MỘT CHUYẾN VƯỢT ĐẠI DƯƠNG Nguyễn Hữu Huấn |
Một lần
nữa tôi trở lại Singapore. Cái quốc gia nóng
nực, chật chội và nhỏ bé không đủ gây
trong tôi những xúc động nào đó mỗi khi tôi
trở lại. Có chăng là những kỷ niệm
của 3 tháng sống trong trại tỵ nạn, sau 4 ngày lênh
đênh trên biển cả và được tàu Nhân
Đạo CAP ANAMUR I cứu sống vào tháng đầu
năm 1980. Chỉ một năm sau, tôi trở lại thành
phố này với một trạng thái khác, với
những bồi hồi xúc động đặc
biệt xen lẫn chút ít kiêu hănh trong một công tác
đặc biệt : tháp tùng tàu CAP ANAMUR trở lại
biển Đông t́m kiếm và cứu vớt thuyền
nhân Việt Nam vượt biển t́m Tự Do. Cũng
từ ngày đó, tôi đă được công nhận
trở nên một thành viên của Ủy Ban CAP
ANAMUR, một danh xưng mà măi đến bây giờ trên
thế giới vẫn xưng tụng rằng : CAP ANAMUR
- một biểu tượng Nhân Đạo của
thế kỷ thứ hai mươi. CAP ANAMUR chỉ
là tên một cảng nhỏ của Thổ Nhĩ
Kỳ, nằm trên bờ biển Địa Trung Hải
và tự nó không mang một ư nghĩa ǵ. Người
ta đă đặt tên nó cho một chiếc tàu b́nh
thường cũng như những con tàu hàng khác. Nhưng
nhiệm vụ Nhân Đạo cao cả của nó đă
làm vang danh tên CAP ANAMUR trên thế giới. Từ
một "Ủy Ban Một Con Tàu Cho Việt Nam"
(1979) đến "Ủy Ban Các Bác Sĩ Cấp
Cứu Đức" (1981) và sau cùng, khi con tàu CAP ANAMUR
I bị ép buộc phải chấm dứt nhiệm
vụ trở về cảng mẹ Hamburg (1982) mang
theo 258 thuyền nhân VN - sau khi đă cứu vớt
tổng cộng 9.507 thuyền nhân Việt Nam trong 3 năm
- th́ Ủy Ban đă đổi tên thành "” Ủy
Ban CAP ANAMUR ”". Tàu Nhân Đạo
thứ hai này mang tên đăng bộ REGINE, nhưng
đă được gọi là CAP ANAMUR II - nối
tiếp CAP ANAMUR I - tiếp tục sứ mạng Nhân
Đạo cao cả của ḿnh, và tôi trở lại
Singapore để kịp chuyến hành tŕnh cứu người
ngoài biển Đông. Khác hẳn với
4 năm trước, ngoài những nỗi xúc cảm tràn
đầy được t́m về lại với
Quê Hương Việt Nam, cho dù vẫn c̣n xa khơi,
để được thấy tận mắt người
dân ḿnh mang đầy nỗi đớn đau vẫn c̣n
hiển hiện trên nét mặt khô cằn, bờ vai
nặng trĩu đau thương, được nh́n lại
h́nh ảnh của chính ḿnh cũng trên những
chiếc thuyền sông nhỏ bé chật ních người,
bất chấp hiểm nguy và sau cùng được
đóng góp như một hạt cát nhỏ bé trong
cả một sa mạc thể hiện t́nh người,
t́nh đồng hương máu đỏ da vàng – tôi
c̣n mang theo trong tâm tư một chút hănh hiện của một
kẻ ra đi làm chứng nhân cho những cuộc hành
tŕnh vô tiền khoáng hậu của Dân Tộc tôi
trên bước đường đi t́m một Tự
Do thật sự. Trong suốt
cuộc hành tŕnh, tôi đă thấy những khuôn
mặt hốc hác xanh xao vẫn c̣n lo sợ khi
vừa được vớt lên tàu, những khuôn
mặt Việt Nam thật là Việt Nam, những khuôn
mặt chưa xóa bỏ kịp những nhục
nhằn khổ ải v́ mới chạy thoát
