Mao
Trạch Đông (1893 - 1976) Tần Thủy Hoàng của
Thế Kỷ 20 Phạm Văn Tuấn |
||
Mao
Trạch Đông là nhà lănh đạo xuất sắc
của nước Trung Hoa Cộng Sản, đă tham
dự rất nhiều trận mạc trong thời
kỳ nội chiến, đă đưa Đảng
Cộng Sản Trung Hoa tới thắng lợi và đẩy
lui Quốc Dân Đảng cùng quân đội của Tướng
Tưởng Giới Thạch (Jiang Jieshi) qua ḥn đảo
Đài Loan. Kể từ năm 1943, Mao Trạch Đông
đă duy tŕ một địa vị độc tôn
trong Bộ Chính Trị của Đảng Cộng
Sản Trung Hoa và từ năm 1945, là nhân vật không
thể bị thay thế trong Ủy Ban Trung Ương
của đảng C.S. kể trên. Vào
ngày 01 tháng 10 năm 1949 tại Quảng Trường Thiên
An Môn ở Bắc Kinh (Tiananmen), Mao Trạch Đông
đă công bố cho toàn thế giới biết việc
thành lập nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (the
People's Republic of China) rồi kể từ năm đó,
Mao không ngừng theo đuổi công việc cải
tiến nước Trung Hoa thành một xứ sở hùng
mạnh và thịnh vượng. Tuy nhiên, các phong trào hay chiến dịch cải cách của Mao, chẳng hạn như chiến dịch "Chống Cánh Hữu" (the Anti-Rightist Campaign), phong trào "Bước Đại Nhẩy Vọt" (the Great Leap Forward) (1958-59) và cuộc "Cách Mạng Văn Hóa" (the Cultural Revolution) (1966-69) đă đưa nước Trung Hoa vào các mê hồn trận của ư thức hệ, khiến cho đất nước này tụt hậu so với các nước đang phát triển Kể
từ cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1839-42), Trung Hoa
đă bị nhiều nước bên ngoài chèn ép. Mao
Trạch Đông đă dùng nhiều chiến thuật và
quân đội nhân dân trang bị ư thức hệ
Cộng Sản để chiếm chính quyền,
chấm dứt cảnh nghèo khó của người dân,
xóa đi các tàn tích xâm lăng của phương tây.
Vào lúc đầu của thời kỳ cách mạng, Liên
Xô đă giúp đỡ rất tích cực Trung Hoa và
đảng cộng sản của Mao, nhưng quan hệ
này dần dần trở nên căng thẳng và bị
chấm dứt trước khi xẩy ra cuộc Cách
Mạng Văn Hóa. Từ khi là Chủ Tịch của nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, Mao Trạch Đông đă được tôn thờ cá nhân, được gọi là "Vị Lănh Tụ vĩ đại", "Vị Cứu Rỗi của nước Trung Hoa" (Savior of China)... Sự tôn thờ v́ sức mạnh ư thức hệ này c̣n lan ra bên ngoài đất nước khiến cho Trung Hoa mất đi nhiều cơ hội phát triển kinh tế. 1/ Thuở
Thiếu Thời.
Mao
Trạch Đông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1893, trong
một gia đ́nh trung lưu, thuộc làng Thiểu Sơn
(Shaoshan) huyện Tương Đoàn (Xiangtan) tỉnh
Hồ Nam (Hunan). Ông Tổ của Mao đă từ
tỉnh Giang Tây (Jiangxi) di cư tới đây trong
thời đại nhà Minh, lập gia đ́nh với người
địa phương và làm nghề nông. Thân
phụ của Mao là Mao Châu Thẩm, một nông dân có tính
t́nh vừa tiết kiệm, vừa tham lam và bà mẹ tên
là Vương Kim Muội, một người đàn bà
siêng năng, hiểu biết và tốt bụng. Mao
Trạch Đông là con trưởng, được cha
cho đi học v́ ông ta vốn mù chữ, cần
tới người con biết viết để giúp
đỡ ông khi ghi chép công việc thương
mại. Trong
cuộc Cách Mạng Năm 1911, Mao đă tham gia vào quân
đội địa phương của tỉnh Hồ
Nam, nhưng v́ không thích hợp với binh nghiệp, nên
Mao đă trở về đi học tại Trường
Sa (Changsha) và tốt nghiệp trường Sư
Phạm vào năm 1918. Vào dịp Phong Trào Ngũ Tứ
(the May Fourth Movement), Mao đă cùng với ông thầy
dạy trung học khi trước là Dương Trường
Tế (Yang Changji) đi lên Bắc Kinh. Sau
đó, ông Dương trở thành một nhân viên trong
Đại Học Bắc Kinh, nên đă giới
thiệu Mao Trạch Đông làm nhân viên phụ tá thư
viện của trường đại học, giúp
việc Lư Đại Siêu (Li Dazhao) khi đó làm quản
thủ thư viện. Vào thời gian này, Mao đă theo
học tại trường đại học, được
đọc nhiều bài văn của một số nhà
trí thức danh tiếng như Trần Độc Tú
(Chen Duxiu), Hồ Thích (Hu Shi) và Tiền Tuyển Đồng
(Qian Xuantong)... Cũng
tại thư viện của trường, Mao đă
đọc nhiều sách viết ra do các nhà trí thức
danh tiếng đương thời là Khang Hữu Vi
(Kang Youwei) và Lương Khải Siêu (Liang Qichao), cũng
như các bản dịch sang tiếng Hoa của các
vị này từ các sách của J.J. Rousseau, Montesquieu..., t́m
hiểu các tư tưởng của nhà cách mạng Tôn
Dật Tiên (Sun Yatsen) và học thêm lư thuyết Cộng
Sản. Vào
thời gian này, Mao đă kết hôn với người
bạn học là cô Dương Khai Tuệ (Yang Khaihui),
con gái của giáo sư Dương Trường Tế
kể trên, mặc dù Mao có một người vợ
tại quê nhà và đă không chấp nhận người
này v́ trước kia khi mới 14 tuổi, bị cha
bắt ép kết hôn với người vợ lớn hơn
