Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc xung
đột lớn nhất và chết chóc nhất trong
lịch sử nhân loại. Cuộc đại chiến
toàn cầu này liên quan đến phần lớn các nước
và vùng lănh thổ trên thế giới thời bấy
giờ; đồng thời có sự tham gia trực
tiếp của hơn 100 triệu người từ hơn
30 quốc gia.
Những
mặt trận khốc liệt được mở
khắp trên bộ, trên không và trên biển; và trên
thực tế, th́ Thế chiến II được ghi
nhận là có một số trận hải chiến
lớn nhất trong lịch sử nhân loại, bao
gồm Trận chiến Đại Tây Dương –
một chiến dịch quân sự trải dài trong
khoảng thời gian hơn 5 năm 8 tháng, cho đến
khi quân Đức hoàn toàn bị đánh bại vào năm
1945.
Tuy
vậy, ngay cả khi được mô tả là
cuộc giao tranh hải quân “dài nhất, lớn
nhất và phức tạp nhất” trong lịch sử,
một số chuyên gia vẫn cho rằng Trận
chiến Đại Tây Dương thực tế là
một loạt trận chiến diễn ra ở
nhiều địa điểm khác nhau.
C̣n
xét về các cuộc giao tranh trực diện theo
kiểu “truyền thống” hơn, th́ những
trận chiến sau đây mới đứng đầu
danh sách các trận hải chiến lớn nhất trong
toàn bộ Thế chiến lần thứ hai.
Thứ
nhất: Trận chiến Mũi Matapan (27–29 tháng 3 năm
1941) – Nhấn ch́m tham vọng bá chủ của Ư
tại Địa Trung Hải.
Trận
chiến Mũi Matapan được cho là một trong
những cuộc giao tranh hải quân lớn nhất
từ trước đến nay ở vùng biển Địa
Trung Hải. Đây là cuộc chiến giữa một bên
là Hải quân Hoàng gia Vương quốc Anh với
sự hỗ trợ của Hải quân Hoàng gia Úc, và
một bên là Hải quân Regia Marina của Vương
quốc Ư.
Thực
chất nó là câu trả lời cho việc ai sẽ là
kẻ bá chủ Địa Trung Hải vào năm 1941!?
Anh hay là Italy?
Nhà
độc tài Benito Mussolini có thể đă mơ về
việc xây dựng một Đế chế La Mă
mới, biến Địa Trung Hải thành cái hồ La
Mă của Ư một lần nữa khi gọi nơi này là
“vùng biển của chúng ta”; tuy vậy th́ cuối cùng
đó là một giấc mơ đă không thành hiện
thực.
Vào
thời điểm bắt đầu Chiến tranh
thế giới thứ hai, người Anh đă duy tŕ
quyền kiểm soát eo biển Gibraltar và kênh đào
Suez; đồng thời có một lực lượng
đặc nhiệm hùng hậu đóng tại đảo
quốc Malta.
Trong
khi đó th́ Hitler của Đức Quốc xă lại
không thể điều động bất kỳ tàu
chiến mặt nước nào ở Địa Trung
Hải để hỗ trợ đồng minh Mussolini
của ông ta, điều đó buộc nước Ư
phải hành động đơn độc ở vùng
biển này.
Tháng
3 năm 1941, một đội tàu của phe Đồng
minh bao gồm: một tàu sân bay, ba thiết giáp hạm,
bảy tuần dương hạm hạng nhẹ và 17
khu trục hạm đă giao tranh với hạm đội
Ư bao gồm kỳ hạm mới được đóng,
thiết giáp hạm hiện đại Vittorio Veneto, cùng
sự tham gia của sáu tàu tuần dương hạng
nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và 13
tàu khu trục.
Quân
đội của Hitler đă cảnh báo không chính xác
cho quân Ư rằng, người Anh chỉ có duy nhất
một thiết giáp hạm hoạt động và không
có tàu sân bay nào. Và điều tồi tệ hơn
nữa đối với Hải quân của Mussolini,
đó là Hải quân Anh đă chặn được liên
lạc của Ư và tiến hành một cuộc tấn công
bất ngờ tại ngoài khơi Mũi Matapan, miền
nam Hi Lạp.
Kết
quả sau 3 ngày giao tranh: Năm tàu của Ư đă
bị đánh ch́m và hai chiếc khác bị hư
hỏng nặng. Khoảng 2.300 quân Ư bị giết, cùng
1.015 người khác bị bắt. Về phía phe Đồng
minh, chỉ có ba thủy thủ thiệt mạng, cùng
với 4 trong số các tàu tuần dương bị hư
hại.