khỏi tù đầy chưa đến 30 tiếng đồng
hồ. Tôi biết bên tôi c̣n có 358 người
Việt Nam vừa được cứu sống trong
chuyến đi của tôi và cả thủy thủ đoàn
trên tàu. Họ là người Đức, người
Ba Lan, người Thổ Nhĩ Kỳ. Thủy thủ
đoàn vỏn vẹn 8 người, 3 quốc
tịch, th́ có đến 3 người trước kia
cũng là dân tỵ nạn. Họ trốn từ
Đông Đức, từ Ba Lan và họ cũng là
những chứng nhân bên tôi, v́ họ cũng đă
nh́n thấy h́nh ảnh của chính họ khi vượt trốn
qua bức tường ô nhục năm nào. Tôi chợt
thấy ḿnh hăng hái và tự tin hơn nữa.... Trong 6 tuần
lễ lênh đênh trên biển Đông, chúng tôi đă
cứu được 8 ghe vượt biên với
358 thuyền nhân Việt Nam. Lớn tuổi nhất 66,
nhỏ nhất chỉ 17 ngày. Ghe đi lâu nhất 5
ngày, ghe sớm nhất chỉ 20 tiếng đă
được cứu sống và biển động
có khi lên đến cấp 8....Tôi được
thấy tận mắt những giọt nước
mắt mừng rỡ không ngăn kịp khi tôi vừa
bước lên chiếc ghe nhỏ của những
con người Việt Nam ấy. Trong chuyến đi này,
tôi cũng không đơn thân độc mă trong khi thi hành
nhiệm vụ v́ có sự tiếp tay của hai anh
Dương Phục và Nguyễn Tất Hiền thuộc
Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Việt Biển
từ Hoa Kỳ sang. Hai anh đă không nề hà bất
cứ công việc ǵ để phụ tôi săn sóc
đời sống cho 358 người Việt trên tàu.
Thật ra phải nói rằng 361 người tỵ
nạn mới đúng – như tôi thường nói
với vị thuyền trưởng như thế - v́
cả 3 anh em chúng tôi cũng đă từng lênh
đênh trên sóng gió hăi hùng, cũng giáp mặt với
bọn hải tặc dă man, cũng đă gào lên
những tiếng thét cầu cứu năo nề. 358 người
Việt vừa được vớt lên không khác cha
mẹ chúng tôi, là cô bác chúng tôi, là anh chị chúng
tôi, là những đứa em chúng tôi và là những
người con yêu quư của chúng tôi. Chúng tôi có cùng
một nhịp tim với nhau, nhịp tim của cùng
một gịng máu Việt Nam. Cũng chính v́ cùng một
nhịp tim đó, tôi đă kêu gọi tất cả
mọi người trên tàu sống và đối
xử với nhau sao cho xứng đáng ḿnh là gịng
giống Việt Nam, cho dù ngày tháng lênh đênh trên
tàu dài lê thê không đầy đủ tiện nghi cho
đến khi tàu cập bến. Mỗi người trên
tàu đều có một trách nhiệm cho nhau. Toán
nấu cơm ngày 3 bữa, toán vệ sinh trên boong và
hai bên tàu, mỗi tuần hai lần tổng vệ
sinh, toán trực quan sát phụ với tôi để t́m
kiếm ghe vượt biển, toán thông dịch
phụ giúp nhân viên y tế săn sóc sức khỏe
đồng bào, thậm chí có cả ban văn nghệ,
ban múa và đầu lân. Tất cả sống cùng
một nhịp sống, chia sẻ vui buồn trong
suốt lộ tŕnh dài hơn 3 tháng cho đến
khi trở về cảng Hamburg. Giai đoạn
đầu khi tàu c̣n trong vùng t́m kiếm, v́ được
lệnh kéo dài thời gian nên lương thực
bị thiếu hụt, các b́nh "gaz" nấu ăn
cũng cạn dần, ngoại trừ gạo.
