MỘT CHUYẾN VƯỢT ĐẠI DƯƠNG

Nguyễn Hữu Huấn

Một lần nữa tôi trở lại Singapore. Cái quốc gia nóng nực, chật chội và nhỏ bé không đủ gây trong tôi những xúc động nào đó mỗi khi tôi trở lại. Có chăng là những kỷ niệm của 3 tháng sống trong trại tỵ nạn, sau 4 ngày lênh đênh trên biển cả và được tàu Nhân Đạo CAP ANAMUR I cứu sống vào tháng đầu năm 1980. Chỉ một năm sau, tôi trở lại thành phố này với một trạng thái khác, với những bồi hồi xúc động đặc biệt xen lẫn chút ít kiêu hănh trong một công tác đặc biệt : tháp tùng tàu CAP ANAMUR trở lại biển Đông t́m kiếm và cứu vớt thuyền nhân Việt Nam vượt biển t́m Tự Do. Cũng từ ngày đó, tôi đă được công nhận trở nên một thành viên của Ủy Ban CAP ANAMUR, một danh xưng mà măi đến bây giờ trên thế giới vẫn xưng tụng rằng : CAP ANAMUR - một biểu tượng Nhân Đạo của thế kỷ thứ hai mươi.                                                  

 CAP ANAMUR chỉ là tên một cảng nhỏ của Thổ Nhĩ Kỳ, nằm trên bờ biển Địa Trung Hải và tự nó không mang một ư nghĩa ǵ. Người ta đă đặt tên nó cho một chiếc tàu b́nh thường cũng như những con tàu hàng khác. Nhưng nhiệm vụ Nhân Đạo cao cả của nó đă làm vang danh tên CAP ANAMUR trên thế giới. Từ một "Ủy Ban Một Con Tàu Cho Việt Nam" (1979) đến "Ủy Ban Các Bác Sĩ Cấp Cứu Đức" (1981) và sau cùng, khi con tàu CAP ANAMUR I bị ép buộc phải chấm dứt nhiệm vụ trở về cảng mẹ Hamburg (1982) mang theo 258 thuyền nhân VN - sau khi đă cứu vớt tổng cộng 9.507 thuyền nhân Việt Nam trong 3 năm - th́ Ủy Ban đă đổi tên thành "” Ủy Ban CAP ANAMUR ”". 

Tàu Nhân Đạo thứ hai này mang tên đăng bộ REGINE, nhưng đă được gọi là CAP ANAMUR II - nối tiếp CAP ANAMUR I - tiếp tục sứ mạng Nhân Đạo cao cả của ḿnh, và tôi trở lại Singapore để kịp chuyến hành tŕnh cứu người ngoài biển Đông.  

Khác hẳn với 4 năm trước, ngoài những nỗi xúc cảm tràn đầy được t́m về lại với Quê Hương Việt Nam, cho dù vẫn c̣n xa khơi, để được thấy tận mắt người dân ḿnh mang đầy nỗi đớn đau vẫn c̣n hiển hiện trên nét mặt khô cằn, bờ vai nặng trĩu đau thương, được nh́n lại h́nh ảnh của chính ḿnh cũng trên những chiếc thuyền sông nhỏ bé chật ních người, bất chấp hiểm nguy và sau cùng được đóng góp như một hạt cát nhỏ bé trong cả một sa mạc thể hiện t́nh người, t́nh đồng hương máu đỏ da vàng – tôi c̣n mang theo trong tâm tư một chút hănh hiện của một kẻ ra đi làm chứng nhân cho những cuộc hành tŕnh vô tiền khoáng hậu của Dân Tộc tôi trên bước đường đi t́m một Tự Do thật sự.          

