Lịch
Sử Phát Triển Của Canada Phạm Văn Tuấn |
||||||||||
1/ Thổ DÂn Canada.
Nhóm
người đầu tiên đặt chân lên đất
Canada là sắc dân du mục từ miền Siberia,
băng qua eo biển Bering, tới các miền hoang vu
Alaska và Yukon vào khoảng 20 tới 40 ngàn năm về
trước. Nhóm thổ dân này có tên là Inuit
đă sinh sống bằng nghề săn bắn, câu cá
và sống trong các cḥi tṛn làm bằng nước đá
gọi là igloo.
Thổ
dân Inuit đang xây cḥi nước đá igloo để
ở Tại
miền bờ biển phía tây có các nhóm dân da đó
khác nhau: Kwakiutl, Bella Coola, Nootka,
Haidas và Tlingit. Họ
sống nhờ hải sản, biết dùng cây rừng làm
nhà, dùng lông thú làm quần áo rồi về sau làm phát
triển ngành buôn lông thú. Thổ dân Nootka nổi
tiếng về nghề săn cá voi và làm ra các sản
phẩm từ loại cá đó. Thổ dân Haidas đă
chế tạo ra được các con suồng
đục từ khối gỗ, có thứ dài tới 20
mét.
Các thổ
dân da đỏ ở Canada Các
thổ dân thuộc miền đồng bằng như các
bộ lạc Blackfoot,
Sarcee và Assiniboine chuyên săn
thú vật, đặc biệt là loại trâu rừng
(buffalo). Các bộ lạc Huron của
miền rừng phía đông (Eastern Woodlands) chuyên về
trồng bắp, đậu... và đặc biệt là
trồng hoa. Họ biết tận dụng môi trường
và yêu ḥa b́nh. Trái
với nhóm dân kể trên là thổ dân Iroquois hiếu
chiến. Họ tin tưởng các thần linh thuộc
về 2 loại thiện và ác và trong thế gian luôn luôn
xẩy ra sự xung đột giữa hai đối
nghịch kể trên. Người Iroquois đă tổ
chức được một loại liên hiệp các
bộ lạc vào lúc người châu Âu bắt đầu
biết tới miền Bắc Mỹ. 2/ Các Người Châu
Âu Đầu Tiên.
Những
người châu Âu đầu tiên đặt chân lên
đất Canada có lẽ là người Viking.
Họ từ Na Uy (Norway) tới xứ Iceland rồi định
cư tại miền Greenland. Một nhà hàng hải
của sắc dân này tên là Bjarne
Herjolfsen đă
nh́n thấy Bắc Mỹ và đă kể về một
miền đất chưa được biết này. Vào
khoảng năm 1,000, con trai của “Eric the Red” tên là Lief
đă khám phá ra đảo Baffin, Labrador và có lẽ
cả Newfoundland. Sau đó c̣n có người anh em
của Lief là Thorvald cũng đă tới Bắc Mỹ
và chuyện c̣n kể rằng người con gái không
chính thức của “Eric the Red” cũng đă từng
bị tấn công bởi thổ dân địa phương
mà có thể là giống người Algonquins. Sang thế kỷ 15, giấc mộng của các vua chúa và thương nhân châu Âu là t́m ra một con đường băng qua Đại Tây Dương để tới châu Á là nơi có nhiều hương liệu, vàng ngọc và tơ lụa. Vào thời đó, người Ả Rập và người Ư đă kiểm soát các con đường từ châu Âu dẫn tới các chợ của miền Trung Đông trong khi nước Pháp, Tây Ban Nha và sau này là nước Anh đang thèm muốn những sản phẩm hiếm có của Đông Phương. Đại Tây Dương thời đó được gọi là “Biển Đen Tối” (the Sea of Darkness), đă là một trở ngại lớn đối với các nhà mạo hiểm nhưng sau nhờ kỹ thuật đóng tầu biển được cải tiến, các nhà hàng hải thấy cơ hội vượt biển về phía tây đă đến.
Nhà
thám hiểm đầu tiên khám phá ra Canada là John
Cabot.
Đây là một nhà hàng hải gốc Ư, giàu ḷng
mạo hiểm. Năm 1496, Cabot đă thuyết
phục được Vua
Henry VII nước Anh,
trợ cấp cho ông ta để đi t́m các vùng đất
mới cùng với vàng ngọc rồi nhận về cho
nước Anh. Ngày
thứ Ba, 02 tháng 5 năm 1497, Cabot đă lên con tầu
Matthew cùng với 18 thủy thủ và đi về hướng
tây. Sau 52 ngày lênh đênh trên biển cả, Cabot đă
nh́n thấy đảo Cap Breton và đă lên bờ vào
ngày 24 tháng 6, cắm lá cờ Anh và nhận miền
đất này là lănh thổ của Vua Henry VII. Cabot
đă tưởng đây là miền đông bắc
của châu Á, đă không t́m thấy vàng ngọc mà
chỉ có nhiều cá và gỗ rừng. Khi
Cabot trở về nước Anh và báo cáo lại cho Vua
Henry VII, nhà Vua đă thất vọng v́ không có
được vàng ngọc như mong đợi nên
đă khuyên Cabot thực hiện một chuyến đi
nữa vào năm 1498. Vào lần đi này, Cabot
đă tới các đảo Baffin và Newfoundland. Sau đó
Cabot trở về nước Anh và chết ở
tuổi 48. Nhiều nhà thám hiểm khác của châu Âu cũng
theo chân Cabot, dương buồm qua châu Mỹ nhưng
đă không thành công cho tới năm
1534,
Jacques
Cartier người Pháp,
đă tới được Bắc Mỹ theo lệnh
của Vua Francis I của nước Pháp. Cartier
đă đi sâu vô trong đất liền và đă t́m
ra được Vịnh St. Lawrence rồi đi ngược
theo gịng sông này, tới các làng của người da
đỏ Iroquois, tại các địa điểm mà ngày
nay là Québec
và Montréal.