Một quyết định nhanh chóng của Ủy Ban :
mua cá tươi ngay trên biển Đông, đồng
thời câu ghe vượt biên lên tàu mỗi khi
vớt được để chẻ ra làm củi
nấu ăn. Thế là có các toán đặc trách mua cá,
toán làm cá, toán chẻ củi được thành
lập. Cưa, đục, búa... được xử
dụng tối đa.Tôi đă bắt gặp những
khuôn mặt năo nề, những đôi mắt rưng
rưng ngấn lệ của người dân nước tôi
đứng nh́n chiếc ghe của ḿnh đang bị
chặt thành những mảnh vụn làm củi hay đang
bốc cháy bừng bừng, rồi dần dần ch́m
hẳn xuống ḷng đại dương, cuốn
theo biết bao nhọc nhằn bôn ba cho những tháng
ngày toan tính vượt biển đă qua. Mỗi
chiếc ghe là một h́nh ảnh của Quê Hương,
mỗi chiếc ghe là một linh hồn của gia đ́nh.... Thôi ! ngậm ngùi
bỏ lại tất cả, tiếc thương chăng
là tiếc thương những thân thuộc
ruột thịt, anh em, bè bạn bị bỏ lại
đằng sau trên bước đường
tẩu thoát. Ḷng tôi như co quắp lại khi nghe câu
nói đầu tiên của một anh tài công vừa
được cứu vớt : "Vợ con em bị
lọt lại khi lên cá lớn, không biết bây giờ
ra sao ? Bị bắt hay chết ngoài cửa
biển...." Tôi nh́n thấy biết bao đôi
mắt đỏ hoe, nước mắt tràn trụa
ngay mũi tàu, nơi được dùng làm nhà bếp.
Dân tôi đă khóc không những v́ mấy tấm ván trát
đầy dầu chai đen đủi được
xẻ ra làm củi nấu cơm, mà cũng đang khóc
v́ biết rằng ḿnh đă được cứu
sống khi thần chết gần kề, v́ biết
rằng mỗi một phút qua đi là một chút nhích
xa quê hương thêm một đoạn đường,
để rồi nhắm mắt nuốt đi cơn
hận thù. Mua cá tươi
- không phải đơn giản như người
ta nghĩ. Phải làm sao t́m gặp được
những ghe đầy cá đang trên đường
trở về bến, ghe không neo lại v́ tàu
lớn không cặp gần được và quan
trọng nhất là ghe phải đi riêng lẻ, không
theo hợp đoàn. Những ngư phủ Việt
Nam - Bắc Trung Nam có cả. Họ hỏi tôi những
câu thăm ḍ: "Anh người Việt Nam hả ? Tàu
anh chạy đi đâu ? Cho tôi gởi theo thằng
nhỏ này nghe.....? ". Tôi nh́n họ chăm chăm,
một thoáng nghi ngờ, một chút thương
tâm. Có tiếng nói của một thanh niên đang đứng
sau tôi : "Tụi này là công an biên pḥng giả
dạng đánh cá đó ! Chúng nó bắt
được bọn em là đời bọn em tàn
luôn !!! ". Tôi yên lặng, cái yên lặng của
một căm hờn câm nín...Một giỏ táo xanh, vài
cây thuốc lá "Marlboro" từ trên tàu bỏ
xuống, rồi từng giỏ cá hồng, ca đao...kèm
theo tiếng vỗ tay la hét từ chếc ghe đánh cá
phía dưới được kéo lên. Tôi thu góp
tiền Việt Nam mà đồng bào mang theo pḥng thân
trên đường chạy trốn. Hàng bó tiền vô
giá trị ấy cũng
được ném xuống theo....mua bán không cần
trả giá, như một chút ǵ trao đến
niềm an ủi nhỏ bé và dân tôi trên tàu có
được thêm chút thức ăn tươi mát. Có hai ngư phủ
lợi dụng trong lúc bán cá đă đu dây lên tàu Cap
Anamur. Tôi yêu cầu họ xuống, trả họ
về với chiếc ghe đánh cá của họ.
Họ là ai ? Là những người thực
sự đi t́m Tự Do hay với một ư đồ nào
khác ? Cái ǵ sẽ đến với họ khi
họ trở về bến đậu ? Tôi không t́m ra
được câu trả lời cho chính tôi. Tôi
cầm loa nói với họ rằng : "Các anh
muốn đi với chúng tôi th́ cả 8 người các
anh phải đồng ư để chúng tôi đục
ch́m ghe.....C̣n không th́ bán cá xong, xin các anh cho ghe
chạy đi ! ". Ngay lúc đó tôi thấy ba
bốn người xúm lại to nhỏ với nhau bàn
bạc, rồi bỗng có tiếng máy nổ, có
tiếng hô chặt giây và chiếc ghe từ từ
tách khỏi con tàu. Cám ơn các anh đă cho tôi
một lối giải quyết nhanh chóng nhất.
Nếu các anh thật sự là người "bên
kia", các anh hăy trở về với cái mà các anh
vẫn gọi là "thiên đàng" của các
anh, v́ chúng tôi không thể sống được
với cái "thiên đàng" đó. Nếu các
anh thực sự có cùng một tâm tư, cùng một
hoài vọng như chúng tôi, th́ xin Trời Phật phù
trợ cho các anh trở về đất liền
được an b́nh và xin các anh hiểu cho chúng tôi, v́
luật lệ vẫn là luật lệ. Tàu được
lệnh chấm dứt công tác, trở về Singapore.