Trong suốt cuộc hành tŕnh, tôi đă thấy những khuôn mặt hốc hác xanh xao vẫn c̣n lo sợ khi vừa được vớt lên tàu, những khuôn mặt Việt Nam thật là Việt Nam, những khuôn mặt chưa xóa bỏ kịp những nhục nhằn khổ ải v́ mới chạy thoát khỏi tù đầy chưa đến 30 tiếng đồng hồ. Tôi biết bên tôi c̣n có 358 người Việt Nam vừa được cứu sống trong chuyến đi của tôi và cả thủy thủ đoàn trên tàu. Họ là người Đức, người Ba Lan, người Thổ Nhĩ Kỳ. Thủy thủ đoàn vỏn vẹn 8 người, 3 quốc tịch, th́ có đến 3 người trước kia cũng là dân tỵ nạn. Họ trốn từ Đông Đức, từ Ba Lan và họ cũng là những chứng nhân bên tôi, v́ họ cũng đă nh́n thấy h́nh ảnh của chính họ khi vượt trốn qua bức tường ô nhục năm nào. Tôi chợt thấy ḿnh hăng hái và tự tin hơn nữa....                                                                                     

Trong 6 tuần lễ lênh đênh trên biển Đông, chúng tôi đă cứu được 8 ghe vượt biên với 358 thuyền nhân Việt Nam. Lớn tuổi nhất 66, nhỏ nhất chỉ 17 ngày. Ghe đi lâu nhất 5 ngày, ghe sớm nhất chỉ 20 tiếng đă được cứu sống và biển động có khi lên đến cấp 8....Tôi được thấy tận mắt những giọt nước mắt mừng rỡ không ngăn kịp khi tôi vừa bước lên chiếc ghe nhỏ của những con người Việt Nam ấy. Trong chuyến đi này, tôi cũng không đơn thân độc mă trong khi thi hành nhiệm vụ v́ có sự tiếp tay của hai anh Dương Phục và Nguyễn Tất Hiền thuộc Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Việt Biển từ Hoa Kỳ sang. Hai anh đă không nề hà bất cứ công việc ǵ để phụ tôi săn sóc đời sống cho 358 người Việt trên tàu. Thật ra phải nói rằng 361 người tỵ nạn mới đúng – như tôi thường nói với vị thuyền trưởng như thế - v́ cả 3 anh em chúng tôi cũng đă từng lênh đênh trên sóng gió hăi hùng, cũng giáp mặt với bọn hải tặc dă man, cũng đă gào lên những tiếng thét cầu cứu năo nề. 358 người Việt vừa được vớt lên không khác cha mẹ chúng tôi, là cô bác chúng tôi, là anh chị chúng tôi, là những đứa em chúng tôi và là những người con yêu quư của chúng tôi. Chúng tôi có cùng một nhịp tim với nhau, nhịp tim của cùng một gịng máu Việt Nam. Cũng chính v́ cùng một nhịp tim đó, tôi đă kêu gọi tất cả mọi người trên tàu sống và đối xử với nhau sao cho xứng đáng ḿnh là gịng giống Việt Nam, cho dù ngày tháng lênh đênh trên tàu dài lê thê không đầy đủ tiện nghi cho đến khi tàu cập bến. Mỗi người trên tàu đều có một trách nhiệm cho nhau. Toán nấu cơm ngày 3 bữa, toán vệ sinh trên boong và hai bên tàu, mỗi tuần hai lần tổng vệ sinh, toán trực quan sát phụ với tôi để t́m kiếm ghe vượt biển, toán thông dịch phụ giúp nhân viên y tế săn sóc sức khỏe đồng bào, thậm chí có cả ban văn nghệ, ban múa và đầu lân. Tất cả sống cùng một nhịp sống, chia sẻ vui buồn trong suốt lộ tŕnh dài hơn 3 tháng cho đến khi trở về cảng Hamburg.   

Giai đoạn đầu khi tàu c̣n trong vùng t́m kiếm, v́ được lệnh kéo dài thời gian nên lương thực bị thiếu hụt, các b́nh "gaz" nấu ăn cũng cạn dần, ngoại trừ gạo. Một quyết định nhanh chóng của Ủy Ban : mua cá tươi ngay trên biển Đông, đồng thời câu ghe vượt biên lên tàu mỗi khi vớt được để chẻ ra làm củi nấu ăn. Thế là có các toán đặc trách mua cá, toán làm cá, toán chẻ củi được thành lập. Cưa, đục, búa... được xử dụng tối đa.Tôi đă bắt gặp những khuôn mặt năo nề, những đôi mắt rưng rưng ngấn lệ của người dân nước tôi đứng nh́n chiếc ghe của ḿnh đang bị chặt thành những mảnh vụn làm củi hay đang bốc cháy bừng bừng, rồi dần dần ch́m hẳn xuống ḷng đại dương, cuốn theo biết bao nhọc nhằn bôn ba cho những tháng ngày toan tính vượt biển đă qua. Mỗi chiếc ghe là một h́nh ảnh của Quê Hương, mỗi chiếc ghe là một linh hồn của gia đ́nh....