Trận
Mũi Matapan là chiến thắng lớn cho Hải quân
Hoàng gia Anh và một thất bại hoàn toàn của
Hải quân Ư và phe Trục; đồng thời mở
đầu cho một loạt các trận hải
chiến quy mô và khốc liệt hơn nữa; lần
này là trên mặt trận Thái B́nh Dương.
Thứ
hai: Trận chiến biển San Hô (4-8 tháng 5 năm 1942)
– Chiến thắng mà như chiến bại của
Nhật Bản.
Trận
hải chiến này được gọi là màn dạo
đầu cho một cuộc giao tranh quan trọng hơn
rất nhiều sẽ diễn ra một tháng sau đó:
trận Midway lừng danh. Tuy nhiên, Trận chiến
Biển San hô vẫn đáng chú ư ở chỗ, đây
là trận chiến đầu tiên trong lịch sử
hải quân mà tàu chiến của hai bên chưa bao
giờ thực sự nh́n thấy nhau.
Đây
cũng là lần đầu tiên các tàu sân bay giao
chiến và là nơi hầu hết các cuộc giao tranh
được tiến hành trên không.
Trận
biển San Hô diễn ra tại vùng biển giữa Úc,
New Guinea và quần đảo Solomon thuộc Thái B́nh Dương,
với sự tham gia của khoảng 27 tàu từ
Hải quân Hoa Kỳ; và phía bên kia là 53 tàu của
Hải quân Đế quốc Nhật Bản, Cũng
cần lưu ư rằng, đă không có thiết giáp
hạm nào tham gia vào cuộc giao tranh này. Vậy mà bên
nào cũng sẵn sàng chiến đấu.
Khoảng
650 quân Mỹ đă thiệt mạng sau cuộc giao
tranh, trong khi con số đó về phía Nhật Bản là
hơn 900 quân.
Hải
quân Mỹ thiệt hại nặng hơn, mất 3 tàu,
bao gồm hàng không mẫu hạm USS Lexington, trong khi USS
Yorktown cũng bị hư hại nặng. Người
Nhật chỉ mất một tàu sân bay hạng nhẹ
duy nhất là Shōkaku – tuy nhiên trận chiến
này đă phá hủy lượng lớn máy bay của
họ, lên đến 92 chiếc trong số 127 chiếc
tham gia trận chiến, nhiều đến nỗi tàu sân
bay thứ ba Zuikaku của quân Nhật đă mất toàn
bộ không đoàn.
Về
kết quả của trận chiến, Đế
quốc Nhật Bản sau đó đă buộc phải
ngừng cuộc xâm lược Papua New Guinea; đồng
thời đối với Tokyo, trận chiến Biển
san hô là một Chiến thắng kiểu Pyrros theo nghĩa
chân thực nhất; nghĩa là một thắng lợi
gây ra những tổn thất khủng khiếp ở phe
chiến thắng mà chính v́ vậy, tương
đương với thất bại.
C̣n
đối với người Mỹ, họ đă có
được một số lợi thế trước
trận đánh quyết định sau đó 1 tháng
tại chiến trường Thái B́nh Dương –
Trận Midway.
Thứ
3: Trận Midway (4-7 tháng 6 năm 1942) – Trận Hải
chiến lừng danh nhất Thế chiến II.
Trận
Midway đă là chủ đề của ít nhất hai
bộ phim điện ảnh lớn, hàng chục
cuốn sách và hàng ngh́n bài báo.
Trận
chiến lừng danh này thường được xem
là một bước ngoặt quan trọng tại
chiến trường Thái B́nh Dương; và điều
đó hết sức hợp lư.
Hải
quân Hoa Kỳ đă bắt đầu cuộc giao tranh
với hạm đội gồm ba tàu sân bay, bảy tàu
tuần dương hạng nặng, một tàu tuần
dương hạng nhẹ và 15 khu trục hạm; trong
khi Hải quân Nhật Bản bắt đầu với
hạm đội gồm bốn tàu sân bay, hai thiết
giáp hạm, hai tàu tuần dương hạng nặng,
một tàu tuần dương hạng nhẹ và 12 tàu
khu trục.