Tiến Sĩ Rupert Neudeck, người sáng lập
Ủy Ban CAP ANAMUR lên tàu, mang theo những nỗi khó
khăn v́ các quốc gia Tây phương không muốn
nhận thêm người tỵ nạn nữa, cho dù
họ đă được tàu vớt. Chính quyền
Phi không cho phép 358 thuyền nhân trên tàu xuống
nhập trại tỵ nạn. Canada hứa nhận 100
người, đến phút chót vẫn không có một
văn bản. Úc bác bỏ lời kêu nài nhận thêm
người của Ủy Ban và Hoa Kỳ đến
giờ phút này cũng vẫn im hơi lặng
tiếng. Mọi người trên tàu hoang mang lo lắng.
Dân nước tôi bỗng nghi ngờ và ngạc nhiên trước
thái độ của các quốc gia mang danh Tự
Do. Một vài người đă bi quan nghĩ đến
việc sẽ bị gởi trả về Việt Nam v́
không quốc gia nào nhận nữa.... Người ta lơ
là và chối bỏ một sự thật hiển nhiên
là dân tôi thà chết hơn là sống trong cảnh
bị áp bức tù đầy. 358 người dân nước tôi
vừa được cứu thoát, nay đang bị
họ t́m cách làm tiêu tan đi những y vọng
mong manh được đến vùng đất hứa
của Tự Do. Một thanh niên trong nỗi thất
vọng tận cùng đă tự nhào xuống biển Singapore
t́m cái chết, bỏ lại người vợ
hiền và hai cháu bé. Không biết lúc này thế
giới đă bừng tỉnh lại hay chưa ?....... Các
anh Dương Phục, Nguyễn Tất Hiền và tôi
vừa từ phố trở về tàu, nghe hung tin trong bàng
hoàng xót xa. Tôi đă nói với một kư giả Tây Phương
rằng : " Vâng ! Con tàu CAP ANAMUR này đă cứu
sống anh ấy và đến bây giờ nhiều
quốc gia trên thế giới đă giết
chết anh..." Thế rồi Tiến Sĩ Rupert
Neudeck đă đi đến quyết định tối
hậu : trực chỉ cảng mẹ Hamburg với 357
người c̣n lại. Đó là ngày 25.7.1986.
Cuộc hành tŕnh sẽ kéo dài khoảng 6 tuần, vượt qua
Ấn Độ Dương, thẳng đến phía nam
Châu Phi, băng qua biển Đỏ, xuyên kinh đào
Suez, đi dọc bờ biển Tây Ban Nha, tiến lên phía
Bắc....Hơn 18.000 cây số đường biển,
con đường ngắn nhất Từ Singapore đến
Hamburg, đoạn đường xa xôi diệu vợi
của "357 người Việt Nam-Do Thái"
đi đến vùng đất hứa, chắc chắn
chứa đầy băo táp sóng gió của đại dương.
Một chuyến hải hành không hẹn đối
với dân tôi trên tàu. Nhưng c̣n cách nào hơn nữa
? Như vậy có nghĩa lại một lần nữa,
con tàu CAP ANAMUR lại bị những áp lực có
chủ ư bắt buộc phải quay về và chấm
dứt công tác Nhân Đạo của ḿnh. Hai anh Dương
Phục và Nguyễn Tất Hiền cũng chia tay từ
giă trở về Hoa Kỳ khi tàu cập bến
Singapore. Những giọt nước mắt tiễn
đưa của t́nh đồng hương,
biết bao giờ gặp lại nhau hả hai anh ? Cám
ơn hai anh đă thổi vào ḷng bà con ḿnh những
luồng hơi ấm và t́nh tự Dân Tộc khi
họ vừa chân ướt chân ráo được
cứu vớt lên tàu. Cám ơn hai anh đă thu vào
ống kính những khuôn mặt, những lời nói
chân thành nhất của bà con ḿnh để chứng
minh cho mọi người biết đến tất
cả sự thật hàng ngày diễn ra ngoài biển
Đông này. Xin gởi hai anh một chút ǵ đó
của Quê Hương ḿnh, chúng ta sẽ gặp
lại nhau một ngày nào đó, xây dựng lại
con đường Tự Do, bồi đắp thêm con
đường Công Lư của Sài G̣n thưở nào....
