Tàn sát Tết Mậu Thân, 1968 tại Huế Tuệ
Chương (Theo Douglas Pike) |
(Vài
lời trần t́nh của người dịch: Ngày 15
tháng 7 năm 2002 vừa qua, quân đội Do Thái
tấn công vào Gaza City, khiến 15 người Palestine
bị thiệt mạng và hàng trăm người
bị thương. Cả thế giới và cả Liên
Hợp Quốc lên án hành động tàn ác nầy
của Do Thái. Việc lên án nầy không sai mặc dù
những người chết nói trên chỉ là bị
vạ lây mà mục tiêu chính là Shehade, tên trùm khủng
bố kiểu tự sát của Palestine. Thế
c̣n hơn 5 ngàn người bị thảm sát hồi
Tết Mậu Thân ở Huế th́ sao? Hơn ba mươi
năm qua, cả thế giới và cả người
Việt ở trong nước cũng như hải
ngoại, nghĩ ǵ về những cái chết oan khiên
đó?!) Huế là một trong những thành phố
buồn nhất trên hành tinh của chúng ta, không
phải chỉ v́ những ǵ không ai có thể tưởng
tượng nỗi đă xảy ra ở đây hồi
Tết Mậu Thân năm 1968. Đó là điều đáng
quở trách âm thầm cho tất cả chúng ta,
những người thừa hưởng một nền
văn hiến bốn ngàn năm. Những người
trong thời đại chúng ta gom nhặt được
những ư niệm trừu tượng chính trị mà
chỉ làm cho chúng ta rơi vào sự suy đồi
tệ hại nhất về việc vi phạm đạo
đức thời hiện đại, chẳng quan tâm ǵ
tới tính cách dă man của nó. Những
ǵ xảy ra ở Huế làm cho những ai c̣n là người
văn minh trên địa cầu nầy phải dành
nhiều phút giây ngừng nghỉ để tư duy
về những điều đă được
khắc ghi, cùng với những tai họa khủng
khiếp khác về những hành động dă man
của người đối với người
sẽ không bao giờ quên được và trở thành
một dấu ấn sâu sắc trong ḍng lịch sử
nhân loại. Huế
c̣n chứng tỏ một điểm khác nữa về
điều là người ta không có ǵ phải ngần
ngại khi cố áp dụng những biện pháp chính
trị để theo đuổi một cách nông cạn
việc thực hiện giấc mơ xây dựng
một xă hội "hoàn hảo". Một
cách tự nhiên, những điều xảy ra ở
Huế là vài sự thống kê mau lẹ và nhạy
cảm. Cuối cùng, lực lượng quân sự
Cộng sản lên tới 12 ngàn người đă
tấn công Huế ngay đêm mồng một tết (30
tháng 1 năm 1968), chiếm thành phố 26 ngày và
cuối cùng bằng hành động quân sự họ
bị đánh bật ra khỏi nơi họ chiếm
đóng. Trong
trận tấn công nầy, 5 ngàn 8 trăm người dân
thường bị giết và mất tích. Đến bây
giờ tất cả họ coi như đă chết.
Từ đó, thi hài họ được t́m thấy
lẻ tẻ hay trong những ngôi mộ tập thể
ở những vùng chung quanh Huế - Trung tâm văn hóa
Việt Nam - thuộc tỉnh Thừa Thiên. Đó
chỉ là những dữ kiện chính yếu, những
thống kê quan trọng, chẳng vui ǵ khi nói về
Huế, là điều được viết xuống
bằng thứ ngôn ngữ b́nh thường của báo
chí, rơ ràng chẳng gây được ấn tượng
ǵ cho tinh thần và lương tâm của nhân loại.