4 tuổi đời. Sau đó, Mao đă không đi du học tại nước Pháp v́ nhà nghèo. Mao đă nói về sau rằng sở dĩ ông không muốn ra khỏi nước bởi v́ tin tưởng rằng các vấn đề khó khăn của Trung Hoa phải được nghiên cứu và giải quyết bên trong nước này và Mao đă t́m hiểu giới nông dân là đa số quần chúng rồi bắt đầu một cuộc đời theo cách mạng cộng sản. Vào
ngày 23 tháng 7 năm 1921, khi ở lứa tuổi 27, Mao
đă tham dự Hội Nghị Toàn Quốc của
Đảng Cộng Sản họp tại thành phố Thượng
Hải (Shanghai) và hai năm sau, trong kỳ họp
thứ ba của Hội Nghị kể trên, Mao được
bầu làm một trong năm ủy viên của Ủy
Ban Trung Ương Đảng. Mao
đă sống tại thành phố Thượng Hải
trong một thời gian bởi v́ đảng Cộng
Sản muốn cuộc cách mạng xẩy ra tại nơi
này. Nhưng sau khi đảng này gặp nhiều khó khăn
v́ tổ chức các phong trào lao động và khi
tiếp xúc với phe Trung Hoa Quốc Gia, Mao đă
vỡ mộng về cuộc cách mạng, nên đă
dời về quê nhà là Thiểu Sơn. Tại nơi này,
Mao được báo tin về các cuộc nổi
dậy vào năm 1925 tại Thượng Hải và
Quảng Châu. Sau đó, Mao đi Quảng Đông là căn
cứ của Quốc Dân Đảng, tham gia vào việc
chuẩn bị kỳ họp lần thứ hai của
Đại Hội Quốc Gia của Quốc Dân Đảng. Vào
đầu năm 1927, Mao trở lại Hồ Nam rồi
trong một kỳ họp của đảng Cộng
Sản, đă báo cáo về các khảo cứu các
cuộc nổi dậy của giới nông dân, đây là
bước khởi đầu và quyết định
để Mao áp dụng các lư thuyết cách mạng
của ḿnh tại Trung Hoa. 2/ Tư Tưởng
Cộng Sản.
Tại
Bắc Kinh và trước khi kết hôn với Dương
Khai Tuệ, Mao đă đọc ba cuốn sách dẫn
dắt tới niềm tin vào chủ nghĩa Mác Xít trong
số này có cuốn Bản Tuyên Ngôn của
đảng Cộng Sản (the Manisfesto of the Communist Party).
Tuy nhiên, Mao dần dần trở nên con người Mác
Xít sau khi đă đọc nhiều sách báo khác và vào năm
1920, Mao đă viết nhiều bài báo biện hộ cho
quyền tự trị của tỉnh Hồ Nam bởi v́
Mao tin tưởng rằng mỗi tỉnh tự trị
sẽ làm cho nước Trung Hoa giàu có và hùng mạnh hơn. Cũng
do đọc cuốn truyện Thủy Hử (Outlaws of the Marsh), một
trong bốn tác phẩm lớn của văn chương
cổ điển Trung Hoa, Mao đă đồng ư nên dùng
cách mạng bạo lực phối hợp với các
kinh nghiệm của cuộc Cách Mạng Nga, để
giai cấp vô sản dưới sự chỉ đạo
của đảng Cộng Sản, sẽ lật đổ
chế độ phong kiến và đế quốc. Vào
năm 1920, Mao đă giúp công vào việc nghiên cứu,
tuyên truyền và tổ chức các cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân thành thị, nhưng v́
giới này chỉ gồm một số nhỏ quần
chúng, và các cuộc nổi dậy không vơ trang không
thể giải quyết được các vấn đề.
V́ thế, Mao bắt đầu trông cậy vào giới
nông dân, điều chỉnh lư thuyết và thay đổi
cách áp dụng chiến lược, khiến cho họ
trở thành các kẻ ủng hộ đường
lối cách mạng bạo động, đây là sự
khác biệt giữa Mao và các người Trung Hoa theo
cộng sản trước kia và cùng thời. 3/ Cách Mạng Và
Chiến Tranh.
Vào
năm 1927, Mao Trạch Đông là người chỉ huy
cuộc Nổi Dậy Mùa Thu (the Autumn Harvest Uprising)
tại Trường Sa, thuộc tỉnh Hồ Nam, nhưng
cuộc bạo động này đă bị chính
quyền địa phương dẹp tan và Mao cùng
với một số đồng chí c̣n lại đă
bỏ chạy qua khu miền núi Tỉnh Cương Sơn
(Jinggang Mountains). Trên con đường rút lui, Mao đă
tổ chức lại đám tàn quân, thiết lập cách
tổ chức quân sự mới, chủ trương b́nh
đẳng giữa sĩ quan và binh lính và đảng
Cộng Sản có quyền tuyệt đối chỉ
huy quân lực. Tại
Tỉnh Cương Sơn, Mao đă thuyết phục
được hai tướng cướp địa phương
là Viên Văn Tài và Vương Tá theo ḿnh đồng
thời toán quân của Chu Đức (Zhu De) cũng
đến nơi này và sau đó, lập nên Đệ
Tứ Quân Đoàn của Hồng Quân Trung Hoa (the Red
Army) gồm các nông dân và công nhân. Trong
khoảng thời gian từ 1931 tới 1934, Mao giúp công vào
việc thành lập khu vực Xô Viết của Trung Hoa
và được bầu làm chủ tịch. Vào giai
đoạn này, Mao kết hôn với Hà Tú Trân (He Zizhen)
v́ người vợ trước là Dương Khai
Tuệ đă bị quân Quốc Dân Đảng bắt
và giết vào năm 1930. Tại vùng Xô Viết bị
bao vây này, Mao đă biến nơi đây thành nơi
ẩn náu của các người cộng sản đă
bỏ chạy khỏi thành phố, cùng với Chu Đức
đào tạo một đạo quân tuy nhỏ nhưng
tinh nhuệ, theo đuổi đường lối "du kích chiến" (youji
zhan). Nhưng rồi do áp lực của nhóm đảng
viên gọi là "28
người Bôn Xê Vích" (28 Bolsheviks)
chủ trương theo đường lối cộng
sản của Liên Xô, trong đó có cả Chu Ân Lai (Zhou
Enlai), Mao Trạch Đông đă mất địa
vị chỉ huy quan trọng.