Người da đỏ đă tỏ ra thiện cảm
nên Cartier đă dẫn 2 thổ dân đó về tŕnh
diện Vua Pháp. Giống
như Vua của nước Anh, Vua Francis I đă không
vui v́ không thu về được vàng ngọc nhưng
Cartier đă an ủi nhà vua rằng ông ta đă dựng
nên một cây cột, đánh dấu miền đất
này là của nước Pháp và được đặt
tên là xứ Pháp Mới (New France). Việc
t́m kiếm châu Á qua ngả đường phía tây c̣n
do Martin
Frobischer
ra đi theo lệnh của Nữ Hoàng Elizabeth I vào
khoảng 50 năm sau Jacques Cartier. Frobischer đă không
mang lại kết quả. Qua đầu thế kỷ
17, Henry Hudson
người Anh, cũng ra đi t́m đường để
tới Trung Hoa nhưng rồi vào năm 1609, con tầu
biển Discovery của ông ta đă bị đóng băng
tại Vịnh St. James. Sau một cuộc nổi
loạn của thủy thủ, Hudson bị thả trôi
trên một con thuyền cùng với người con trai và
7 thủy thủ trung thành để bơi vào đất
liền, rồi tất cả những người này
bị mất tích và số thủy thủ trở
về nước Anh đă bị xét xử. Theo
sau Hudson là Thomas
James,
người có tên được đặt cho Vịnh
James. Cuốn hồi kư “Cuộc Du Hành nguy hiểm
của Thuyền Trưởng Thomas James” (the Dangerous
Voyage of Captain Thomas James) đă là nguồn đề tài
cho nhà thơ Coleridge. Sau đó c̣n có Edward Parry, một sĩ
quan hải quân Anh, đă đi tới đảo Melville
vào năm 1819. Tại
bờ biển phía tây của lục địa châu
Mỹ, người đầu tiên đặt chân lên
đất liền là Thuyền Trưởng James Cook. Sau
đó vào các năm
1791- 95, George Vancouver
đă khám phá ra cửa sông Bella Coola. Địa điểm
này cũng được đặt chân tới bởi
nhà thám hiểm gốc Tô Cách Lan tên là Alexander
Mackenzie. Việc
khám phá ra Canada đă không được các người
châu Âu chú ư từ lúc đầu v́ đây là miền
đất rất lạnh và trơ trụi. Thổ dân
da đỏ vào thời kỳ này chỉ biết làm ra
các vật dụng thô sơ bằng đá và bằng
gỗ, và sản phẩm của họ là những con
thuyền đục từ thân cây hay các đôi
giầy đi tuyết bằng da thú, nhưng phẩm
vật đặc biệt của họ được
người châu Âu ưa thích là lông thú. Các nhà làm mũ
nón tại nước Anh rất ưa thích loại lông
hải thử (beaver) mà nhiều người cho rằng
mũ nón làm bằng loại lông này vừa ấm
nhất, vừa bền nhất. Mac
Lescabot là một nhà văn người Pháp vào thế
kỷ 17 đă ghi lại rằng thổ dân Bắc
Mỹ rất ngạc nhiên về sự ưa thích lông
thú của người châu Âu và sự trao đổi lông
thú đă khiến họ có các con dao, cái d́u, cái
ấm đun nước, đồ ăn và đồ
uống cùng các vật dụng khác. Việc trao đổi
sản phẩm đă trở nên phồn thịnh và
thị trường lông thú tại Bắc Mỹ đă
bắt đầu. 3/ Chế Độ
Thuộc Địa Tại Canada.
Người
đầu tiên làm phát triển việc buôn bán lông thú
là nhà thám hiểm người Pháp Samuel
de Champlain.
Nhiều người đă ca ngợi ông Champlain là “Người
Cha” của Canada v́ ư tưởng của ông muốn
thiết lập tại đây một nơi có công
bằng và nhân ái, có ḥa b́nh và thịnh vượng. Năm
1604, Champlain đă lập ra một nơi định cư
đầu tiên cho người Pháp tại Acadia,
thuộc Nova Scotia. Việc thám hiểm sâu vào trong đất
liền của Champlain đă khiến ông t́m ra Québec
vào ngày 03 tháng 7 năm 1608
sau khi đă đi vào Vịnh St. Lawrence. Một
năm sau ngày định cư tại Québec của
Champlain, các người Pháp mua lông thú đă gặp
sắc dân da đỏ Huron, có đầu cạo
trọc một nửa và lọn tóc dựng ngược
như đuôi chim. Sắc dân địa phương này
thù nghịch với thổ dân Iroquois. Trong một
chuyến thám hiểm tới miền Ticonderoga, Champlain, 3
người Pháp và 60 thổ dân Huron đă đụng
độ với bộ lạc Iroquois và 300 người
Iroquois đă bị tàn sát, sự kiện này là mối
hận thù lâu dài đối với dân định cư
người Pháp và sau này bị người Anh lợi
dụng. Samuel
de Champlain đă tới Canada với chủ đích
thứ nhất là giành phần đất cho nước
Pháp, sau đó là biến đổi miền đất
này thành một nơi biết ca ngợi Thượng
Đế. Bốn nhà truyền giáo Franciscan đă theo
Champlain tới Canada rồi sau đó là các giáo sĩ Ḍng
Tên (Jesuites), tới Bắc Mỹ với ư định
cải sang đạo Thiên Chúa các sắc dân da đỏ
Huron và Iroquois. Vào
năm 1625, các cha De Brebeuf và De Noue đă rời nước
Pháp để qua Canada và thời kỳ từ năm
1623 tới năm 1652 được coi là các năm huy
hoàng của các người định cư Pháp và
của các giáo sĩ. Nhưng trong khi truyền đạo,
các giáo sĩ Pháp thời đó đă không hiểu rơ
tâm lư và lối sống sơ khai của các thổ dân
trong khi các phong tục, tập quán của châu Âu
lại hoàn toàn khác lạ, cùng với việc chia
hạng giai cấp trong xă hội, tính cách cá nhân
của gia đ́nh và ḷng e sợ bị đầy đọa
nơi hỏa ngục sau khi ĺa đời. Các
giáo sĩ Ḍng Tên v́ vậy đă không được
người Iroquois ưa thích và vào ngày 16 tháng 3 năm
1649, 2 giáo sĩ Brebeuf và Noue đă bị thổ dân
Iroquois bắt trói vào cột, dội nước sôi và
chặt nhỏ bằng d́u. Đây là những vị
tử đạo đầu tiên trên miền đất
Canada. Lớp
người Pháp đầu tiên định cư
gồm 2 hạng: những kẻ viễn du hay “coureurs
de bois” thường đi vào trong rừng sâu, trao đổi
lông thú và đánh bẫy thú rừng, c̣n loại
thứ hai là những người thuộc địa
(colonists) khai phá các mảnh đất bên bờ sông St.