Thôi ! ngậm ngùi bỏ lại tất cả, tiếc thương chăng là tiếc thương những thân thuộc ruột thịt, anh em, bè bạn bị bỏ lại đằng sau trên bước đường tẩu thoát. Ḷng tôi như co quắp lại khi nghe câu nói đầu tiên của một anh tài công vừa được cứu vớt : "Vợ con em bị lọt lại khi lên cá lớn, không biết bây giờ ra sao ? Bị bắt hay chết ngoài cửa biển...." Tôi nh́n thấy biết bao đôi mắt đỏ hoe, nước mắt tràn trụa ngay mũi tàu, nơi được dùng làm nhà bếp. Dân tôi đă khóc không những v́ mấy tấm ván trát đầy dầu chai đen đủi được xẻ ra làm củi nấu cơm, mà cũng đang khóc v́ biết rằng ḿnh đă được cứu sống khi thần chết gần kề, v́ biết rằng mỗi một phút qua đi là một chút nhích xa quê hương thêm một đoạn đường, để rồi nhắm mắt nuốt đi cơn hận thù.                                     

Mua cá tươi  -  không phải đơn giản như người ta nghĩ. Phải làm sao t́m gặp được những ghe đầy cá đang trên đường trở về bến, ghe không neo lại v́ tàu lớn không cặp gần được và quan trọng nhất là ghe phải đi riêng lẻ, không theo hợp đoàn. Những ngư phủ  Việt Nam - Bắc Trung Nam có cả. Họ hỏi tôi những câu thăm ḍ: "Anh người Việt Nam hả ? Tàu anh chạy đi đâu ? Cho tôi gởi theo thằng nhỏ này nghe.....? ". Tôi nh́n họ chăm chăm,  một thoáng nghi ngờ, một chút thương tâm. Có tiếng nói của một thanh niên đang đứng sau tôi : "Tụi này là công an biên pḥng giả dạng đánh cá đó ! Chúng nó  bắt được bọn em  là đời bọn em tàn luôn !!! ". Tôi yên lặng, cái yên lặng của một căm hờn câm nín...Một giỏ táo xanh, vài cây thuốc lá "Marlboro" từ trên tàu bỏ xuống, rồi từng giỏ cá hồng, ca đao...kèm theo tiếng vỗ tay la hét  từ chếc ghe đánh cá phía dưới được kéo lên. Tôi thu góp tiền Việt Nam mà đồng bào mang theo pḥng thân trên đường chạy trốn. Hàng bó tiền vô giá

trị ấy cũng được ném xuống theo....mua bán không cần trả giá, như một chút ǵ trao đến niềm an ủi nhỏ bé và dân tôi trên tàu có được thêm chút thức ăn tươi mát.  

Có hai ngư phủ lợi dụng trong lúc bán cá đă đu dây lên tàu Cap Anamur. Tôi yêu cầu họ xuống, trả họ về với chiếc ghe đánh cá của họ. Họ là ai ?  Là những người thực sự đi t́m Tự Do hay với một ư đồ nào khác ? Cái ǵ sẽ đến với họ khi họ trở về bến đậu ? Tôi không t́m ra được câu trả lời cho chính tôi. Tôi cầm loa nói với họ rằng : "Các anh muốn đi với chúng tôi th́ cả 8 người các anh phải đồng ư để chúng tôi đục ch́m ghe.....C̣n không th́ bán cá xong, xin các anh cho ghe chạy đi ! ". Ngay lúc đó tôi thấy ba bốn người xúm lại to nhỏ với nhau bàn bạc, rồi bỗng có tiếng máy nổ, có tiếng hô chặt giây và chiếc ghe từ từ tách khỏi con tàu. Cám ơn các anh đă cho tôi một lối giải quyết nhanh chóng nhất. Nếu các anh thật sự là người "bên kia", các anh hăy trở về với cái mà các anh vẫn gọi là "thiên đàng" của các anh, v́ chúng tôi không thể sống được với cái "thiên đàng" đó. Nếu các anh thực sự có cùng một tâm tư, cùng một hoài vọng như chúng tôi, th́ xin Trời Phật phù trợ cho các anh trở về đất liền được an b́nh và xin các anh hiểu cho chúng tôi, v́ luật lệ vẫn là luật lệ.  