Chẳng có tiếng thét đầy uất hận nào! Và
các ṭa đại sứ của Cộng sản Bắc
Việt Nam trên thế giới đều im hơi
lặng tiếng. Ngoài
tiếng thở dài cay đắng, người dân
sẽ nói cho quí vị hay những ǵ về Huế mà
thế giới đă không biết tới, và nếu có
biết, họ cũng chẳng quan tâm. Trận
chiến Trận
đánh Huế là một phần trong Chiến dịch
Đông-Xuân của Cộng sản năm 1967-68.Toàn bộ
chiến dịch chia làm ba giai đoạn: 1/
Giai đoạn 1 gồm các tháng 10, 11 và tháng 12 năm
1967 được gọi là phương pháp hợp
đồng chiến đấu, có nghĩa là trên toàn
bộ chiến trường, thực hiện các
trận tấn công riêng rẽ vào các vị trí cố
định hay trung tâm quân sự của phe Đồng
Minh. Các trận đánh ở Lộc Ninh thuộc
tỉnh B́nh Long, Dakto thuộc tỉnh Kontum và Cồn Tiên
ở Quảng Trị, ba nơi nầy thuộc vùng
rừng núi của Nam Việt Nam, gần biên giới
Camphuchia và Lào là kiểu mẫu những trận đánh
chính của giai đoạn 1. 2/
Giai đoạn 2 thuộc các tháng Giêng, 2 và 3 năm 1968
bao gồm việc ứng dụng một cách rộng
lớn phương pháp chiến đấu độc
lập, có nghĩa là mở nhiều cuộc tấn công
bằng các đơn vị thiện chiến nhỏ và
đồng thời khắp một vùng địa lư
rộng lớn, sử dụng các đơn vị tinh
nhuệ nhất cũng như kỹ thuật tiến
bộ nhất trong chiến tranh du kích. Trong khi Giai đoạn
1 lực lưọng tác chiến chính là quân Cộng
sản Bắc Việt (Khoảng 55 ngàn người
đang hoạt động ở Nam Việt Nam). Ở
Giai đoạn 2 th́ sử dụng quân Giải phóng Nam
Việt Nam. Cao điểm của Giai đoạn 2 là
cuộc tấn công Tết Mậu Thân qua đó 70 ngàn
quân tấn công 32 trung tâm đông dân cư nhứt
ở Nam Việt Nam, gồm cả Huế. 3/
Giai đoạn 3 gồm các tháng 4, 5 và 6 năm 1968
chủ yếu là phối hợp hai phương pháp tác
chiến của hai giai đoạn trên, tạo thành cao
điểm trong các trận đánh lớn. Do bắt
được tài liệu nên biết đây là điều
Cộng sản gọi là đợt hả Có khả năng
đó là Khe Sanh, căn cứ Thủy Quân Lục
Chiến/HK ở phía đông-bắc Nam Việt Nam,
hoặc có lẽ là Huế. Không có cuộc tấn công
đợt 2 chính là v́ những trận đánh trong Giai
đoạn 1 và 2 đă không phát triển được
như Cộng sản hy vọng. Tuy nhiên, chiến
cuộc đạt tới thời kỳ đẫm máu
nhứt trong ṿng tám năm sau đó, kể từ
trận Mậu Thân Huế hồi tháng Hai cho đến
khi rút khỏi cuộc bao vây Khe Sanh vào mùa hè tiếp
theo cùng năm đó. Trong
ba tháng nầy, quân Mỹ thương vong trung b́nh 500 người
một tuần, phía Việt Nam Cộng Ḥa th́ gấp
đôi, phía Việt Cộng và Cộng sản th́
gần 4 ngàn một tuần(cao hơn phía Mỹ 8
lần). Cộng
sản bắt đầu "Chiến dịch Đông-Xuân"
với khoảng 195 ngàn quân của các lực lượng
quân sự chính của Việt Cộng và Cộng
Sản Bắc Việt xâm lược. Trong ṿng 9 tháng
họ bị tiêu vong 85 ngàn người. "Chiến
dịch Đông-Xuân" của Cộng sản là một
cố gắng hoàn toàn nhằm bẻ găy sức
mạnh chính yếu của Quân đội Nam Việt