Lawrence trồng các hoa màu. Cuộc
sống của người thuộc địa không
phải là không gặp khó khăn, họ phải
chống chọi với thú rừng, với các dân da
đỏ thù nghịch, với thời tiết khắc
nghiệt. Phụ nữ cũng phải ra đồng, ra
vườn trồng trọt, làm nhà, và về mùa đông
phải xách nước, chặt củi. Tuy nhiên đời
sống của họ dần dần trở nên dễ
chịu hơn cuộc sống của những người
đang sinh sống tại nước Pháp nhờ
mọi người đều có quyền săn bắn
và câu cá, đất đai canh tác không hạn chế,
thực phẩm dư thừa, không phải nộp
thuế và số tiền đóng góp cho nhà thờ khá
thấp.
Bản
đồ xứ Pháp Mới (New France) thực hiện
bởi Samuel de Champlain năm 1612 Vào các
thập niên 1630 trở đi, các miền định cư
tại Québec
và Montréal đă trở nên phồn thịnh, trở thành
các trung tâm thương mại và các căn cứ
mới của nước Pháp. Các giáo sĩ do không
thể truyền đạo cho các thổ dân da đỏ,
nên đă quay về các miền đất thuộc
địa và lập nên các trường học, nhà
thờ và trường đại học Ḍng Tên (Jesuit
College) được thành lập năm 1636, một năm
trước Đại Học Harvard. Tại nơi này,
chính quyền địa phương cũng dựng nên
các nhà nuôi dưỡng người già yếu và
trẻ mồ côi, hệ thống ṭa án cũng
được cải tiến. Vào
năm 1640, xứ Pháp Mới chỉ có 240 cư dân,
đă tăng lên 10,000 người vào năm 1685. Québec
và Montréal trở nên các đô thị náo nhiệt nhưng
tại miền đất mới này đă thiếu
hẳn một chính phủ trung ương có quyền hành.
V́ thế vào năm 1647 đă ra đời một
hội đồng quản trị gồm thống đốc
(governor) và linh mục bề trên Ḍng Tên. Tuy nhiên cách
quản trị kinh tế của hội đồng
đă tỏ ra không hữu hiệu v́ thế vào năm
1663, xứ Pháp Mới (New France) đă được chính
thức công nhận là một phần đất
bảo trợ của Vua Louis- 14, và Bộ Trưởng
Tài Chính Jean Baptiste Colbert đă muốn biến nơi này
thành một tỉnh của nước Pháp. Vị toàn
quyền (governor general) đầu tiên của nước
Pháp là Bá Tước De Frontenac, một người kiêu
ngạo và thiếu thận trọng. Vị bá tước
này thường xung đột với giới tu sĩ,
đă không chú ư đến sự hiện diện và tính
xâm lấn của người Anh đang bành trướng
trong Vịnh Hudson. Một
người khác muốn mang lại một chính
quyền mạnh sau Bộ Trưởng Colbert là viên
quản đốc (intendant) Jean Talon. Ông này đă mang
qua châu Mỹ hàng ngàn di dân mới gồm cả đàn
bà và trẻ em. Phần lớn những người
thuộc địa sinh sống tại 3 đô thị là
Montréal, Québec và Trois-Rivières. Bộ Trưởng Colbert
thời đó đă cho rằng nếu các người
thuộc địa Pháp di chuyển xa hơn nữa,
sẽ không có lợi cho quyền lợi của nước
Pháp v́ thế ông Colbert đă cấm cản việc buôn
bán lông thú vào các miền Montréal, Trois-Rivières và
Tadoussac. Chính sách thiển cận của ông Colbert đă
làm lợi cho việc bành trướng của người
Anh tại Canada. 4/ Người Anh
Tới Canada.
Vào
các năm trong thập niên 1650, Canada trở nên một
miền đất trù phú cho việc đầu tư
của người Pháp, sự kiện này đă
khiến cho người Anh phải quan tâm. Tới
thập niên 1660, Medard des Grosseilliers và Pierre Radisson là 2 nhà
buôn lông thú người Pháp, đă không muốn đóng
thuế cao cho Québec nên đă chạy qua miền New
England và được đưa về nước Anh.
Tại London, hai nhà buôn này đă thuyết phục
một nhóm thương gia người Anh nên thiết
lập một cơ sở buôn lông thú trong Vịnh
Hudson. Sự
việc này đă khiến cho xứ Pháp Mới ở vào
một vị thế bất lợi: phía bắc là công
ty Hudson’s Bay đang bành trướng ảnh hưởng
c̣n phía nam là nhóm người Ḥa Lan và dân da đỏ
Iroquois thù nghịch, được người Anh
yểm trợ. Người Pháp v́ thế đă tổ
chức các đội quân lo quấy phá người Anh
và t́m cách đẩy người Anh ra khỏi Vịnh
Hudson, và sự thù nghịch giữa 2 nước Pháp và
Anh lại tăng lên vào đầu thế kỷ 18,
với các toán quân Pháp đánh phá nhiều nơi, có
khi xuống tận Boston. Nhưng
rồi các cường quốc của châu Âu thời
đó đă kư Hiệp Ước Ḥa B́nh Utrecht (the
Peace Treaty of Utrecht) năm 1713 phân chia Bắc Mỹ, nước
Pháp bị tước mất nhiều đất đai,
Vịnh Hudson và vùng Acadia được dành cho người
Anh và điều khoản 15 công nhận chủ
quyền của nước Anh đối với dân da
đỏ Iroquois cũng như quyền buôn bán lông thú
ở phía tây của vùng thuộc địa Pháp.
Bản
đồ phân chia Bắc Mỹ ở thập niên 1750 Trong 3
thập niên, ḥa b́nh đă tới với xứ Canada
Bắc Mỹ này, nông nghiệp và ngư nghiệp
trở nên thịnh vượng, nghề rừng và
kỹ nghệ đánh cá phát triển, mức sống
của người dân cao hơn dân châu Âu và dân
số Canada cũng tăng từ 19 ngàn người năm
1713 lên 48 ngàn vào năm 1739. Đồng
thời với sự phát triển của 2 miền
Anh-Pháp, các xung đột nhỏ cũng xẩy ra
bắt đầu vào năm 1744. Đầu tiên là các
trận đánh nhỏ rồi tới việc tuyên
chiến chính thức vào năm 1756. Nước Pháp
đă gửi tới Québec Hầu Tước Montcalm và
một lực lượng tăng cường không
đủ mạnh lại thiếu thực phẩm
tiếp tế, trong khi giữ lại hạm đội
để bảo vệ bờ biển nước Pháp.