Tàu được lệnh chấm dứt công tác, trở về Singapore. Tiến Sĩ Rupert Neudeck, người sáng lập Ủy Ban CAP ANAMUR lên tàu, mang theo những nỗi khó khăn v́ các quốc gia Tây phương không muốn nhận thêm người tỵ nạn nữa, cho dù họ đă được tàu vớt. Chính quyền Phi không cho phép 358 thuyền nhân trên tàu xuống nhập trại tỵ nạn. Canada hứa nhận 100 người, đến phút chót vẫn không có một văn bản. Úc bác bỏ lời kêu nài nhận thêm người của Ủy Ban và Hoa Kỳ đến giờ phút này cũng vẫn im hơi lặng tiếng. Mọi người trên tàu hoang mang lo lắng. Dân nước tôi bỗng nghi ngờ và ngạc nhiên trước thái độ của các quốc gia mang danh Tự Do. Một vài người đă bi quan nghĩ đến việc sẽ bị gởi trả về Việt Nam v́ không quốc gia nào nhận nữa.... Người ta lơ là và chối bỏ một sự thật hiển nhiên là dân tôi thà chết hơn là sống trong cảnh bị áp bức tù đầy. 358 người dân nước tôi vừa được cứu thoát, nay đang bị họ t́m cách làm tiêu tan đi những y vọng mong manh được đến vùng đất hứa của Tự Do. Một thanh niên trong nỗi thất vọng tận cùng đă tự nhào xuống biển Singapore t́m cái chết, bỏ lại người vợ hiền và hai cháu bé. Không biết lúc này thế giới đă bừng tỉnh lại hay chưa ?....... Các anh Dương Phục, Nguyễn Tất Hiền và tôi vừa từ phố trở về tàu, nghe hung tin trong bàng hoàng xót xa. Tôi đă nói với một kư giả Tây Phương rằng : " Vâng ! Con tàu CAP ANAMUR này đă cứu sống anh ấy và đến bây giờ nhiều quốc gia trên thế giới đă giết chết anh..." Thế rồi Tiến Sĩ Rupert Neudeck đă đi đến quyết định tối hậu : trực chỉ cảng mẹ Hamburg với 357 người c̣n lại. Đó là ngày 25.7.1986. Cuộc hành tŕnh sẽ kéo dài khoảng 6 tuần, vượt qua Ấn Độ Dương, thẳng đến phía nam Châu Phi, băng qua biển Đỏ, xuyên kinh đào Suez, đi dọc bờ biển Tây Ban Nha, tiến lên phía Bắc....Hơn 18.000 cây số đường biển, con đường ngắn nhất Từ Singapore đến Hamburg, đoạn đường xa xôi diệu vợi của "357 người Việt Nam-Do Thái" đi đến vùng đất hứa, chắc chắn chứa đầy băo táp sóng gió của đại dương. Một chuyến hải hành không hẹn đối với dân tôi trên tàu. Nhưng c̣n cách nào hơn nữa ? Như vậy có nghĩa lại một lần nữa, con tàu CAP ANAMUR lại bị những áp lực có chủ ư bắt buộc phải quay về và chấm dứt công tác Nhân Đạo của ḿnh.  