Sau
cuộc Bắc Phạt (the Northern Expedition), Tướng
Tưởng Giới Thạch quyết định
trừ bỏ các người cộng sản. Vào tháng
10 năm 1934, quân đội cộng sản bị bao vây
và bị tấn công, phải bỏ chạy trong
cuộc Vạn Lư Trường Chinh (the Long March), rút lui
từ tỉnh Giang Tây (Jiangxi) ở phía đông nam,
về tỉnh Thiểm Tây (Shaanxi) thuộc miền tây
bắc của Trung Hoa. Trong cuộc hành tŕnh dài 9,600 cây
số này, Mao đă tỏ ra là nhà lănh đạo
rồi sau đó lại được Chu Ân Lai chạy
theo, phụ giúp. Trong kỳ đại hội đảng
Tuân Nghĩa (the Zunyi Conference) họp vào tháng 1 năm
1935 tại tỉnh Quư Châu, Mao Trạch Đông
được bầu vào Ủy Ban Thường Trực
của Bộ Chính Trị của đảng Cộng
Sản Trung Hoa (the Standing Committee of the Politburo of the
Communist Party of China). Từ
căn cứ Diên An (Yan'an), Mao Trạch Đông đă
chỉ huy cuộc kháng chiến của lực lượng
cộng sản chống lại quân đội Nhật
Bản trong cuộc chiến tranh Hoa Nhật lần
thứ hai (1937-45) và trong thời gian này, đă củng
cố địa vị của ḿnh vào năm 1942
bằng cách phát động chiến dịch Chỉnh
Phong (Cheng Feng) để loại ra các đối thủ
của ḿnh, trong số này có các đảng viên
cộng sản như Vương Minh (Wang Ming), Vương
Thế Duy (Wang Shiwei) và Đinh Ling (Ding Ling). Cũng
tại Diên An, Mao đă ly dị Hà Tú Trân (He Zizhen) và
kết hôn với một nữ diễn viên sân khấu
tên là Lam Tần (Lan Ping), người mà sau này
được biết bằng tên Giang Thanh (Jiang Qing). Trong
cuộc chiến tranh Hoa Nhật, các chiến lược
của Mao là chống lại phe Quốc Dân Đảng
của Tướng Tưởng Giới Thạch và
chống Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đă coi Tướng Tưởng
là một đồng minh quan trọng, có thể đánh
bại quân đội Nhật Bản, sớm làm
kết thúc chiến tranh trong khi Tưởng Giới
Thạch cũng t́m cách củng cố quân đội
Quốc Dân Đảng để đối đầu
với lực lượng cộng sản sau Thế
Chiến Thứ Hai. Cả hai phe phái này đă bị
chỉ trích là đều t́m cách đánh phá lẫn
nhau hơn là chống lại quân xâm lăng Nhật. Về
sau, nhà sử học Willy Lam đă xác nhận rằng
trong cuộc chiến chống Nhật Bản: "Đa số các
tổn thất do quân đội Quốc Dân Đảng
phải chịu đựng, mà không phải là các sư
đoàn cộng sản. Mao và các nhà lănh đạo du kích
khác đă quyết định vào thời gian đó
rằng cần phải bảo toàn sức mạnh để
dùng cho một cuộc "đấu tranh to lớn hơn"
diễn ra tại khắp nơi trên miền đất
Trung Hoa một khi quân đội của đế
quốc Nhật Bản đă bị tiêu diệt bởi
các lực lượng đồng minh do Hoa Kỳ
chỉ huy". Sau
khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, Hoa Kỳ
vẫn tiếp tục ủng hộ Tướng Tưởng
Giới Thạch để ngăn chặn làn sóng
cộng sản và từ nay bắt đầu cuộc
nội chiến. Đồng thời, Liên Xô cũng
tiếp tế một cách kín đáo cho Hồng Quân
Trung Quốc, với tư cách là một nước lân
bang mà không phải là một nước đồng
minh, bởi v́ Liên Xô muốn tránh đi các tranh
chấp có thể xẩy ra với Hoa Kỳ. Vào
ngày 21 tháng 1 năm 1949, lực lượng quân sự
Quốc Dân Đảng bị tổn thất nặng
nề trước Hồng Quân của Mao Trạch Đông
rồi vào sáng ngày 10 tháng 12 năm 1949, Hồng Quân
đă bao vây Thành Đô (Chengdu) là căn cứ cuối
cùng của lực lượng Quốc Dân Đảng.
Tướng Tưởng Giới Thạch và toàn thể
quân dân đi theo phải di tản qua ḥn đảo
Đài Loan vào cùng ngày này. 4/ Lănh Đạo
Nước Trung Hoa.