Trước thái độ lơ là của chính
quốc, làm sao Hầu Tước Montcalm có thể
bảo vệ được phần đất đai
tại Bắc Mỹ này. Vào
năm 1759, lực lượng Anh dưới quyền
chỉ huy của Tướng James Wolfe bắt đầu
tiến đánh Québec. Sau nhiều lần tấn công
mặt trước không thành công, đêm 12 tháng 9 năm
1759, Tướng Wolfe lợi dụng bóng đêm, vượt
qua gịng sông St. Lawrence và đánh vào cạnh sườn
của quân đội Pháp. Bị tấn công bất
ngờ, quân Pháp hoảng loạn và phải rút lui
khỏi Québec với kết quả là Hầu Tước
Montcalm bị thương nặng và Tướng Wolfe cũng
bị tử trận. Sau vụ thất thủ thành
phố Québec, xứ “Pháp Mới” mất dần
ảnh hưởng cho tới năm 1763, Hiệp Ước
Paris công nhận nước Pháp mất hết đất
đai tại Canada. Sự
kiện xứ Canada rơi vào tay người Anh đă
không làm cho chính quyền và giới trí thức tại
Pháp quan tâm. Văn Hào Voltaire khi đó đă gọi
xứ Pháp Mới, tức là phần đất của
nước Pháp tại Canada, là “một vài mẫu
đất phủ tuyết” (a few acres of snow) c̣n
giới chính trị Pháp chỉ nh́n thấy sự
yếu kém về kinh tế trong giai đoạn gần
của xứ sở đó. Trong
khi đó chiến thắng của người Anh
tại Canada đă làm cho việc trao đổi lông thú
chuyển từ nước Pháp sang nước Anh và nước
Anh từ nay gặp phải một vấn đề nan
giải là phần đất thuộc địa
mới chiếm được lại gồm các người
có nguồn gốc nước khác. Chính quyền Anh v́
thế muốn nhổ rễ nền văn hóa Pháp,
muốn đặt các định chế Anh tại Québec
và muốn những người dân định cư
Mỹ đi lên miền trên để lấn át số
70,000 dân gốc Pháp. Tất cả các dự định
đó đă gặp thất bại. Không
dễ ǵ Anh quốc hóa 99 phần trăm dân chúng nói
tiếng Pháp trong khi đó họ lại theo đạo
Thiên Chúa La Mă, rất khó cải sang đạo Tin Lành
là tôn giáo mà quyền điều khiển giáo hội
ở trong tay Vua George III. Cho nên chỉ c̣n một cách
hay nhất là thỏa hiệp với người dân
thuộc địa gốc Pháp.Vị toàn quyền
mới người Anh lúc bấy giờ là Sir Guy Carleton
đă nhận thấy sự quan trọng của ḷng
trung thành từ lớp người Canada gốc Pháp, v́
thế Đạo Luật Québec 1774 (the Quebec Act 1774)
đă chấp nhận sự bảo vệ văn hóa, chính
trị và kinh tế của miền Québec, dân luật
(civil law) của Pháp được văn hồi trong khi
đó cũng duy tŕ h́nh luật Anh (British criminal law), nhà
thờ Cơ Đốc (Catholic) được quyền
thu tiền đóng góp và các người Cơ Đốc
gốc Pháp không c̣n bị đẩy ra khỏi các
chức vụ công quyền. Đạo
luật kể trên đă làm dịu đi các người
thuộc địa Pháp và làm mất ḷng các nhà buôn người
Anh nhưng vào lúc đó, đă xẩy ra cuộc Cách
Mạng Hoa Kỳ. 60 ngàn người trung thành (loyalists)
với nước Anh đă rời phần đất
phía bắc của tiểu bang New York, chạy qua
miền Nova Scotia để nhờ sự che chở
của người Anh tại đó. Số di dân
mới này tại Canada đă cân bằng ảnh hưởng
về người gốc Pháp và người gốc
Anh, đồng thời các nhà buôn Anh cũng thấy có
lợi hơn khi được sự yểm trợ
từ Anh Quốc. Khi
các người di dân trung thành với nước Anh
đ̣i hỏi một chính quyền có đại
biểu (a representative government) mà Đạo Luật Québec
đă phủ nhận, Sir Carleton đă phải trở
lại Canada để phê chuẩn Đạo Luật
Hiến Pháp 1791 (The Constitutional Act of 1791) theo đó
xứ thuộc địa Canada có một hội
nghị do dân bầu lên để thi hành lập pháp cùng
với một hội đồng lập pháp do nhà vua
chỉ định. Đạo luật này cũng chia
miền thung lũng sông St. Lawrence ra làm 2 miền
thuộc địa: miền Canada Thượng (Ontario) và
miền Canada Hạ (Québec) (the Upper and the Lower Canada)
khiến cho lại sinh sự thù nghịch Anh-Pháp. Vào
năm 1812, các người nổi loạn Hoa Kỳ
định đánh chiếm Canada lần thứ hai và
đă gặp thất bại sau trận đánh tại
Queenston Heights (the Battle of Queenston Heights) và cuộc
chiến tranh này đă chính thức hóa quyền lợi
của Đế Quốc Anh tại Bắc Mỹ. 5/ Liên Bang Canada.
Sau
cuộc chiến tranh 1812, người dân Canada rất
bất măn với tổ chức chính trị của vùng
đất thuộc địa, họ muốn xét
lại vấn đề chủ quyền trên xứ
sở này. Tại miền Canada Thượng, kinh tế
phát triển khiến cho dân chúng đánh giá lại vai
tṛ chính trị và kinh tế của nước Anh, trong
khi các người Pháp tại miền Canada Hạ đă
chỉ trích người Anh v́ nạn thất nghiệp
và mực sống thấp. Người
dân Canada tuy đă có một hội đồng do dân
bầu ra, nhưng quyền hành pháp lại ở trong tay
một hội đồng khác do Vua nước Anh
chỉ định. Các tham nhũng, ưu đăi và chính
sách từ trên đưa xuống đă khiến cho người
dân Canada muốn có một chính phủ biết trách
nhiệm, một hội đồng do dân bầu ra
với thực quyền.
Tại
Québec, người sáng lập ra Đảng Ái Quốc
(the Patriot Party) là ông Louis Joseph Papineau đă lập ra
một danh sách gồm 92 đ̣i hỏi và nghị
quyết, với yêu cầu đầu tiên là phải
bỏ ngay hội đồng chỉ định. Nước
Anh đă từ chối thỏa hiệp v́ thế đă
xẩy ra cuộc xuống đường vào tháng 10 năm
1837, đụng độ với quân đội Anh.