Và rồi tôi ở lại một ḿnh cùng với bà con trên
cuộc hành tŕnh về Hamburg. Hàng chục bao đường,
hàng trăm bao gạo, từng thùng trái cây, nước
mắm, đồ hộp, thịt đông lạnh
với hàng chục thùng quần áo do người
Singapore hảo tâm sửa soạn cho cuộc hành tŕnh
mà đối với bà con đó là cuộc hành tŕnh có
một không hai trong đời người. Thế có nghĩa là
đại đa số trong 357 người dân tôi
sẽ định cư tại Đức và chính
phủ Đức "bắt buộc" phải
tiếp nhận số người này, v́ họ
đă được một con tàu mang quốc tịch
Đức cứu vớt, chủ tàu là người
Đức và cảng mẹ cũng trong nước
Đức. Các tiểu bang trong nước
Đức có trách nhiệm bắt buộc phải san
sẻ cưu mang họ và công nhận họ là
những người tỵ nạn thực sự.
Tất cả 357 người không ai nói và hiểu
được tiếng Đức, may ra được
vài ba người biết sơ qua về con người
và xă hội của Đức qua sách vở. Mỗi tối,
tôi đă tṛ truyện với họ ít nhất hai
giờ đồng hồ về quốc gia mà họ
sắp đến sinh sống. Từ luật lệ giao
thông, trợ cấp xă hội, bảo hiểm xă
hội, đến phong tục tập quán, thời
tiết, hệ thống giáo dục, lao động và
ngay cả đến những tiết mục giải trí.
Tất cả đối với mọi người
đều mới lạ, thậm chí có người không
tin, hay cho tôi là "ḷe thiên hạ !.". Tôi biết,
nhưng chỉ mỉm cười và vẫn tiếp
tục hăng say trong nhiệm vụ của ḿnh : nào
là cách mở một trương mục ngân hàng, cách
xử dụng điện thoại công cộng đến
hệ thống ḷ sưởi trong nhà...và tôi cảm
thấy vui thú nhất trong những thời gian này. Có
đến 5 lớp dạy Đức ngữ được
tổ chức trên tàu. Những ngày đầu tiên
đông nghẹt "học tṛ", dần dần
chỉ c̣n vài chục. Điều này không lạ
cho lắm v́ bà con bây giờ mới biết tiếng
Đức thật là "khó nhai", đúng như
lời đồn. Thêm vào đó là những chuỗi ngày
sóng ngang gió ngược, con tàu lắc lư như
chiếc lá trôi trong băo táo của Ấn Độ Dương
và Địa Trung Hải. Phải mất
đến hơn 2 tuần lễ mới vượt qua
Ấn Độ Dương. Ngày 11.8.1986 tàu chạy
dọc theo bờ biển nước Somalia, Phi Châu.
Những dăy núi trơ trọc dưới sức nóng
thiêu đốt như cháy da thịt, nhiều
người đă chen chân phía trái tàu để xem.
Một thanh niên vừa cười vừa nói với tôi
: "Dễ ǵ mà đi đến tận Phi Châu này
phải không anh ?". Tôi nghĩ, dân tôi lưu lạc khắp
nơi trên quả địa cầu này, nơi nào có người
Việt Nam, nơi đó có một Quê Hương
Việt Nam thu gọn, có tiếng nói Việt Nam, có
ngọn cờ Việt Nam bay phất phới... Lúc này
biển bắt đầu dịu lại, chẳng bù cho
thời gian vượt Ấn Độ Dương. Dân
tôi đă nửa khóc nửa cười lần ṃ di
chuyển từng bước trên tàu như người say
rượu theo nhịp tàu lắc lư quá độ.