Nước
Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa được thành lập vào
ngày 01 tháng 10 năm 1949 sau 2 thập niên nội
chiến và chiến tranh quốc tế. Mao Trạch
Đông đă là Chủ Tịch (Chairman) của nước
cộng ḥa này từ năm 1954 tới năm 1959 và thường
được gọi là Mao Chủ Tịch (Chairman Mao)
hay Vị Lănh Tụ Vĩ Đại Mao Chủ Tịch
(the Great Leader Chairman Mao). Kể từ ngày thành lập
kể trên, đảng Cộng Sản Trung Hoa đă
kiểm soát toàn thể các phương tiện
truyền thông và dùng các phương tiện này vào
việc quảng cáo h́nh ảnh của Mao Chủ
Tịch và của Đảng trong khi đó cũng bôi
nhọ Tướng Tưởng Giới Thạch và các
quốc gia khác như Hoa Kỳ và Nhật Bản. Đảng
Cộng Sản cũng hô hào người dân Trung Hoa
phải dốc toàn lực để xây dựng và
củng cố đất nước. Mỗi người
dân đều được cấp phát một
cuốn sách nhỏ gọi là "Mao Tuyển" (the
Quotations from Chairman Mao Tse-Tung) để
học thuộc ḷng các lời dạy của Mao Chủ
Tịch và để thảo luận tại trường
học cũng như tại nơi làm việc, bởi v́
đảng Cộng Sản Trung Hoa cho rằng cuốn sách
nhỏ này chứa đựng sự thật không
thể sai lầm. Từ
năm 1949, Mao Chủ Tịch cư ngụ trong khu
vực Trung Nam Hải (Zhongnanhai), bên cạnh Cấm Thành
(the Forbidden City) trong thành phố Bắc Kinh. Mao thường
làm việc trên giường hay bên cạnh một
hồ bơi xây bên trong nhà. Sau khi đă nắm
quyền lực, Mao đă phát động chiến
dịch tập thể hóa ruộng đất (collectivization)
cho đến năm 1958, đất đai của các
địa chủ và nông dân giàu có đều bị
tịch thu và đảng Cộng Sản Trung Hoa bắt
đầu kiểm soát giá cả, ấn định cách
viết chữ "giản thể" (character simplification) để
làm giảm đi nạn mù chữ. Các dự án kỹ
nghệ hóa cũng được bắt đầu. Ngoài
các chương tŕnh xóa bỏ tư hữu, thay đổi
các kiến trúc hạ tầng, c̣n có Chiến Dịch Trăm
Hoa Đua Nở (the Hundred Flowers Campaign) qua
đó Mao đă cho người dân biết rằng
họ có thể đóng góp các ư kiến khác nhau
về cách quản trị đất nước Trung
Hoa. V́ được tự do bày tỏ quan điểm,
các nhà trí thức hay các đảng viên cấp
tiến bắt đầu phản đối đảng
Cộng Sản và đặt nhiều vấn đề
với giai cấp lănh đạo. Vào
lúc đầu, công việc đóng góp ư kiến c̣n
được dung thứ và ngay cả khuyến khích nhưng
vài tháng sau, chính quyền cộng sản liền
trở mặt và đă hành hạ 500,000 người,
đây là các người dám chỉ trích hay dự tính
phê b́nh Đảng. Nhiều nhà sử học cho
rằng chiến dịch Chống Cánh Hữu (the
Anti-Rightist Movement) này là một quỷ kế để
nhổ tận gốc các tư tưởng "nguy hiểm". Các học giả khác
như Bác Sĩ Lư Chí Tuy (Dr. Li Zhisui) lại tin rằng
vào lúc đầu, Mao muốn dùng cách này để làm
lộ ra các đảng viên chống đối ḿnh
rồi khi phong trào chỉ trích lan rộng thêm, th́ đây
là phương pháp để nhận diện và rồi
hành hạ các kẻ dám chống đối chính
quyền. 5/ Phong Trào "Bước
Đại Nhẩy Vọt".
Vào
tháng 1 năm 1958, Mao Trạch Đông phát động
một kế hoạch 5 năm, được gọi là
phong trào Bước
Đại Nhẩy Vọt (the Great Leap Foward) .
Đây là một kiểu mẫu phát triển kinh tế
khác biệt với kiểu mẫu của Liên Xô chú
trọng vào kỹ nghệ nặng mà một số
đồng chí trong Đảng đă ủng hộ. Theo
chương tŕnh kinh tế này, các tập thể nông
nghiệp nhỏ sẽ được tập hợp thành
các công xă nhân dân (people's communes) to lớn hơn
nhiều, tại nơi đây các nông dân được
lệnh phải làm việc trong các dự án hạ
tầng cơ sở lớn lao và trong các nơi sản
xuất sắt thép nhỏ. Tất cả sản
xuất thực phẩm tư nhân đều bị
cấm đoán, gia súc và dụng cụ nông nghiệp
được tập trung và sở hữu tập
thể. Trong
phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt này, Mao và
một số lănh tụ đảng đă ra nhiều
mệnh lệnh bổ túc về các kỹ thuật nông
nghiệp mới, cho các công xă mới, nhưng các
kỹ thuật kể trên chưa từng được
thí nghiệm và không đủ tính khoa học, thêm vào,
cách phân bố lao động cho sản xuất thép và
các dự án hạ tầng cơ sở, cùng với
hệ thống công xă mới mẻ, đă làm cho
sản lượng thực phẩm giảm đi 15% vào
năm 1959 và giảm 10% vào năm 1960. Để lấy ḷng các cấp trên và để tránh bị thanh trừng v́ không hoàn thành chỉ tiêu, các cán bộ cấp dưới đă ngụy tạo các thành quả tốt đẹp, thổi phồng sản lượng lúa gạo. Kết quả của cách báo cáo sai, sự ưu tiên dành nông phẩm cho xuất cảng hay khu vực thành thị, cộng với các vụ hạn hán tại một số địa phương, các trận ngập lụt tại các nơi khác, đă khiến cho nông dân của nhiều tỉnh đă không có đủ ăn, hàng chục triệu (tens of millions) người dân đă bị chết đói trong các năm từ 1959 tới năm 1962 và đây là nạn chết đói lớn nhất của nhân loại. Trong
khi đó, dù cho định số thép sản xuất có
gia tăng, nhưng loại sắt thép này đă trở
thành vô dụng v́ được nấu ra từ
mọi loại sắt vụn tại các ḷ đúc trong
sân sau nhà mà không có kỹ thuật chế tạo đúng
cách. Theo anh Trương Nhung Mỹ (Zhang Rongmei), một
giáo viên thuộc miền quê Thượng Hải cho
biết trong thời kỳ này: "chúng tôi gom tất
cả các nồi niêu soong chảo hiện có trong nhà, và
các người láng giềng cũng làm như vậy,
chúng tôi bỏ tất cả vào ngọn lửa lớn
để làm chảy ra thành kim loại". Phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt đă là một "thảm họa" cho nước Trung Hoa, ngay cả với các đập nước, các kênh đào hay các dự án hạ tầng cơ sở mà hàng triệu nông dân và tù nhân đă phải làm việc cực khổ và một số đă phải bỏ mạng, tất cả đă trở thành vô dụng v́ không được xây dựng theo đúng kỹ thuật do các kỹ sư có khả năng, bởi v́ những người này đă bị Mao loại bỏ v́ thiếu niềm tin ư thức hệ. Vào
