thiết, vượt qua quyền phủ quyết của
Tổng Thống và vận động Hạ Viện “đàn
hặc” (impeach = truất phế) Tổng Thống
Johnson vào năm 1868, nhưng Thượng Viện Hoa
Kỳ đă bỏ phiếu chống lại, với
kết quả sai biệt một phiếu. Chương
tŕnh Tái Kiến Thiết do Quốc Hội thảo ra,
đă bao gồm nhiều đạo luật bảo
vệ người dân da đen. Tu Chính Án thứ 13
của Bản Hiến Pháp (the 13th Amendment to the Constitution
- 1865) đặt ra ngoài ṿng pháp luật chế độ
nô lệ trong khắp nước Hoa Kỳ. Tu Chính Án
thứ 14 (the 14th Amendment – 1868) xác nhận quyền công
dân của các người da đen và Tu Chính Án thứ
15 (the 15th Amendment – 1870) coi là bất hợp pháp khi
từ chối quyền bỏ phiếu căn cứ vào
chủng tộc (race). Từ
năm 1866 tới năm 1870, tất cả các tiểu
bang Liên Minh đều được chấp nhận
trở lại Liên Bang Hoa Kỳ và công việc tái
thiết chấm dứt vào năm 1877, khi các đạo
quân liên bang rút khỏi miền Nan. 22/ Kỹ
Nghệ Hóa Và Các Tiến Bộ.
Trước
cuộc Nội Chiến, nền kỹ nghệ của
Hoa Kỳ c̣n nhỏ, lao động chân tay c̣n phổ
biến đă giới hạn khả năng sản
xuất của kỹ nghệ trong khi đó các thị
trường c̣n nhỏ và thiếu vốn đầu tư
để khuếch trương. Sau
cuộc Nội Chiến, nền kỹ nghệ của
Hoa Kỳ đă thay đổi một cách rất
lớn lao. Các máy móc đă thay thế lao động chân
tay, làm gia tăng khả năng sản xuất. Hệ
thống đường xe lửa mới đă phân
phối hàng hóa đi thật xa và rộng lớn. Các
nhà phát minh đă t́m ra nhiều sản phẩm mới
mà công chúng cần đến và kỹ nghệ đă làm
ra sản phẩm với số lượng rất
nhiều. Các nhà đầu tư và các chủ ngân hàng
đă cung cấp số vốn khổng lồ để
các nhà lănh đạo thương mại bành trướng
hoạt động. Nhiều kỹ nghệ mới
mọc lên, như mỏ than, dầu hỏa, đường
xe lửa và các sản phẩm mới c̣n có thép, máy móc
kỹ nghệ, xe hơi và quần áo. Sự phát
triển phần lớn được tập trung
ở miền Bắc. Sự
phát triển kỹ nghệ đă ảnh hưởng
tới đời sống của người dân
Mỹ. Thành phố là trung tâm của các hoạt động
thương mại nên người dân đổ
dồn về các thành phố. Nhiều người
đă kiếm được các tài sản khổng
lồ trong khi các kẻ khác sinh sống trong cảnh nghèo
khó, sự cách biệt này đă khiến cho sinh ra các
phong trào giúp đỡ kẻ nghèo và kiểm soát
tầm cỡ và quyền lực của các công ty
lớn. Do
xử dụng máy móc, các công nhân có thể sản
xuất ra hàng hóa 10 lần nhanh hơn cách làm bằng
tay, rồi các hăng sản xuất đă mướn hàng
trăm và có khi hàng ngàn công nhân, mỗi công nhân
lại được chỉ định làm một
số công việc riêng biệt, sự tổ chức này
được gọi là phân công lao động (the
division of labor), cũng làm gia tăng tốc độ
sản xuất. Nhờ tốc độ sản xuất
tăng lên, nhiều mặt hàng được làm ra nên
các nơi bán hàng đă hạ giá bán, việc làm này
khiến cho số lượng hàng hóa tăng cao. Các
nhà phát minh sáng tạo ra các sản phẩm mới, các
nhà thương mại bán ra các sản phẩm mới
này. Các sản phẩm này gồm: máy đánh chữ
(1867), dây kẽm gai (1874), điện thoại 91876), máy
hát (1877), đèn điện (1879) và xe hơi chạy săng
(1885). Trong số các sản phẩm kể trên, xe hơi
tạo nên ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
tới nền kinh tế quốc gia. Số xe hơi mà
người Mỹ làm chủ tăng từ 8,000
chiếc vào năm 1900 lên tới 3,500,000 chiếc vào năm
1916. Miền
đất Hoa Kỳ rất giàu về các tài nguyên thiên
nhiên. Nguồn nước dồi dào đă làm chạy
các nhà máy kỹ nghệ. Ngoài ra c̣n có rừng cho
gỗ làm nhà và các sản phẩm khác, dưới ḷng
đất là mỏ than, mỏ sắt, mỏ đồng,
mỏ bạc và dầu hỏa. Andrew Carnegie và vài nhà
kỹ nghệ khác đă làm ra thép từ các khoáng
sản này. Thép được dùng để làm máy móc,
đường xe lửa, cầu cống, xe hơi và xây
dựng nhà chọc trời. Dầu hỏa trở nên
đặc biệt quan trọng khi xe hơi được
phổ biến từ năm 1900. Từ
năm 1870 tới năm 1916, hơn 25 triệu người