Hai anh Dương Phục và Nguyễn Tất Hiền cũng chia tay từ giă trở về Hoa Kỳ khi tàu cập bến Singapore. Những giọt nước mắt tiễn đưa của t́nh đồng hương, biết bao giờ gặp lại nhau hả hai anh ? Cám ơn hai anh đă thổi vào ḷng bà con ḿnh những luồng hơi ấm và t́nh tự Dân Tộc khi họ vừa chân ướt chân ráo được cứu vớt lên tàu. Cám ơn hai anh đă thu vào ống kính những khuôn mặt, những lời nói chân thành nhất của bà con ḿnh để chứng minh cho mọi người biết đến tất cả sự thật hàng ngày diễn ra ngoài  biển Đông này. Xin gởi hai anh một chút ǵ đó của Quê Hương ḿnh, chúng ta sẽ gặp lại nhau một ngày nào đó, xây dựng lại con đường Tự Do, bồi đắp thêm con đường Công Lư của Sài G̣n thưở nào.... Và rồi tôi ở lại một ḿnh cùng với bà con trên cuộc hành tŕnh về Hamburg. Hàng chục bao đường, hàng trăm bao gạo, từng thùng trái cây, nước mắm, đồ hộp, thịt đông lạnh với hàng chục thùng quần áo do người Singapore hảo tâm sửa soạn cho cuộc hành tŕnh mà đối với bà con đó là cuộc hành tŕnh có một không hai trong đời người.  

Thế có nghĩa là đại đa số trong 357 người dân tôi sẽ định cư tại Đức và chính phủ Đức "bắt buộc" phải tiếp nhận số người này, v́ họ đă được một con tàu mang quốc tịch Đức cứu vớt, chủ tàu là người Đức và cảng mẹ cũng trong nước Đức. Các tiểu

bang trong nước Đức có trách nhiệm bắt buộc phải san sẻ cưu mang họ và công nhận họ là những người tỵ nạn thực sự. Tất cả 357 người không ai nói và hiểu được tiếng Đức, may ra được vài ba người biết sơ qua về con người và xă hội của Đức qua sách vở. Mỗi tối, tôi đă tṛ truyện với họ ít nhất hai giờ đồng hồ về quốc gia mà họ sắp đến sinh sống. Từ luật lệ giao thông, trợ cấp xă hội, bảo hiểm xă hội, đến phong tục tập quán, thời tiết, hệ thống giáo dục, lao động và ngay cả đến những tiết mục giải trí. Tất cả đối với mọi người đều mới lạ, thậm chí có người không tin, hay cho tôi là "ḷe thiên hạ !.". Tôi biết, nhưng chỉ mỉm cười và vẫn tiếp tục hăng say trong nhiệm vụ của ḿnh : nào là cách mở một trương mục ngân hàng, cách xử dụng điện thoại công cộng đến hệ thống ḷ sưởi trong nhà...và tôi cảm thấy vui thú nhất trong những thời gian này. Có đến 5 lớp dạy Đức ngữ được tổ chức trên tàu. Những ngày đầu tiên đông nghẹt "học tṛ", dần dần chỉ c̣n vài chục. Điều này không lạ cho lắm v́ bà con bây giờ mới biết tiếng Đức thật là "khó nhai", đúng như lời đồn. Thêm vào đó là những chuỗi ngày sóng ngang gió ngược, con tàu lắc lư như chiếc lá trôi trong băo táo của Ấn Độ Dương và Địa Trung Hải.      

Phải mất đến hơn 2 tuần lễ mới vượt qua Ấn Độ Dương. Ngày 11.8.1986 tàu chạy dọc theo bờ biển nước Somalia, Phi Châu. Những dăy núi trơ trọc dưới sức nóng thiêu đốt như cháy da  thịt, nhiều người đă chen chân phía trái tàu để xem. Một thanh niên vừa cười vừa nói với tôi : "Dễ ǵ mà đi đến tận Phi Châu này phải không anh ?". Tôi nghĩ, dân tôi lưu lạc khắp nơi trên quả địa cầu này, nơi nào có người Việt Nam, nơi đó có một Quê Hương Việt Nam thu gọn, có tiếng nói Việt Nam, có ngọn cờ Việt Nam bay phất phới... Lúc này biển bắt đầu dịu lại, chẳng bù cho thời gian vượt Ấn Độ Dương. Dân tôi đă nửa khóc nửa cười lần ṃ di chuyển từng bước trên tàu như người say rượu theo nhịp tàu lắc lư quá độ. Những mẹ già, các thiếu nữ say sóng nằm la liệt, ói mửa quanh tàu, thậm chí có người không ăn uống ǵ nổi trong 2 ngày liền. Tôi mang đến cho bà con ḿnh những trái chanh tươi, khả dĩ xoa dịu phần nào những cơn say sóng dữ dội. Mọi người co ro suốt ngày trong hầm tàu, từng đống chai lọ rơi đổ ngổn ngang mỗi lần thân tàu bị sóng dập mạnh. Anh  chị em c̣n khỏe th́ vừa nấu bếp vừa nhảy theo nhịp sóng  lắc lư của con tàu. Tôi không thể ngờ được sức chịu đựng  dẻo dai của mỗi người dân tôi. Ư chí và lư tưởng Tự Do đă khiến dân tôi sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn trở ngại.  Con tàu vẫn lạnh lùng chạy vào biển đỏ và nhiệt độ lên đến 43 độ C. Vài em bé hỏi tại sao nước vẫn xanh mà gọi  là biển đỏ...? Chúng tôi nh́n thấy hàng chục dàn khoan dầu của Vương Quốc Á Rập cháy sáng đêm ngày (19.8.1986).  