Nam để chính quyền phải thay đổi
đường lối, cùng với lực lượng
Đồng minh trong những thành phố bị bao vây và
chỉ có khả năng pḥng thủ. Nói một cách chính
xác hơn, trận đánh ở Huế thuộc giai
đoạn 1 hơn là giai đoạn 2 khi Cộng
sản áp dụng kế hoạch hợp đồng tác
chiến và sử dụng quân Cộng sản Bắc
Việt hơn là quân du kích Việt Cộng. Có nghĩa
là về phía Cộng sản họ sử dụng
rộng răi hai sư đoàn quân Cộng sản Bắc
Việt: Sư đoàn số Năm 324 B cộng thêm các
tiểu đoàn chính, một số đơn vị du kích
cùng 150 "chính ủy và cán bộ". Trận
đánh Huế sơ lược có những phát
triển chính như sau: Khởi
đầu tấn công chủ yếu với hai tiểu
đoàn 800 và 802 cùng với lực lượng bí
mật xâm nhập trước. Đến sáng sớm ngày
đầu tiên, Cộng sản kiểm soát toàn bộ
thành phố ngoại trừ Bộ Tư lệnh Sư
đoàn 1/BB (thành Mang cá) và khu phái bộ Cố vấn
HK (MACV). Ngay hôm đó quân Việt Mỹ tiến vào
Huế tăng cường và pḥng thủ các nơi
kể trên. Cộng sản tăng cường tiểu
đoàn 804 với ư đồ chặn đứng các
lực lượng tăng phái Mỹ-Việt. Cộng
sản không thực hiện được ư đồ
nầy. Hai địa điểm trên được
củng cố mạnh mẽ và không c̣n bị đe
dọa nghiêm trọng nữa. Trận đánh trở thành
cuộc bao vây. Quân Cộng sản ở trong Thành
Nội và khu thành phố phía tây. Liên quân Mỹ
Việt ở ba phía kia, bao gồm cả khu phía nam sông
Hương, đẩy quân Cộng sản ra khỏi thành
phố, khởi thủy là với hy vọng dùng pháo
binh và không kích. Nhưng v́ thành Huế xây dựng quá
vững chắc nên quân Cộng sản vẫn giữ
được vị trí của họ. Họ chỉ có
thể bị đánh bật bằng chiến thuật
chiến tranh trong thành phố, cận chiến từng
nhà, từng khu, lâu dài và tiêu hao. Tới
tuần lễ thứ ba của tháng Hai (1968), việc bao
vây thành phố đă thực hiện xong; quân dội
VNCH và TQLC Mỹ tiến chiếm từng thước
đất trong Thành Nội. Tới sáng ngày 24 tháng Hai,
binh sĩ Sư đoàn 1/BB VNCH đă hạ được
lá cờ Cộng sản treo trên cột cờ Ngọ Môn
24 ngày. Cuộc phản công đă thắng lợi,
mặc dù các cuộc chạm súng lẻ tẻ vẫn c̣n
xảy ra bên ngoài thành phố. Tại trong thành phố,
Cộng sản thương vong 2 ngàn 5 trăm người
và trong cuộc truy kích bên ngoài Huế, một con
số tương tự đă bị giết. Phía Đồng
minh có 357 người chết. T́m
kiếm Sau
khi trận đánh chấm dứt, nhiều xáo trộn
vẫn tiếp diễn. Mệnh lệnh đầu tiên
là khẩn cấp cứu trợ dân chúng, trước
hết là thực phẩm, thuốc chích ngừa và
thuốc bệnh, v.v... Tiếp theo là cố gắng giúp
dân xây dựng lại nơi cư ngụ. Sau đó th́
lo kiểm điểm thương vong. Sau cuộc
tấn công, không có cuộc kiểm tra dân chúng thật
sự nào được thực hiện. Tới tháng
Ba/1968, nhà cầm quyền cho biết có 1.900 dân thường
được đưa vào bệnh viện v́ thương
tích chiến tranh và khoảng 5.800 người bị
Cộng sản bắt đi mất tích. Nơi
đầu tiên t́m thấy các nạn nhân Cộng