thời kỳ đó, một số nhà báo phương
tây chỉ được tới thăm các công xă
kiểu mẫu và đă bị lường gạt
về thành tích của các vụ thu hoạch. Cho tới
năm 1984, nhà nhân chủng học người Mỹ là
Giáo Sư Judith Banister tin rằng số người Trung
Hoa chết đói sau năm 1959 là 30 triệu, trong khi các
nguồn tin khác lại cho các con số tử vong từ
20 tới 43 triệu. Trong kỳ Đại Hội Đảng họp tại Lư Sơn (Lushan) trong các tháng 7 và 8 năm 1959, nhiều lănh tụ đảng cho biết Bước Đại Nhẩy Vọt đă không thành công như dự trù. Mao đă đổ lỗi sự thất bại này là do Bộ Trưởng Quốc Pḥng Bành Đức Hoài (Peng Dehuai) và các người dưới quyền của ông ta. Về
phương diện quốc tế, sau khi Stalin qua đời
vào năm 1953 và Krushchev lên thay thế, nước Trung
Hoa bị cô lập nhiều hơn v́ sự rạn
nứt Trung Xô (the Sino-Soviet split) với kết quả là
Krushchev đă ra lệnh rút tất cả các chuyên viên
kỹ thuật và các trợ giúp của Liên Xô ra
khỏi Trung Quốc. Sự
rạn nứt này do các tranh chấp biên giới, do các
tranh căi về ai có quyền kiểm soát và đặt hướng
đi cho tổ chức Cộng Sản Quốc Tế và
các tranh chấp liên quan tới chính sách ngoại giao. Từ
lâu trước khi Mao Trạch Đông kiểm soát
được đảng Cộng Sản Trung Hoa, Stalin
đă tự coi ḿnh là người kế thừa
xứng đáng của Lenin với các tư tưởng
Mác Xít chính thống và đúng đắn, và trong khi
Stalin c̣n sống, Mao Trạch Đông không hề dám thách
đố về chủ nghĩa với Stalin. Nhưng sau
khi Stalin đă qua đời, Mao tin tưởng rằng
quyền lănh đạo đường lối Cộng
Sản Quốc Tế sẽ truyền tới tay Mao,
một phần v́ thâm niên trong hệ thống đảng,
một phần cũng do Mao tin rằng ḿnh hiểu rơ hơn
về ư thức hệ Mác Xít. Trong
khi đó Krushchev đang đứng đầu một chính
quyền có ưu thế hơn cả về chính
trị lẫn quân sự, v́ vậy đă có sự căng
thẳng giữa hai nhân vật cấp cao này và sự
liên lạc giữa Liên Xô và Trung Cộng bị suy
giảm và tới lúc này, Trung Quốc phải đối
đầu với các đe dọa mới từ Liên Xô
tại phía bắc và phía tây. Trung Quốc c̣n bị bao
vây một phần do các căn cứ quân sự của
Hoa Kỳ đặt tại Nam Triều Tiên, Nhật
Bản, Okinawa và Đài Loan. Sau
các thất bại của chương tŕnh Bước
Đại Nhẩy Vọt, Bộ Chính Trị của
Trung Quốc họp vào tháng 1 năm 1961 và đă
quyết định đặt Mao Trạch Đông vào
vị trí phía sau, và các nhà lănh đạo ôn ḥa hơn
như Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi) và Đặng
Tiểu B́nh (Deng Xiaoping), sẽ cứu văn nền kinh
tế bằng cách giải tán các công xă nhân dân
(people's communes), cho phép nông dân có quyền kiểm soát
một mảnh đất nhỏ, và nhà nước
Trung Hoa đă nhập cảng ngũ cốc từ nước
Canada và châu Úc để giảm bớt các ảnh
hưởng xấu của nạn đói. 6/ Cuộc Cách
Mạng Văn Hóa.
Sau
các thất bại của phong trào Bước Đại
Nhẩy Vọt khiến cho 30 triệu người dân
chết đói và đây là nạn đói lớn lao
nhất trong lịch sử của nhân loại, các nhân
viên cao cấp của đảng Cộng Sản Trung
Hoa, kể cả Lưu Thiếu Kỳ và Đặng
Tiểu B́nh, đă quyết định rằng Mao không
được nắm thực quyền mà chỉ
giữ vai tṛ tượng trưng và nghi lễ. Vào năm
1959, Lưu Thiếu Kỳ trở nên Chủ Tịch Nước
c̣n Mao vẫn là Chủ Tịch (Chairman). Lưu Thiếu
Kỳ và một số cộng sự viên bắt đầu
cứu xét các hoàn cảnh của đất nước
Trung Hoa một cách thực tế hơn và như
vậy, đă loại bớt các lư tưởng mà Mao
đă từng mong đợi. Đứng
trước viễn ảnh bị mất đi địa
vị chính trị, Mao Trạch Đông đă phản
ứng lại các công tác của Lưu Thiếu Kỳ
và Đặng Tiểu B́nh bằng cách phát động
cuộc Cách Mạng Văn Hóa
(the Cultural Revolution) vào năm 1966. Bằng cách
này, Mao đă không dùng tới hệ thống đẳng
cấp của đảng Cộng Sản, mà điều
khiển trực tiếp các thanh niên trẻ dưới
20 tuổi, gọi là Hồng Vệ Binh (the Red Guards),
để họ lập nên các ṭa án xét xử riêng. Cuộc
cách mạng này đă đưa tới hậu quả là
Hồng Vệ Binh đă tàn phá phần lớn các di
sản văn hóa của Trung Hoa, đă hành hạ và
nhốt tù một số rất lớn các cựu đảng
viên và các nhà trí thức, đồng thời tạo nên
các t́nh trạng hỗn loạn về kinh tế và xă
hội tại tất cả các thành phố và miền
quê. Hàng triệu người đă bỏ mạng trong
giai đoạn này. Cũng
vào giai đoạn Cách Mạng Văn Hóa, Mao đă
chọn Lâm Bưu (Lin Biao) là người kế vị
của ḿnh. Người ta không biết rơ có phải Lâm
Bưu dự trù một cuộc đảo chánh hay
một kế hoạch ám sát Mao hay không, nhưng kết
quả là Lâm Bưu bị chết trong một tai
nạn máy bay rớt trên miền xa mạc của Mông
Cổ. Tại Trung Hoa, người ta đă công bố
rằng Lâm Bưu dự tính hạ bệ Mao, v́ vậy
sau khi chết, ông ta đă bị khai trừ khỏi
đảng Cộng Sản Trung Hoa. Vào lúc này, Mao
Trạch Đông không c̣n tin tưởng các nhân vật
hàng đầu của đảng Cộng Sản. Cuộc
Cách Mạng Văn Hóa được Mao công bố
chấm dứt vào năm 1969, nhưng các nhà sử
học của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa lại cho
rằng cuộc cách mạng này kết thúc vào năm
1976 khi Mao qua đời. Trong
các năm cuối của cuộc đời, Mao gặp
cảnh sức khỏe suy kém một phần do bệnh
Parkinson, một phần do bệnh dây thần kinh (motor
neurone disease) (theo như lời của Bác Sĩ riêng Lư
Chí Tuy), cộng với bệnh tim và bệnh phổi do
hút nhiều thuốc lá. Vào thời gian này, Mao đành
thụ động, khiến cho các phe nhóm trong đảng
Cộng Sản Trung Quốc tranh giành quyền lực. 7/ Mao Qua Đời.