Ngày hôm sau tàu chạy đến kinh đào Suez. Tôi báo cho bà con biết là người Ai Cập sẽ kéo lên tàu ḿnh và ở trên tàu cho đến khi tàu chạy ra khỏi kinh Suez. Họ là những con buôn, kể cả các viên chức quan thuế, an ninh hay hướng dẫn viên. Họ bày bán mọi loại đồ giả, kể cả đồng Mỹ Kim giả. V́ lư do đặc biệt, thuyền trưởng yêu cầu mọi người trên tàu giữ kỹ đồ đạc của ḿnh, kể cả giày dép đến quần áo. Các pḥng của thủy thủ đoàn và nhân viên của Ủy Ban đều được yêu cầu khóa kỹ lưỡng. Một kỷ niệm khó quên : người Ai Cập dùng thang móc, tự ư leo lên tàu (lúc ấy tàu di chuyển thật chậm khi chạy vào kinh Suez). Họ bày hàng bán ngay trên boong tàu như trong chợ trời. Đây đó có tiếng căi vả qua lại của người bị mất trộm...Chẳng biết lỗi tại ai, chỉ biết rằng..."vỏ quưt dày th́ có móng tay nhọn...", mọi người vẫn cười đùa thoải mái như một phút tiêu khiển cho cuộc hành tŕnh chẳng đặng đừng này. Trong thời gian này, nhiều phóng viên báo chí quốc tế cũng theo lên tàu. Họ chụp h́nh, phỏng vấn liên miên và tôi bôn ba mồ hôi ướt đẫm, khan cả giọng làm nhiệm vụ chỉ dẫn và thông dịch viên. Họ đă chứng kiến cuộc sống của dân tôi trên bước đường tỵ nạn. Họ đă có dịp thưởng thức những giọng hát không chuyên nghiệp nhưng thuần túy Việt Nam... để rồi chỉ vài ngày sau đó, tuần báo "”Die Zeit”" -một trong những tờ báo lớn và rất uy tín của Đức- đă dành hai trang để viết về thuyền nhân Việt Nam rằng : : "...câu chuyện có thật về ḷng Nhân Đạo và rất dễ hiểu khi người Đức đă gởi đi một con tàu để cứu vớt các thuyền nhân Việt Nam tại biển Đông. ".                                                 

Cũng trong dịp này, tiến sĩ Neudeck trở lên tàu để thăm hỏi bà con ḿnh. Lời đầu tiên ông nói : "”Từ nước Đức, tôi mang đến cho các bạn, những người Việt nam đau khổ một tin vui, chính quyền Đức sẽ đón nhận các bạn trong ṿng tay nhân ái và các bạn sẽ được đón tiếp thật nồng nhiệt và tưng bừng tại cảng Hamburg. Chúng tôi đă có sẵn rất nhiều quà bánh dành cho các cháu bé”... Từng giọt nước mắt rưng rưng, hằng loạt tiếng vỗ tay lấn át luồng gió nóng, dân tôi cảm động và biết ơn. Những cánh tay giơ cao như những bó hoa chân thành gởi về nước Đức khi tiến sĩ Rupert Neudeck và các phóng viên báo chí rời tàu tại cảng Port Said - trạm cuối cùng của kinh đào Suez...Tàu đă chạy qua hơn nửa đoạn đường và hôm nay, ngày 22.8.1986, tàu bắt đầu băng qua biển Địa Trung Hải.