Nhiều người bị chết. Cuộc nổi
dậy bị dẹp tan. Papineau phải bỏ trốn
qua Hoa Kỳ. Tại
miền Canada Thượng, việc tranh đấu đ̣i
hỏi một chính quyền biết trách nhiệm do ông
William Lyon Mackenzie điều khiển. Ông này gốc người
Tô Cách Lan, là chủ nhiệm một tờ báo địa
phương. Mackenzie đă chỉ trích gay gắt
hội đồng chỉ định có tên là The Family
Compact. Năm 1837, Mackenzie đă dẫn hàng trăm người
phản đối trên đường Yonge của thành
phố Toronto và kết quả của sự đàn áp
đám biểu t́nh là sự hỗn loạn, trừng
phạt với 2 lănh tụ bị treo cổ, Mackenzie
chạy trốn qua Hoa Kỳ. Sau
các biến cố kể trên, nước Anh nhận
thấy phải cải tiến đường lối
cai trị lỗi thời tại vùng Bắc Mỹ.
Một ủy ban điều tra được thành
lập, đứng đầu là một nhà chính
trị có nguồn gốc từ các gia đ́nh giàu có,
tên là Lord Durham. Sau 6 tháng t́m hiểu, ông Durham đă
phổ biến một báo cáo theo đó muốn cho
xứ Canada tồn tại bên cạnh nước Hoa
Kỳ linh động và đang phát triển, cần
phải khuếch trương nền kinh tế bằng
cách đoàn kết lại các thuộc địa, làm
giảm đi sự căng thẳng giữa người
gốc Anh và người gốc Pháp, đưa người
Pháp vào nền văn hóa Anh và người dân Canada
cần có một chính phủ biết trách nhiệm. Năm
1849, các luật lệ về cách quản trị mới
được ban hành và một chính phủ mới
đă được thực hiện. Trong
các thập niên 1850 và 1860, xứ Canada vẫn c̣n bao
gồm các khu thuộc địa chia rẽ, với các
đảng phái đối chọi nhau: đảng Xanh
(the Blues) đứng đầu bởi ông George Etienne
Cartier, đảng Bảo Thủ (the Conservatives) do ông
John A. Macdonal cầm đầu và đảng Tiến
Bộ (the Liberals) do ông George Brown, một chủ báo, lănh
đạo. Tại
phía nam, cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ của
Hoa Kỳ đang diễn ra, nhiều người e
ngại rồi sẽ xẩy ra cuộc xung đột
giữa 2 nước Anh và Mỹ. Các bất ḥa v́
quyền lợi đảng phái tại Canada đă
khiến cho chưa có thể thực hiện việc bành
trướng chiếm các miền đất mới, nhưng
chính quyền đă thiết lập được
một đường xe lửa xuyên qua các xứ
thuộc địa. V́ thế các nhà chính trị đă
đồng ư cần phải thành lập một liên
bang (confederation) để vượt qua nhiều bế
tắc về quản trị đất nước.
Bản
đồ Lănh Thổ Tự Trị Canada (the Dominion
of Canada), 1867 Cuối cùng,
vào ngày 01 tháng 7 năm 1867, một quốc gia mới
được lập ra, gọi là Lănh Thổ Tự
Trị Canada (the Dominion of Canada), bao gồm cả Ontario, Québec,
Nova Scotia và New Brunswich. Thủ
Tướng đầu tiên của xứ Canada đoàn
kết này là Sir John Alexander Macdonal,
một người Anh sinh trưởng tại Tô Cách
Lan, được cha mẹ mang qua Kingston, Ontario, khi c̣n
nhỏ tuổi. Vào thời gian này, Canada có vào
khoảng 3.5 triệu dân, hầu như tất cả dân
chúng sống tại miền Đông và phần lớn
dựa vào nông nghiệp. Sau
khi trở nên một lănh thổ tự trị, Canada
đă mua miền đất Rupert (Rupert’s Land) của công
ty Hudson’s Bay với giá 300,000 bảng mà không hỏi ư
kiến dân địa phương là người Métis,
sắc dân có nửa gịng máu Pháp, nửa gịng máu da
đỏ, nói tiếng Pháp và theo đạo Thiên Chúa
Catholic, cư ngụ nơi gịng sông Đỏ (the Red
River).
Dưới
sự lănh đạo của Louis Riel, các người Métis
đă chiếm Fort Garry, một tiền đồn
của Anh và lập ra một chính quyền địa
phương tạm thời. Cuộc nổi dậy này
được sự trợ giúp của đội
bộ binh thứ 5 của người Mỹ và đă
không gây ra đổ máu nếu đă không có một
biến cố làm rắc rối thêm t́nh h́nh. Một người
trẻ và mới giàu lên, tên là Thomas Scott bị nhóm người
Métis bắt v́ đă phỉ báng Louis Riel, rồi sau
bị Riel đưa ra ṭa án quân sự và bị
bắn chết. Scott là công dân của Ontario, lại là
một người theo đạo Tin Lành, bị người
Công giáo Catholic sát hại nên vấn đề trở
thành tế nhị. Nhưng sau đó vụ rắc
rối “gịng sông Đỏ” (the Red River incident) đă
được dàn xếp khi thuộc địa này gia
nhập vào Liên Bang Canada với danh nghĩa Tỉnh
Manitoba và Louis Riel bỏ chạy qua Hoa Kỳ. Một
thập niên sau, Riel lại trở về Canada và
hoạt động trong tỉnh Saskatchewan rồi bị
quân đội Anh bắt được. Mặc dù
những lời xin ân huệ và sự chống đối
của nhóm người gốc Pháp, Thủ Tướng
Canada thời bấy giờ là ông Macdonald đă ra
lệnh treo cổ Louis Riel v́ tội phản bội. Ông
Macdonald c̣n tuyên bố: "Tao sẽ treo cổ mọi con chó nào tại
Québec c̣n sủa dùm cho hắn”. Cái chết
của Riel càng làm trầm trọng mối hận thù
giữa người gốc Anh và người gốc Pháp
tại Canada. Vào
thời kỳ bầu cử thứ hai, các phần đất
mới gồm đảo Prince Edward, các tỉnh đồng
bằng và miền Tây Thái B́nh Dương được
sát nhập vào Liên Bang Canada. Việc nối các địa
phương từ đông sang tây bằng một
đường xe lửa xuyên lục địa đă
trở nên một giải pháp đương nhiên và là
một đề tài tranh cử của năm 1872. Đường
xe lửa Canada Thái B́nh Dương (the Canadian Pacific
Railway) là một dự án do đảng của ông
Macdonald đề nghị với sự yểm
trợ của Sir Hugh Allan, một chủ tầu biển
có thế lực tại Macdonald, được
nguồn đầu tư Hoa Kỳ giúp đỡ, nhưng
Thủ Tướng Macdonald lại không muốn dính
líu tới nguồn tư bản ngoại quốc trong
khi Sir Allan vẫn dấu diếm ở đằng sau.