Trong
nhiều tháng trường trước khi chết,
sức khỏe của Mao đă suy giảm và ông ta không
thể xuất hiện trước công chúng. Mao qua
đời, thọ 82 tuổi, vào ngày 9 tháng 9 năm
1976, lúc 10 phút quá nửa đêm, tại Bắc Kinh. Thi
hài của Mao được quàn tại Đại
Sảnh Đường Nhân Dân (the Great Hall of the People) và
một buổi lễ Tưởng Niệm được
tổ chức tại Quảng Trường Thiên An Môn vào
ngày 18/ 9/1976. Về
sau, xác của Mao được đặt trong "Lăng Mao Trạch Đông" (the
Mausoleum of Mao Zedong) mặc dù trước kia, ông ta đă
từng ước mong được hỏa táng theo như
đề nghị vào tháng 11 năm 1956, là các nhà lănh
đạo trung ương sẽ được hỏa
táng sau khi chết (the Proposal that all Central Leaders be Cremated
after death). Sau
khi Mao qua đời và theo như nhiều người tiên
đoán, đă có một cuộc tranh giành quyền
lực giữa các phe nhóm để kiểm soát nước
Trung Hoa. Một bên, được gọi là các kẻ
khuynh tả (the leftists) do nhóm Tứ Nhân Bang (the Gang of Four = Bè Lũ Bốn Tên) đứng
đầu là Giang Thanh, những người này muốn
tiếp tục chính sách quần chúng cách mạng đấu
tranh. Phía bên kia là các kẻ khuynh hữu (the rightists)
gồm hai nhóm: nhóm thứ nhất do Hoa Quốc Phong (Hua
Guofeng) chủ trương trở về phương pháp
hoạch định trung ương (central planning) cùng
với kiểu mẫu Liên Xô, nhóm thứ hai là các người
cải tổ (reformers) do Đặng Tiểu B́nh dẫn
đầu, muốn canh tân nền kinh tế của Trung
Hoa căn cứ vào các chính sách hướng về
thị trường (market-oriented policies) và không đề
cao các "ư thức hệ
Mao-ít" khi quyết định các chính sách
kinh tế và chính trị. Cuối
cùng, nhóm ôn ḥa và Đặng Tiểu B́nh đă
thắng nhóm Tứ Nhân Bang và nhóm Hoa Quốc Phong trong
một cuộc tranh quyền không đổ máu. 8/ Tôn Thờ Lănh
Tụ Mao.
Nhiều
người Trung Hoa cho rằng Mao Trạch Đông là
một đại lănh tụ trong phần trước nhưng
hư hỏng vào phần sau của cuộc đời.
Khi c̣n sống, Mao đă khiến cho mọi người
dân phải tôn thờ ḿnh. Mao đă tạo nên các h́nh
ảnh chứng tỏ rằng ḿnh là kẻ thù của
các địa chủ, của các thương gia, kẻ
thù của các đế quốc Hoa Kỳ và phương
Tây, đồng thời là bạn của các nông dân và
công nhân nghèo khó. Khi sự tôn thờ lên tới điểm
cao nhất, Mao được người dân ca tụng
là Bậc Thầy vĩ đại, Vị Lănh Tụ vĩ
đại, Vị Chỉ Huy Tối Cao vĩ đại
và Nhà D́u Dắt vĩ đại (the Four Greats: Great
Teacher, Great Leader, Great Supreme Commander, Great Helmsman). Có
người cho rằng sự tôn thờ cá nhân đi ngược
với các ư tưởng căn bản của chủ
nghĩa Mác Xít. Tuy thế, Stalin đă bắt đầu
các công việc ca tụng chính ḿnh và Lenin, mặc dù
Lenin đă nói không muốn hậu thế dựng nên các
đài kỷ niệm sau khi ông ta qua đời. Nhân
cuộc Đại Hội Đảng năm 1958 họp
tại Thành Đô (Chengdu), Mao đă nói: "Có hai loại tôn
thờ cá nhân. Một loại tôn thờ tốt, đó
là đề cao các nhân vật như Marx, Engels, Lenin và
Stalin, bởi v́ họ đă cầm được chân
lư trong tay (they hold the truth in their hands). Loại kia là tôn
thờ xấu nghĩa là tôn thờ không phân tích và mù
quáng". Vào
năm 1962, Mao đề nghị Phong Trào Giáo Dục Xă Hội Chủ Nghĩa (the
Socialist Education Movement) để bảo
vệ giới nông dân khỏi bị chế độ
phong kiến cám dỗ và tránh khỏi mầm mống
của chế độ tư bản mà ông ta đă nh́n
thấy hiện đang nhú lên tại các miền quê. 9/ Đời Tư
Của Mao Trạch Đông.