sản là sân trường Trung Học Gia Hội vào sáng
ngày 26 tháng Hai; tổng cộng có 170 xác người
đă được t́m thấy ở đây. Mấy
tháng sau, người ta t́m thấy thêm 18 nơi chôn
tập thể, lớn nhất là khu ở gần chùa Tăng
Quang (67 thi thể), Băi dâu (77), khu Chợ Thông (khoảng
100), khu lăng tẩm (201), Thiên Hàm (khoảng 200), Đồng
Gi (khoảng 100). Nh́n chung, khoảng 1.200 thi thể t́m
thấy trong những hầm hố đào lấp
vội vă. Ít
ra, một nửa những vụ t́m kiếm nầy cho
thấy có sự giết chóc nầy tàn ác. Tay bị trói
bằng dây thép gai buột ra sau lưng, giẻ nhét vào
miệng, thân xác không c̣n nguyên vẹn nhưng không có
dấu vết bị thương (Cho thấy là bị
chôn sống). Có gần 600 xác chết khác có dấu tích
bị thương nhưng không có cách nào để xác
minh họ bị bắn hàng loạt hay thương vong
v́ tên bay đạn lạc. Nhóm
lớn thứ nh́ được t́m thấy tại
quận Phú Thứ năm 1969 tại vùng những đồi
cát và Lệ Xá tây, quận Phú Thứ, làng Văn Ḥa,
Xuân Dương vào cuối tháng Ba, tháng Tư năm
1969. Cũng vào năm này, vào tháng Năm người ta
c̣n t́m thấy thêm nhiều ngôi mộ tập thể
ở quận Vinh Lộc và ở quận Nam Ḥa vào tháng
Bảy. Nhóm
lớn nhất t́m thấy là ở những đồi
cát của ba làng Vinh Lưu, Lệ Xá đông, và Xuân
Ổ; đây là vùng đồi cát liên tiếp nhau,
nhiều đụn cỏ, ở gần biển Đông. Cách
xa cách vùng đầm nước mặn, đây là nơi
thuận tiện để chôn tập thể. Hơn 800
người t́m thấy ở khu nầy. Tại
các ngôi mộ trong vùng đồi cát nầy, người
ta thấy nạn nhân bị trói thành từng nhóm 10
hoặc 12 người, sắp hàng bên cạnh những
cái hố do dân địa phương đào rồi
họ bị bắn bằng súng máy do Nga sản
xuất, (Người ta t́m được những
vỏ đạn cũ bên cạnh ngôi mộ). Thông thường
những người chết được chôn thành nhóm
ba bốn người nên rất khó phân loại. Nơi
t́m thấy lớn thứ ba là ở quận Nam Ḥa,
chỗ gọi là khe Đá Mài, hay là nơi người dân
Phú Cam bị giết, t́m thấy hôm 19 tháng 9 năm
1969. Cán binh Cộng Sản đào ngũ khai với viên
chức t́nh báo thuộc binh đoàn Không Kỵ 101
rằng họ đă chứng kiến việc giết hàng
trăm người ở khe Đá Mài, cách Huế 10
dặm về phía nam vào tháng Hai 1968. Khu nầy hoang vu,
không có dân cư, khó đến được. Đơn
vị Hoa Kỳ gởi tới đây một toán t́m
kiếm; họ báo cáo trong ḍng suối có rất
nhiều đống xương người chồng
chất lên nhau. Bằng
nhiều tin tức gom góp được, người ta
đoán được những ǵ xảy ra ở khe
Đá Mài. Vào hôm mồng 5 Tết, tại khu Phú Cam, nơi
có khoảng 40 ngàn dân, hầu hết theo đạo Thiên
Chúa, chiếm 3/4 dân số thành phố, chạy vào nhà
thờ tránh súng đạn như ở Việt Nam người
dân thường làm. Thực ra, nhiều người
trong số đó không phải là người có đạo. Cán
bộ Cộng sản vào nhà thờ bắt đi
khoảng 400 người,một số th́ có tên sẵn
c̣n một số th́ theo nhân dạng mà bắt (trông có
vẻ giàu có, sang trọng, trung niên chẳng hạn).