Những mẹ già, các thiếu nữ say sóng
nằm la liệt, ói mửa quanh tàu, thậm chí có người
không ăn uống ǵ nổi trong 2 ngày liền. Tôi mang
đến cho bà con ḿnh những trái chanh tươi,
khả dĩ xoa dịu phần nào những cơn say sóng
dữ dội. Mọi người co ro suốt ngày
trong hầm tàu, từng đống chai lọ rơi
đổ ngổn ngang mỗi lần thân tàu bị sóng
dập mạnh. Anh chị em c̣n khỏe th́
vừa nấu bếp vừa nhảy theo nhịp sóng lắc
lư của con tàu. Tôi không thể ngờ được
sức chịu đựng dẻo dai của
mỗi người dân tôi. Ư chí và lư tưởng
Tự Do đă khiến dân tôi sẵn sàng vượt
qua mọi khó khăn trở ngại. Con tàu
vẫn lạnh lùng chạy vào biển đỏ và
nhiệt độ lên đến 43 độ C. Vài
em bé hỏi tại sao nước vẫn xanh mà gọi là
biển đỏ...? Chúng tôi nh́n thấy hàng chục dàn
khoan dầu của Vương Quốc Á Rập cháy
sáng đêm ngày (19.8.1986). Ngày hôm sau tàu
chạy đến kinh đào Suez. Tôi báo cho bà con
biết là người Ai Cập sẽ kéo lên tàu ḿnh
và ở trên tàu cho đến khi tàu chạy ra
khỏi kinh Suez. Họ là những con buôn, kể cả
các viên chức quan thuế, an ninh hay hướng
dẫn viên. Họ bày bán mọi loại đồ
giả, kể cả đồng Mỹ Kim giả. V́ lư
do đặc biệt, thuyền trưởng yêu
cầu mọi người trên tàu giữ kỹ đồ
đạc của ḿnh, kể cả giày dép đến
quần áo. Các pḥng của thủy thủ đoàn và nhân
viên của Ủy Ban đều được yêu
cầu khóa kỹ lưỡng. Một kỷ niệm khó
quên : người Ai Cập dùng thang móc, tự ư leo
lên tàu (lúc ấy tàu di chuyển thật chậm khi
chạy vào kinh Suez). Họ bày hàng bán ngay trên boong tàu
như trong chợ trời. Đây đó có tiếng căi
vả qua lại của người bị mất
trộm...Chẳng biết lỗi tại ai, chỉ
biết rằng..."vỏ quưt dày th́ có móng tay
nhọn...", mọi người vẫn cười
đùa thoải mái như một phút tiêu khiển
cho cuộc hành tŕnh chẳng đặng đừng này.
Trong thời gian này, nhiều phóng viên báo chí quốc
tế cũng theo lên tàu. Họ chụp h́nh, phỏng
vấn liên miên và tôi bôn ba mồ hôi ướt
đẫm, khan cả giọng làm nhiệm vụ
chỉ dẫn và thông dịch viên. Họ đă
chứng kiến cuộc sống của dân tôi trên bước
đường tỵ nạn. Họ đă có dịp thưởng
thức những giọng hát không chuyên nghiệp nhưng
thuần túy Việt Nam... để rồi chỉ vài
ngày sau đó, tuần báo "”Die Zeit”" -một trong
những tờ báo lớn và rất uy tín của Đức-
đă dành hai trang để viết về thuyền nhân
Việt Nam rằng : : "...câu chuyện có thật
về ḷng Nhân Đạo và rất dễ hiểu khi người
Đức đă gởi đi một con tàu để
cứu vớt các thuyền nhân Việt Nam tại
biển Đông. ". Cơn nóng của Phi Châu đă từ từ hạ
dần và chung quanh chỉ là biển nước mênh
mông. Vài cánh hải âu bay theo từng đàn cá mập
bơi đùa trước mũi tàu như thách đố.
Măi đến năm ngày sau trên tàu mới nh́n thấy
bờ đất lền từ xa xa. Đây là bờ
biển nước Ư. Trong thời gian này, thuyền trưởng
Claus Heinrick và cũng là chủ nhân con tàu, có nhă ư mời
tất cả bà con đi quan sát mọi nơi trên tàu.
Từ đài chỉ huy đến pḥng máy, pḥng
của thủy thủ đoàn cho đến nhà bếp và
pḥng ăn. Một ngày thoải mái nhất và đầy
mới lạ đối với dân tôi. Tôi cũng
mời mọi người vào pḥng riêng của tôi
nghe nhạc Việt Nam quê hương trữ t́nh, chia
sẻ những “long” nước ngọt, chia
sẻ cho nhau những điếu thuốc nồng cháy t́nh người.
Tôi được tặng những cánh hoa làm bằng
giấy thật đẹp và không quên mang về như
những an ủi cho một tâm hồn người
Việt Nam xa xứ.... Tàu chuyển sang hướng
Bắc chạy dọc theo bờ biển Bồ Đào
Nha, qua nước Pháp rồi cập vào cảng Doves
của Anh Quốc. Tháng 9 năm 1986 |