Các
đảng viên Cộng Sản cao cấp là những
kẻ được hưởng rất nhiều đặc
quyền, đặc lợi một cách rất kín đáo,
nên đời tư của họ không được
người dân biết đến. Họ thường
là những con người tàn bạo, nhiều thủ
đoạn, phạm nhiều tội lỗi, tham nhũng,
dâm đăng và hư hỏng nhưng khéo léo che dấu bên
ngoài và thường được mô tả sai sự
thực. Mao Trạch Đông cũng không ra ngoài thông
lệ này và các bí ẩn về đời sống
của Mao đă được mô tả một
phần do vị y sĩ riêng là Bác Sĩ Lư Chí Tuy. Mao
Trạch Đông đă bị mất anh em, vợ và các
con v́ chiến tranh và cách mạng, nên trở thành con người
không xúc động trước các đau khổ
của người khác. Hàng triệu người dân
Trung Hoa chết đói sau phong trào Bước Đại
Nhẩy Vọt, các thảm cảnh xẩy ra cho người
yêu cũ, cho các đồng chí cũ như các trường
hợp bi thương của Lưu Thiếu Kỳ, Bành
Đức Hoài, Hạ Long... đă không hề làm Mao
bận tâm, và các người phục vụ cho Mao đều
bị quản chế, không cho tiếp xúc với bên ngoài
để có thể tiết lộ đời tư
của nhà độc tài dâm đăng này. Các
cựu đồng chí hay nhân viên dưới quyền
đă từng cộng tác hay phục vụ Mao khi không
tuân hành mệnh lệnh, thường bị loại
bỏ, nhốt tù, nhiều khi bị tiêu diệt do các
chỉ thị gián tiếp của Mao và trong hoàn
cảnh Mao cần đến tài năng của họ, vài
người nếu c̣n sống sót có thể được
gọi trở lại để phục vụ một cách
lạnh lùng như đối với những người
chưa hề quen biết. Mao đă từng đọc
nhiều sách viết về các hoàng đế Trung Hoa
khi trước, nên biết rơ các cách tàn bạo
của cổ nhân. Đối
với quần chúng bên ngoài, Mao cho thấy ḿnh sống
rất giản dị nhưng thực ra, đă hưởng
thụ rất nhiều xa hoa. Mao sống trong một ṭa
nhà có hồ bơi bên trong, trong khu vực Trung Nam
Hải và không tiếp xúc với dân chúng đói
khổ bên ngoài, những hiểu biết về dân t́nh
là do các nhân viên tin cậy của Mao cung cấp sau khi
họ đi điều tra sự việc. Sau khi nắm
chức vụ tối cao, Mao chỉ ra ngoài bằng xe
lửa riêng, chế tạo đặc biệt với các
tiện nghi xa hoa tại Đông Đức. Trong thời
kỳ nạn đói khủng khiếp, các cán bộ
địa phương đă trồng gấp các
ruộng lúa tươi tốt dọc theo hai bên
đường xe lửa mà Mao sắp đi qua để
xác nhận các thành quả rực rỡ do chính sách nông
nghiệp khôn ngoan của vị Đại Lănh Tụ. Cũng
thế, nhiều tỉnh ủy địa phương
cạnh tranh nhau trong việc xây dựng các ṭa nhà riêng
đầy đủ tiện nghi dành cho Mao Chủ
Tịch, nhiều ṭa nhà này chưa từng được
Mao đến thăm. Mao
chỉ ngủ trên một chiếc giường gỗ
to lớn, chế tạo đặc biệt, được
chở đi bằng xe lửa khi Mao đi du hành, kê vào
trong ṭa nhà khi Mao nghỉ qua đêm và chuyên chở
bằng máy bay tới Moscow khi Mao thăm viếng Liên Xô.
Đồ ăn đăc biệt trồng trọt trong
một nông trại gần Bắc Kinh cũng được
chở tới nơi Mao đang đi công tác và các món
ăn đều được nếm thử trước.
Mao ưa thích ăn bánh bao (bao zi) và một loại cơm
hấp, với nước tương (soy sauce). Nhiều
người tin rằng Mao sống một cuộc đời
không có bạn bè, v́ vậy đảng và các cơ
quan chính trị thường hay cạnh tranh với nhau
trong việc tuyển lựa các thiếu nữ trẻ
đẹp, có nguồn gốc nông dân vô sản, có cơ
thể khỏe mạnh để mua vui cho vị Đại
Lănh Tụ. Hàng tuần vào chiều ngày Thứ Tư,
một buổi dạ vũ được tổ
chức để Mao thoải mái và trong khung cảnh vui
tươi này, Mao sẽ chọn một thiếu nữ
để ngủ qua đêm bởi v́ Mao là một con người
rất dâm đăng. Ngoài ra c̣n có các cuộc tranh tài bóng
bàn tổ chức bên trong ṭa lâu đài để Mao
giải trí. Sức
khỏe của Mao là một bí mật tuyệt đối
nhưng cũng là điều mà mọi người
muốn biết khi vị đại lănh tụ này c̣n
sống. Mao mắc bệnh lo lắng, trầm cảm,
mất ngủ, thường xuyên phải dùng thuốc
an thần với liều lượng cao và không hề
quan tâm tới thời gian trong ngày, bởi thế các nhân
viên thân cận của Mao phải túc trực v́ có
thể bị gọi tŕnh diện bất cứ lúc nào
khi cần, không cần biết ngày hay đêm. Mao
hiếm khi tiếp đón các chính khách nước ngoài. Mao
không bao giờ tắm, thường lau ḿnh bằng khăn
tẩm nước nóng v́ vậy, theo cuốn sách "Đời Tư
của Mao Chủ Tịch" (the Private Life of Chairman Mao) của
Bác Sĩ Lư Chí Tuy, Mao đă truyền bệnh hoa
liễu cho hàng ngàn thiếu nữ, khiến cho các bác sĩ
luôn luôn bận việc chữa trị cho họ. Trong
cả đời, Mao không bao giờ chải răng mà
ưa thích xúc miệng bằng nước trà xanh,
khiến cho răng lợi bị nhiễm trùng. Sức
khỏe suy yếu của Mao đă được
dấu kín tối đa, lại được quảng
cáo bằng các h́nh ảnh Mao bơi lội trên ḍng sông
Dương Tử. 10/ Di Sản
Của Mao Trạch ĐÔNg.
Nhiều
người đă tranh luận về di sản của
Mao Trạch Đông kể từ khi Mao qua đời vào
năm 1976. Các người Hoa hiện đang sinh
sống trên lục địa tiếp tục coi Mao là
vị kiến trúc sư chính đă xây dựng lại
nước Trung Hoa mới. Họ tin rằng Mao là
một lănh tu vĩ đại lúc ban đầu nhưng
bị hư hỏng (corrupt) và đă phạm phải các
lỗi lầm to lớn khi đă nắm quyền
lực và nhất là về phần cuối đời.