Cộng Sản tuyên bố họ được
đưa "vào vùng giải phóng để học
tập chính trị trong ṿng ba ngày, sau đó, sẽ
được tha về". Họ
được dẫn đi 9 cây số, tới một
ngôi chùa nơi Cộng sản đặt bộ Chỉ
huy. Hai chục người được gọi ra trước
cái gọi là “ṭa án cách mạng”, bị tố cáo là
có tội, bị hành quyết và chôn ngay trong sân chùa.
Những người c̣n lại được
đưa qua sông và giao cho đơn vị Cộng
sản địa phương, có lẽ họ muốn
những người nầy được" cải
tạo và được tha về sau", nhưng có
lẽ v́ t́nh h́nh biến chuyển nên họ không c̣n
kiểm soát được nữa. Bảy
ngày sau đó, không rơ số lượng bao nhiêu,
cả người bắt và người bị bắt
đi về một vùng quê. Và để không cho ai
thấy, người bị bắt bị dẫn qua
những vùng núi non lởm chởm nhất miền Trung
Việt Nam, tới khe Đá Mài. Tại đây họ
bị bắn hay bị đập đầu, xác bị
đạp xuống ḷng khe! Binh
đoàn 101 Không vận HK thấy không thể dùng
đường bộ đến khe Đá Mài được.
Tàng lá cây dày đặc, ở Việt Nam người
ta gọi đó là cái lọng đôi, nghĩa là có hai
tàng lá, một ở gần mặt đất, gồm cây
và bụi rậm và một tàng lá cao, che phủ bên trên.
Bên dưới đó chỉ có ánh sáng mờ mờ. Công
binh Quân đội Hoa Kỳ cho trực thăng bay lưng
chừng bên trên rồi tḥng chất nổ xuống qua
khỏi các tàng lá cây và nổ để những
chiếc trực thăng dùng làm máy bay hốt cốt có
thể đáp xuống được. Rơ ràng Cộng
sản dùng nơi nầy làm nơi giết người
kín đáo mà không cần chôn cất. Trên một đoạn
khe dài hơn một trăm mét là sọ, xương người
chồng lên nhau (những người tin có linh hồn
nằm chết lẫn lộn trong đó, linh hồn
sẽ lang thang cô đơn vĩnh viễn v́ họ
chết mà không được chôn), trong ṿng 20 tháng, nước
suối chảy đă làm cho xương sạch trơn
và trắng bạch. Sau
đó, chính quyền địa phương đưa
ra một danh sách gồm 428 người, xác nhận
rằng đó là tên những người chết ở
khe Đá Mài. Về phía Cộng sản th́ họ tuyên
bố rằng đó là những “phần tử
phản cách mạng”. Danh sách 428 người đó thành
phần gồm có: 25% là quân nhân: Có 2 sĩ quan. Số
c̣n lại 25% là học sinh, sinh viên; 50% là công chức,
viên chức xă ấp, làm nghề cá nhân nhiều
loại khác nhau và thợ. Khu
vực lớn thứ tư t́m được hồi tháng
11/1969 thuộc quận Phú Thứ, gần làng đánh cá
Lương Viên, cách Huế 10 dặm, ở về phía
đông, là vùng hoang vắng. Hồi đầu tháng
đó, quân chính phủ cố gắng quét sạch các
bộ phận Cộng sản c̣n lại ở làng
nầy. Dân làng, khoảng 700 người, sợ
Cộng sản trả thù nên không dám khai báo ǵ. Sau
đó (khoảng 20 tháng sau biến cố tàn sát),
họ mới dám dẫn viên chức chính quyền đi
t́m. Căn cứ trên trí nhớ không mấy chính xác
của họ, viên chức chính quyền địa phương
phỏng đoán có khoảng từ 300 đến 1 ngàn
người bị giết ở đây. Câu
chuyện đau thương nầy vẫn chưa
chấm dứt. Nếu số dự đoán của chính
quyền địa phương là gần đúng th́ c̣n
khoảng 2 ngàn người vẫn c̣n mất tích. Sau
cuộc chiến, chính quyền Nam Việt Nam: VNCH tính
phỏng thương vong dân sự trong trận đánh
Huế là 7,600 người. Tuệ
Chương (Theo Douglas Pike) |