Sáu
tuần lễ trước ngày bầu cử, ông
Macdonald do thiếu ngân quỹ để vận động,
nên đă yêu cầu sự yểm trợ của Sir
Allan. 60 ngàn đô la đă tới, rồi 35 ngàn đô
và trong lần đ̣i hỏi cuối cùng, Thủ Tướng
đă điện cho Sir Allan: “Tôi phải có thêm 10 ngàn
nữa. Đây là lần kêu gọi cuối cùng. Đừng
làm tôi thất vọng”. Ông Macdonald đă đắc
cử và Sir Hugh Allan vui mừng. Nhưng văn pḥng
của Sir Allan đă bị ăn trộm, các giấy
tờ liên quan tới cuộc bầu cử được
bán cho đảng Tiến Bộ (the Liberals) đối
lập với giá 5,000 bảng. Đảng này liền công
bố âm mưu của Thủ Tướng Macdonald giao
dự án đường xe lửa cho Sir Hugh Allan để
đổi lấy ngân quỹ tranh cử, cùng với
bức điện tín “Tôi phải có thêm 10 ngàn
nữa”. Ông Macdonald phải từ chức v́
bị tai tiếng. Kế vị là ông Alexander Mackenzie. Về
sau, ông Macdonald trở lại làm Thủ Tướng
trong hơn một thập niên (1878-1891) rồi tới
Sir John J. Abbott (1891-1892), Sir John S.D. Thompson (1892-1894), Sir
Mackenzie Bowell (1894-1896) và Sir Charles Tupper (1896). 6/ Canada Vào Thế
Kỷ 20.
Qua
đầu thế kỷ 20, Canada bắt đầu
thịnh vượng và tiến bộ dưới
thời của Thủ Tướng Sir Wilfrid Laurier (1896
-1911). Đường xe lửa đă nối bờ
biển phía đông với vùng đất phía tây.
Canada thực hiện các liên lạc ngoại giao với
thế giới bên ngoài qua nước Anh đồng
thời cũng gặp rắc rối với Hoa Kỳ v́
việc tranh chấp biên giới tại vùng Alaska/ Yukon.
Một ủy ban gồm 3 người Mỹ, 3 người
Canada và 1 bộ trưởng Anh là Lord Alvertone lo dàn
xếp việc tranh chấp. Trong lần bỏ phiếu,
Lord Alvertone đă nghiêng về phía các người
Mỹ, điều này đă làm cho người dân
Canada nghi ngờ nước Anh. Về
đối nội, Bộ Trưởng Nội Vụ
của Thủ Tướng Laurier là ông Clifford Sifton đă
chủ trương một chính sách ưu đăi di dân
gốc Anglo-Saxon nhưng số người Anh di cư
sang Canada không đủ, trong khi miền Tây của Canada
hầu như vắng người lại rộng
lớn bao la. V́ vậy ông Bộ Trưởng Sifton
đă cho đăng trên các báo chí tại châu Âu
bằng hàng chục ngôn ngữ khác nhau, lời
quảng cáo: “Cuộc di cư về
miền Tây cuối cùng. Nơi cư ngụ này dành cho
cả triệu người. Các nông trại rộng 160
mẫu ở miền Tây Canada tặng không”.
Kết quả là đă có một khối lớn di dân
gồm các người Nga, Tiệp, Ba Lan, Hung, Serbia...
đi tới 2 tỉnh Alberta và Saskatchewan mới
được thành lập năm 1905. Sở
dĩ Bộ Trưởng Sifton chọn nhóm di dân này v́
quá tŕnh canh nông của họ nhưng ông ta đă
bị chỉ trích là đă mang tới Canada lớp người
“hạ lưu” (inferior breeds). Thời tiết khắc
nghiệt, đời sống nông thôn khó khăn đă
khiến cho người dân miền Tây Canada có một
tinh thần độc lập và cộng tác trong khi
đó, đă xẩy ra sự đ̣i hỏi về b́nh
quyền ứng cử của nữ giới, sau khi phong
trào phụ nữ dẫn đầu bởi 2 bà Nellie
McClung và Emily Murphy. Kết quả là vào năm 1929, Thượng
Viện (the Senate) đă phải chấp thuận sự
b́nh đẳng của nữ giới trong việc
ứng cử. Cũng
vào đầu thế kỷ 20, trào lưu kỹ
nghệ hóa đă tới với Canada. Trong khi miền Tây
chuyên về canh nông th́ tại miền Đông, các cơ
xưởng đă mọc lên và dân lao động đă
bị bóc lột tàn nhẫn. Họ phải làm việc
từ 10 tới 12 giờ một ngày, tuần lễ 6 ngày,
tiền lương thấp, điều kiện làm
việc tồi tàn và các h́nh phạt tàn bạo cũng
được áp dụng khiến cho đời
sống của người công nhân càng thêm đau
khổ. Đàn bà và trẻ em, đôi khi mới 8
tuổi, cũng bị trả lương thấp và bóc
lột. Tất cả các bất công này đă làm sinh
ra các công đoàn, các tổ chức lao động và vào
năm 1908, tỉnh Ontario đă ra đạo luật
đầu tiên về lao động trẻ em với
tuổi thấp nhất là 14. Tới
năm 1912, mỗi bang tỉnh đều tham gia vào chính
quyền trung ương Canada ngoại trừ miền
Newfoundland gia nhập năm 1949. Năm 1914 xẩy ra
Thế Chiến Thứ Nhất. Canada đă tham gia để
ủng hộ nước Anh, điều này đă có
lợi lớn cho Canada nhờ việc xuất cảng lúa
ḿ và sản xuất súng đạn cho các nước
khác. Thủ
Tướng Canada trong giai đoạn Thế Chiến
Thứ Nhất là ông Robert Borden (1911-20) đă hứa
yểm trợ cho nước Anh 500 ngàn người, v́
thế việc tuyển mộ đă chấp nhận
tất cả mọi người già, trẻ và tàn
tật, thu nhận cả các sắc dân như Ấn
Độ, Nhật Bản và da đen, rồi do
thiếu người nên vào năm 1916, Thủ Tướng
Borden đă phải quay về kêu gọi dân chúng Québec. Lớp
dân gốc Pháp này không muốn tham gia chiến tranh,
họ không muốn bị bắt đi lính. Mối căng
thẳng đă bùng nổ thành một cuộc náo
loạn chống bắt lính vào năm 1918 và binh sĩ
từ Toronto đă nổ súng vào đám đông,
khiến cho 4 người bị chết đồng
thời loại thuế chiến tranh (a war tax) được
thông qua, các công đoàn “cấp tiến” (radical)
bị đàn áp, các tờ báo in bằng tiếng
của kẻ địch bị đóng cửa. Rồi
bất ngờ, Thế Chiến Thứ Nhất chấm
dứt vào ngày 18-8-1918, Canada chịu 60,611 người
chết, hàng ngàn người mang thương tật. Thập
niên 1920 là các năm thịnh vượng của Canada.