Cơn nóng của Phi Châu đă từ từ hạ dần và chung quanh chỉ là biển nước mênh mông. Vài cánh hải âu bay theo từng đàn cá mập bơi đùa trước mũi tàu như thách đố. Măi đến năm ngày sau trên tàu mới nh́n thấy bờ đất lền từ xa xa. Đây là bờ biển nước Ư. Trong thời gian này, thuyền trưởng Claus Heinrick và cũng là chủ nhân con tàu, có nhă ư mời tất cả bà con đi quan sát mọi nơi trên tàu. Từ đài chỉ huy đến pḥng máy, pḥng của thủy thủ đoàn cho đến nhà bếp và pḥng ăn. Một ngày thoải mái nhất và đầy mới lạ đối với dân tôi. Tôi cũng mời mọi người vào pḥng riêng của tôi nghe nhạc Việt Nam quê hương trữ t́nh, chia sẻ những “long” nước ngọt, chia sẻ cho nhau những điếu thuốc nồng cháy t́nh người. Tôi được tặng những cánh hoa làm bằng giấy thật đẹp và không quên mang về như những an ủi cho một tâm hồn người Việt Nam xa xứ.... Tàu chuyển sang hướng Bắc chạy dọc theo bờ biển Bồ Đào Nha, qua nước Pháp rồi cập vào cảng Doves của Anh Quốc.

Tám nhân viên của cảnh sát và sở ngoại kiều của Đức lên tàu làm thủ tục tỵ nạn và nhập cảnh ngay trên tàu. Hàng chục phóng viên từ Đức, Hoa Kỳ, Úc, Pháp lại lăng xăng bận rộn hành nghề. Dân tôi suốt đêm không ngủ được v́ đang hồi hộp chờ đợi những ǵ mới mẻ nhất sắp đến... Họ suy tư, tụm năm, tụm ba tṛ truyện bàn bạc không dứt... Năm giờ sáng ngày 05.9.1986, tàu ghé cảng Cuxhaven, cảng đầu tiên của nước Đức. Mọi người ùa ra chỉ trỏ hỏi thăm, những khuôn mặt tin tưởng và hân hoan hiện lên với từng người v́ biết đă đến được đích lựa chọn, đă đến vùng đất của Tự Do và Nhân Quyền. Hàng chục thùng quần áo và giày dép mới tinh của hăng Otto Versand, hàng trăm gói quà tặng của hăng máy bay Lufthansa Đức... được chuyển lên tàu. Tôi hầu như kiệt sức để lo phân phát cho bà con ḿnh.                     

Thế rồi cảng Hamburg quen thuộc với tôi đă hiện ra từ xa trước mắt. Rồi chúng tôi thấy được những cánh tay vẫy chào, những nụ cười t́nh người của hàng trăm người Đức đang đi dọc theo bờ sông Elbe, vùng Blankenese. Tháp nhà thờ Michael Hamburg sừng sững, những tiếng reo ḥ chào đón hân hoan của hàng ngàn người Việt đă đứng sẵn tự bao giờ trên bến tàu. Tôi đă chảy nước mắt thật sự và dân tôi cũng bùi ngùi khôn tả. Thế mới biết t́nh đồng hương dạt dào biết bao ! Thế mới biết những khắc khoải của người Việt Nam xa xứ vẫn ấp ủ ngày trở về. Bao nhiêu kỷ niệm vui buồn gần 4 tháng trời trên tàu đă được chia sẻ. Bao nhiêu gian nan đă cùng nhau đồng chịu đựng. Bao nhiêu nỗi niềm đă thố lộ cho nhau trong suốt đoạn đường dài và chúng ta đều là những người bị bắt buộc phải rời bỏ Quê Hương. Hăy tha thứ cho nhau những hiểu lầm đă được  thông cảm. Hăy đến với nhau v́ chúng ta cùng chung một cảnh ngộ. Chuyến đi chấm dứt nơi đây, nhưng các nỗ lực vẫn c̣n và chúng ta hăy cùng nhau tranh đấu cho dân ta, cho nước ta và cho chính bản thân ta. Mẹ Việt Nam ơi ! chúng con vẫn c̣n đây ......                                        

Nguyễn Hữu Huấn

Tháng 9 năm 1986  

Trở lại