Theo ông Đặng Tiểu B́nh, Mao đúng 70% và sai 30%,
và phần đóng góp được coi là chính,
phần lỗi lầm bị coi là phụ. Một
số đảng viên cộng sản lại coi Mao
chịu trách nhiệm về việc kéo nước Trung
Hoa ra xa nước đồng minh cộng sản là Liên
Xô trong khi các người chủ trương tách
khỏi Liên Xô bị coi là theo con đường tư
bản chủ nghĩa. Có
người chỉ trích Mao đă không khuyến khích
việc kiểm soát sinh đẻ v́ trong khoảng
thời gian từ cuộc Chiến Tranh Nha Phiến
tới cuộc Nội Chiến, dân số Trung Hoa là 400
triệu đă tăng lên 57% thành 700 triệu, và về
sau các nhà lănh đạo kế tiếp đă phải
đưa ra chính sách "mỗi gia đ́nh một con". Nói
chung, mọi người đều công nhận rằng
phong trào "Bước Đại
Nhẩy Vọt" và cuộc "Cách Mạng Văn Hóa" đă
là các "thảm họa" chính do các chính
sách của Mao. Những
người ủng hộ Mao cho rằng nhờ có Mao, nước
Trung Hoa chấm dứt được "100 Năm Tủi
Nhục" (a Century of Humiliation) khỏi các
đế quốc tây phương và trở nên một
cường quốc, và nền kinh tế và xă hội
của nước Trung Hoa được phát triển.
Họ cho rằng trước năm 1949, tỉ lệ mù
chữ ở lục địa Trung Hoa là 80% và tuổi
thọ ở mức 35 tuổi, nhưng sau khi Mao qua đời,
tỉ lệ mù chữ c̣n 7% và người dân sống
lâu trên 70 tuổi. Mao cũng được coi là có công
trong việc cải tiến các quyền lợi của
phụ nữ, bằng cách tiêu hủy nạn măi dâm
và nạn này đă quay trở lại khi ông Đặng
Tiểu Binh và các nhà lănh đạo Trung Quốc sau Mao,
đă cho phép nền kinh tế được hưởng
tự do. Thực ra, nạn mù chữ và tuổi thọ
đều được cải tiến tại các
quốc gia gần với Trung Hoa như Đài Loan,
Ấn Độ, nhưng Trung Hoa tiến bộ hơn
về nền y tế nông thôn và công việc phân
phối thực phẩm công cộng. Mao
c̣n được coi là nhà chiến thuật và chính
trị xuất sắc trong cuộc Nội Chiến và
chiến tranh Triều Tiên, với các bài viết về
quân sự đă ảnh hưởng lớn tới
những người muốn tạo ra các cuộc
nổi loạn cũng như t́m hiểu cách dẹp
nổi loạn, và trái lại, ư thức hệ của
Mao th́ không thể áp dụng được v́ thường
gây ra kinh hoàng. Loại ư thức hệ này đă
ảnh hưởng tới vài quốc gia cộng
sản kể cả các phong trào nổi dậy của các
quốc gia thuộc thế giới thứ ba, như
miền Bắc Việt Nam, Căm Bốt (Khmer Đỏ),
Peru (Con Đường Sáng = Shinning Path), Nepal với
phong trào cách mạng, với kết quả là cảnh tàn
sát hàng triệu sinh mạng như tại Căm
Bốt, cảnh giết hàng trăm ngàn nạn nhân vô
tội trong cuộc đấu tố địa chủ
tại miền Bắc Việt Nam, và đặc biệt
trong trận chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), do
sự chấp thuận của Mao, Bắc Hàn đă xâm
lăng Nam Hàn gây ra cảnh đổ máu, với
một triệu binh lính Trung Cộng chết v́ chiến
đấu cho Bắc Hàn, trong số này có cả người
con trai của Mao là Mao Ngạn Anh (Mao Anying). Từ
khi Mao qua đời, nước Trung Hoa đă đi
lệch khỏi "chủ nghĩa Mao Ít" (Maoism) và
nhiều người cho rằng các cải tiến do ông
Đặng Tiểu B́nh là cách phản bội những
di sản (legacy) của Mao Trạch Đông. Một
cuốn sách đă chỉ trích Mao Trạch Đông
nặng nề, đó là cuốn "Mao: Câu Chuyện Chưa
Biết" (Mao: the Unknown Story) do Jung Chang và
Jon Halliday. Các tác giả này tin rằng Mao đă "chế tạo" ra
các huyền thoại về quá khứ và tuổi
trẻ của ḿnh, làm tốt đẹp h́nh ảnh ḿnh
biến thành một "anh hùng của nhân dân" (people's hero) trong
khi thực sự, Mao là một con người tàn ác, và
các biến cố của cuộc Vạn Lư Trường
Chinh đều sai sự thực.
Lănh tụ độc tài giết
nhiều người nhất (số triệu) Xem ra th́ cả Hitler và Stalin
cộng lại cũng chỉ khoảng một nửa
của Mao Trạch Đông Qua
thế kỷ 21, người dân Trung Hoa không c̣n
phải học hỏi các lư thuyết cộng sản
của Mao nữa. Trong lần kỷ niệm ngày Giỗ
thứ 25 của Mao, chính quyền Trung Cộng chỉ
nhắc nhở sơ sài đến "Mao Chủ Tịch", trái
hẳn với các cuộc mít tinh và hội thảo
được tổ chức rầm rộ vào năm
1993 nhân 100 ngày Sinh của Mao. Không
giống như Nikita Khrushchev đă từng lên án "chế độ bạo tàn" của
Joseph Stalin, chính quyền Trung Cộng không chính thức
phủ nhận các chiến thuật của Mao. Vào
giữa thập niên 1990, h́nh chân dung của Mao Trạch
Đông đă được in trên loại tiền "nhân dân tệ" (renminbi)
nhưng vào ngày 13 tháng 3 năm 2006, tờ Nhân Dân
Nhật Báo (the People's Daily) tường thuật rằng
đă có đề nghị thay thế chân dung của
Mao trên loại tiền nhân dân tệ kể trên,
bằng các chân dung của hai ông Tôn Dật Tiên và
Đặng Tiểu B́nh. Phạm Văn Tuấn Tài
liệu tham khảo: Wikipedia.org.; Britannica Encyclopedia. https://en.wikipedia.org/wiki/Mao_Zedong |
||