di dân đă nhập cảnh vào Hoa Kỳ khiến cho dân
số từ 40 triệu tăng lên tới gần 100
triệu người. Sự phát triển dân số
đă làm gia tăng số người tiêu thụ và
mở rộng các thị trường đồng
thời cung cấp thêm nhân công cho các kỹ nghệ
mới. Các phương pháp bán hàng mới cũng làm
phát triển nền kinh tế. Các cửa hàng bách hóa
khổng lồ đă mở cửa tại các thành
phố đang lên, gồm có Marshall Field tại Chicago,
R.H. Macy tại New York và John Wanamaker tại Philadelphia… Cũng
có các hăng buôn phục vụ các khách hàng ở xa các
cửa hiệu như Montgomery Ward và Richard Sears… Vào
năm 1850, Hoa Kỳ chỉ có 9,000 dậm (14.500 km)
đường xe lửa nhưng tới năm 1900,
chiều dài đường xe lửa hoạt động
là 200,000 dậm (320,000 km) và hệ thống xe lửa xuyên
lục địa của Hoa Kỳ là thứ đầu
tiên trên thế giới. Các đường sắt
mới đă thúc đẩy sự tăng trưởng
kinh tế với các chủ nhân rất giàu có như các
ông Cornelius Vanderbilt và Jay Gould. Năm
1876, Alexander Graham Bell đă phát minh ra điện
thoại, sự phát minh này cùng với điện tín
(telegraph) khiến cho công việc thông tin được
nhanh chóng và là phương tiện rất cần thiêt
của các ngành thương mại lớn. Đồng
thời, các ngân hàng mới cũng mọc ra tại
khắp nơi. Vài nhà ngân hàng như ông J.P. Morgan đă
ở các vị trí chủ yếu của nền kinh
tế Hoa Kỳ bởi v́ khả năng cung cấp các
món tiền tư bản khổng lồ. Vào
năm 1870, chỉ có khoảng 25% người Mỹ sinh
sống trong các vùng thành thị nhưng tới năm
1916, con số này là 50%. Tại các thành phố, một
phần rất nhỏ các người giàu có sinh
sống trong xa hoa, quá đầy đủ, bên dưới
là hạng người trung lưu cũng đủ
tiện nghi nhưng ở tận cùng trong xă hội là
những người nghèo khó cùng cực. Nhóm các
triệu phú có tài sản từ $100 triệu Mỹ kin
trở lên gồm những nhân vật như các ông
Andrew Carnegie, Marshall Field, J.P.Morgan, John D. Rockefeller và
Cornelius Vanderbilt. Nhóm người nghèo khó gồm các công
nhân hoạt động trong các nhà máy, cơ xưởng,
hầm mỏ… làm việc tối thiểu 60 giờ
một tuần lễ với lương trung b́nh
một giờ là 20 xu (cents) và không có thêm phụ
cấp. Sự
phát triển về kinh tế cũng khiến cho các nhà
lănh đạo chính trị và chính quyền dành ưu
tiên cho ngành thương mại mà không làm giảm
bớt khoảng cách giữa người giàu và người
nghèo. Ngoài ra trong phạm vi chính quyền c̣n lan tràn
nạn tham nhũng, cả ở cấp bậc tiểu
bang lẫn địa phương, chẳng hạn như
vào thời kỳ của Tổng Thống Ulysses S. Grant,
các nhân viên của chính quyền này đă lợi
dụng chức vụ vào việc thu lợi cá nhân. Từ
năm 1890 tới năm 1917, nhiều người Mỹ
đă hô hào các công cuộc giảm bớt nạn nghèo
khó, cải thiện đời sống của người
nghèo và kiểm soát các kỹ nghệ và thương
mại lớn. Các cố gắng cải tổ đầu
tiên bao gồm việc tổ chức các công nhân và nông
dân. Vào năm 1886, các công nhân có tay nghề lập ra
Liên Đoàn Lao Động Mỹ (the American Federation of
Labor = AFL) (bây giờ là the American Federation of Labor –
Congress of Industrial Organizations = AFL – CIO). Đứng đầu
bởi ông Samuel Gompers, liên đoàn này đă mặc
cả với các chủ nhân để có các tiền lương
cao hơn và các điều kiện làm việc tốt hơn
cho các công nhân. Các nhà nông th́ lập ra “the National
Grange” vào năm 1867 và “Farmers’ Alliances” vào các
thập niên 1870 và 1880. Sau
cuộc Nội Chiến, các phụ nữ Hoa Kỳ cũng
tranh đấu đ̣i quyền bầu cử. Vào năm
1869, hai bà Susan B. Anthony và Elizabeth Cady Stanton đă thành
lập Hội Quốc Gia Phụ Nữ Bầu Cử
(the National Woman Suffrage Association). Lănh địa Wyoming
đă cho phụ nữ quyền bầu cử vào năm
này. Sau
năm 1900, 3 vị Tổng Thống đầu tiên đă
ủng hộ các đạo luật cải tổ (reform
laws), đó là các ông Theodore Roosevelt, William Howard Taft và
Woodrow Wilson. Phạm
Văn Tuấn |
||||