Văn chương có nhân vật danh tiếng nhất là
Stephen Leacok. Hội họa với Nhóm 7 (the Group of Seven)
gồm các họa sĩ Lawren Harris, A.Y. Jackson, Arthur Lismer,
Frederick Varley, J.E.H. MacDonal, Franklin Charmichael và Franz Thompson.
Phụ nữ theo các thời trang mới, các kiểu tóc
mới... Mọi người hân hoan với các chương
tŕnh ca nhạc, các loại phim câm mới, nhưng
rồi cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế
1930 xẩy đến, Canada bị ảnh hưởng
nặng nhất. Hàng ngàn người thất nghiệp
đổ ra đường kiếm ăn, một người
xúc tuyết trong 7 giờ chỉ được trả
5 xu cho công lao động. Đă
có hàng trăm người lên xe lửa đi về
miền Tây, một số bị chết đói và
chết lạnh dọc đường. Năm 1931, gió
lạnh thổi bạt ngàn trên các miền đất
ph́ nhiêu khi trước, rồi năm sau tới nạn
cào cào cắn hoa màu và năm 1933 là năm hạn hán,
mưa đá và sương giá. Cũng vào năm 1931,
Canada trở nên hội viên của Liên Hiệp Anh (the
Commonwealth). Sau
khi Hitler xâm chiếm Tiệp Khắc, kư ḥa ước
bất xâm lăng với Liên Xô và tràn qua Ba Lan, người
dân Canada c̣n đang lo ngại chiến tranh th́ vào ngày
03 tháng 9 năm 1939, báo chí đă đăng tin: “Đế quốc Anh
nhập chiến. Nhà Vua kêu gọi công dân Anh trong nước
và hải ngoại”. V́ đă tham gia vào Liên
Hiệp Anh và có bổn phận pháp lư, Canada tham
chiến với Anh Quốc. Canada đă chi tiêu 12
triệu đô la một ngày để dùng cho nỗ
lực chiến đấu và vào năm 1943, 1.5 triệu
người Canada đă làm việc trong các cơ xưởng
sản xuất súng đạn. Sau
khi quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng, Canada
lại sát cánh với Hoa Kỳ trong việc chống
Nhật Bản. Vào thời gian này, nước Anh
thiếu người tham chiến nên đă yêu cầu
Canada trợ giúp. Trong cuộc trưng cầu dân ư
tại Canada, nhiều người đồng ư đóng
góp cho chiến tranh về mặt nhân sự nhưng
phong trào quốc gia tại Québec đă phản đối
lệnh nhập ngũ và trong phong trào này đă
xuất hiện một nhân vật trẻ tuổi mà sau
này trở nên vị Thủ Tướng được
nhiều người biết danh tiếng nhất: ông
Pierre Elliot Trudeau. Sau
Thế Chiến Thứ Hai, Canada bị thiệt hại
45,000 người và đă bị tai tiếng về
việc gom 15,000 người Canada gốc Nhật Bản
vào các trại tập trung cũng như tịch thu tài
sản của họ. V́ tư tưởng bài Do Thái,
Canada cũng không nhận trợ giúp các người Do
Thái đă trốn khỏi các trại tập trung Đức
Quốc Xă. Người
dân Canada sau Thế Chiến Thứ Hai đă lo lắng
về sự thiếu thốn, họ tiết kiệm và
chuẩn bị đối phó với t́nh trạng nghèo
khó nhưng những điều bất ngờ đă
tới: nền giao thương quốc tế phát
triển, lợi nhuận xuất cảng gia tăng
gấp bội, các kỹ nghệ phát triển rực
rỡ và tại miền Tây, người ta lại t́m
ra dầu mỏ. Chính phủ của Thủ Tướng
Mackenzie đă tăng cường thêm các chương tŕnh
trợ giúp y tế và xă hội, nâng đỡ mức
sống thấp nhất của giới nghèo trên toàn
quốc. Sau 2 cuộc chiến tranh và nạn kinh tế
khủng hoảng, người dân Canada nhận ra
rằng các chương tŕnh của chính phủ điều
hành là các cách thức rất quan trọng để tiêu
diệt cảnh nghèo khó. Trong
thập niên 1950, Canada đă tham gia vào các sinh hoạt chính
trị trên thế giới như Liên Hiệp Quốc,
cuộc chiến tranh Triều Tiên và cuộc khủng
hoảng tại Kênh Đào Suez. Canada cũng là hội
viên của Tổ Chức Minh Ước Bắc Đại
Tây Dương Nato (North Atlantic Treaty Organization) cũng như
Thỏa Ước Pḥng Thủ Bắc Mỹ Norad (North
American Air Defense Agreement). Canada trở nên một hội
viên mới của cộng đồng thế giới. Vào
thập niên 1960, Thủ Tướng Lester B. Pearson, người
đoạt Giải Thưởng Nobel Ḥa B́nh, đă tuyên
bố rằng các đầu đạn nguyên tử có
thể đặt tại Canada, khiến cho dân chúng
chỉ trích đồng thời với cuộc phản
đối chiến tranh tại Việt Nam cũng lan
rộng. Trong khi đó cuộc cách mạng thầm
lặng (the quiet revolution) ra đời với các
nghệ sĩ, chính trị gia và công dân gốc Pháp
muốn t́m ra bản chất văn hóa thực của
họ để nối lại với Nhà Thờ Thiên
Chúa La Mă và dấu vết của thời kỳ
thuộc địa.
Những
phản kháng đưa dần tới các chiến
thuật bạo lực của Phong Trào Giải Phóng Québec
FLQ (Front de Libération du Québec) vào thập niên 1970 với
sự lănh đạo của ông René Lévesque. Ông Lévesque
muốn miền Québec trở thành một quốc gia
tự trị và một số người theo ông ta
đă dùng giải pháp khủng bố: đặt bom phá
hoại các ṭa nhà liên bang, các hộp thư của cư
dân nói tiếng Anh... Các rối loạn xẩy ra ở
nhiều nơi, đặc biệt tại 2 thành phố
Montréal và Québec. Một số sinh viên Đại
Học McGill đ̣i hỏi các lớp học phải
được giảng dạy bằng tiếng Pháp.
Sự xáo trộn này đă khiến ông Pierre E. Trudeau
(1968-79), vị Thủ Tướng được
bầu vào năm 1968, cố gắng áp đặt quan
niệm Liên Bang vào nước Canada mới, với
đặc tính 2 văn hóa và 2 ngôn ngữ (biculturalism
and bilingualism). Ngày
05 tháng 10 năm 1970, Ủy Viên Thương Mại Anh
(British Trade Commissioner) tại Montréal tên là James Cross
bị bắt cóc bởi Mặt Trận FLQ rồi sau
đó 5 ngày, Bộ Trưởng Lao Động Québec là
ông Pierre Laporte cũng bị bắt cóc. Xác của ông
Laporte được t́m thấy trong thùng một xe hơi
bỏ hoang đă khiến cho dân chúng lên án Mặt
Trận FLQ là một loại khủng bố. Ngày
16-10 năm đó, Thủ Tướng Trudeau kư sắc
lệnh Biện Pháp Chiến Tranh (the War Measures Act) và
10,000 quân lính đă tảo thanh thành phố Montréal. Nhưng
rồi thuế cao và lạm phát gia tăng đă
khiến cho chính phủ Trudeau bị lật đổ,
thay thế bằng chính phủ bảo thủ của ông
Charles Joseph Clark (1979-80) Tính do dự của chính
phủ mới này đă là lư do khiến ông Trudeau
trở lại nắm quyền Thủ Tướng
lần thứ hai vào ngày 18-2-1980. Trong
nhiệm kỳ này của ông Trudeau, nước Canada
đă tổ chức một cuộc trưng cầu dân
ư, theo đề nghị của ông René Lévesque theo đó
người dân Québec chấp thuận hay không sự tách
rời Québec khỏi Liên Bang. Ngày 20-5-1980, 88 phần trăm
cư dân Québec đă đi bầu, với 41 phần trăm
phiếu đồng ư ly khai và 50 phần trăm không
chấp nhận sự tự trị. Đây là một
thất bại lớn lao đối với ông Lévesque và
vinh quang về với Thủ Tướng Trudeau cùng các
người ủng hộ chính sách Liên Bang. Công tŕnh
cuối cùng của ông Trudeau là một bản Hiến
Pháp mới (Constitutional Act) được Nữ Hoàng
Elizabeth II phê chuẩn tại Ottawa để thay thế
cho Đạo Luật Bắc Mỹ thuộc Anh (the
British North America Act). Vào
thập niên 1980 có 2 vấn đề chính thuộc
tầm vóc quốc gia. Thứ nhất là thỏa ước
Tự Do Mậu Dịch (Free Trade), một đề tài
đă gây sôi nổi trong cuộc tranh cử năm 1988.
Đây là sự đồng ư băi bỏ hàng rào bảo
vệ mậu dịch, một điều mà người
dân Canada lo sợ trước thị trường bao la
và sức mạnh kinh tế của Hoa Kỳ trong khi
Thủ Tướng đương thời là ông Brian
Mulroney (1984-93) lại ủng hộ chủ trương
phải mở rộng thị trường và chấp
nhận sự thách đố của hệ thống kinh
tế cạnh tranh. Mặc dù 70 phần trăm dân Canada
chống lại Tự Do Mậu Dịch, ông Mulroney
vẫn đắc cử và làm Thủ Tướng
lần thứ hai. Vấn
đề rắc rối thứ hai tại Canada là
Thỏa Ước Meech Lake (the Meech Lake Accord). Nhiều người
dân Québec cho rằng các quyền lợi văn hóa
của họ không được xác nhận đầy
đủ trong Hiến Pháp Mới 1982 (the 1982 Constitutional
Act ). Một số đảng viên đảng Tiến
Bộ (the Quebec Liberals) vẫn muốn tỉnh Quebec là
một xă hội biệt lập trong khi miền
Newfoundland cũng đ̣i hỏi tách ra khỏi Liên Bang
Canada. Vào
tháng 6 năm 1993, ông Mulroney rút lui khỏi chức
vụ Thủ Tướng v́ thất bại trong
việc làm giảm thâm thủng ngân sách, v́ thiếu
sự ủng hộ của dân chúng do áp dụng
loại thuế hàng hóa và dịch vụ (Goods and Sevices
Tax) và cũng v́ không thể chấm dứt cuộc
khủng hoảng về Hiến Pháp. Người
kế tiếp ông Mulroney là bà Kim Campbell, vị Nữ
Thủ Tướng đầu tiên của Canada, đă
chỉ giữ được chức vụ trong 4 tháng
v́ thất bại trong cuộc tổng tuyển cử trước
đảng Tiến Bộ (the Liberal Party). Chính phủ
mới của đảng này do Thủ Tướng Jean
Chrétien (1993 - ) là người miền Québec, trước
kia thuộc nội các của ông Trudeau. Ông Chrétien đă
cắt giảm chi phí quốc gia, ủng hộ các xí
nghiệp tư nhân như là nguồn tăng trưởng
kinh tế chính, đồng thời theo đuổi
nhiều chính sách kinh tế và xă hội của đảng
Bảo Thủ Cấp Tiến (the Progressive Conservatives),
kể cả Hiệp Ước Napta. Tới
năm 1995, Thủ Tướng miền Québec là ông
Jacques Parizeau, một nhân vật chủ trương tích
cực ly khai, đă tổ chức một cuộc trưng
cầu dân ư lần thứ hai nhưng gặp thất
bại: 49.6 % dân Québec ủng hộ so với 50.4 % không
muốn ly khai. Miền Québec vẫn c̣n thuộc Liên Bang
Canada. Vào
tháng 12 năm 1995, Thủ Tướng Jean Chrétien công
bố nhiều đề nghị nhằm củng cố
sự đoàn kết quốc gia. Trong các đề
nghị này có cả nghị quyết công nhận ngôn
ngữ, văn hóa và dân luật của miền Québec. Canada
đă tổ chức Lễ Kỷ Niệm 100 Năm
Độc Lập vào năm 1967 với Hội Chợ
Thế Giới (World Fair) tại Montréal. Tới năm
1988, Hội Nghị Kinh Tế Thượng Đỉnh
(the 1988 World Economic Summit) của 7 nước công
nghiệp hàng đầu đă họp tại Toronto và
Kỳ Thế Vận Hội Mùa Đông (the Winter Olympics)
được tổ chức tại Calgary, tất
cả đă mang lại cho Canada h́nh ảnh của
một quốc gia cỡ lớn trên Thế Giới.
Phạm
Văn Tuấn Tài
liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica Encyclopedia.. |
||||||||||