Trong
trận Midway, mưu mẹo đă đóng một vai tṛ
quan trọng quyết định đối với
Hải quân Hoa Kỳ. Những nhà phân tích mật mă
của Washington đă bắt đầu phá mă liên
lạc của Nhật Bản từ đầu năm
1942 và biết được trước nhiều
tuần rằng, quân đội Nhật đang lên
kế hoạch tấn công ở Thái B́nh Dương
tại một địa điểm mà họ gọi là
“AF”.
Các
quan chức Mỹ nghi ngờ đó chính là đảo
Midway và quyết định giăng một cái bẫy
bằng cách thử gửi một thông điệp sai
từ căn cứ, báo đi rằng Midway đang
thiếu nước ngọt trầm trọng. Ngay sau
đó, các nhà khai thác vô tuyến của Nhật
Bản đă gửi cho hạm đội Nhật ở
Thái B́nh Dương một tin nhắn có nội dung tương
tự về “AF”; điều đó đă giúp người
Mỹ đủ cơ sở để xác nhận
vị trí cuộc tấn công đang được
Tokyo nhắm đến: “AF” chính xác là đảo
Midway.
Vậy
là, khi Hải quân Nhật Bản tấn công vào Midway th́
Hải quân Mỹ đă bố trí sẵn sàng lực lượng
ở đó.
Ngoài
ra, người Nhật cũng phạm thêm sai lầm khi
cho rằng hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ USS Yorktown
sẽ không thể hoạt động tại Midway, do
đă bị hư hại trong Trận chiến Biển
San hô trước đó. Nhưng trên thực tế,
chiếc tàu sân bay này đă được sửa
chữa chỉ trong hai ngày tại Xưởng hải quân
Trân Châu Cảng, và sau đó được đưa
ngay vào trận chiến.
Khi
khói tan sau ba ngày giao tranh, Hải quân Hoa Kỳ cuối cùng
cũng đă mất Yorktown vĩnh viễn cùng một tàu
khu trục khác; nhưng Hải quân Nhật th́ đă
chứng kiến bốn tàu sân bay cỡ lớn và
một tàu tuần dương hạng nặng bị
đánh ch́m. Lực lượng Hoa Kỳ mất
khoảng một nửa – khoảng 150 – máy bay, trong
khi Nhật Bản mất tất cả 248 máy bay; và quan
trọng hơn đó là mất đi các phi công giàu
kinh nghiệm nhất của họ.
Trận
Midway không phải là một trận đấu loại
trực tiếp, nhưng đó vẫn là một
trận thua cực kỳ nặng nề đối
với Hải quân Nhật Bản.
Thứ
4: Trận chiến Biển Philippines (19–20 tháng 6 năm
1944). Cuộc bắn gà tây vĩ đại ở
quần đảo Mariana.
Ngay
cả sau khi thất bại trong Trận Midway hai năm
trước đó, Hải quân Đế quốc
Nhật Bản vẫn c̣n là một lực lượng
chiến đấu thực sự – và hạm đội
tàu sân bay của Tokyo vẫn được coi là
một mối đe dọa đáng kể.
Nhưng
điều đó không c̣n đúng nữa sau Trận
chiến Biển Philippines, v́ cuộc giao tranh này về
cơ bản đă loại bỏ khả năng
tiến hành các hoạt động tác chiến trên tàu
sân bay quy mô lớn của quân Nhật.
Trận
chiến Biển Philippines là hoạt động tác
chiến hàng không mẫu hạm lớn nhất trong
Chiến tranh thế giới thứ hai, và Hải quân
Hoa Kỳ có lợi thế khi tham chiến với
hạm đội bảy tàu sân bay cỡ lớn, cùng tám
tàu sân bay cỡ nhỏ, bảy thiết giáp hạm và
hơn 100 tàu khác. Hải quân Nhật có ba tàu sân bay
cỡ lớn, cùng sáu tàu sân bay cỡ nhỏ và năm
thiết giáp hạm.
Vào
cuối trận giao tranh, một thiết giáp hạm Hoa
Kỳ bị hư hại; c̣n về phía Nhật
Bản có 2 tàu sân bay cỡ lớn và 1 tàu sân bay
cỡ nhỏ bị đánh ch́m.
Với
tỷ lệ tổn thất chênh lệch nghiêm trọng
do phi công và pháo thủ pḥng không Mỹ gây ra cho máy bay
Nhật Bản, cuộc chiến trên không của
trận giao tranh này được gọi là “Cuộc
bắn gà vĩ đại ở quần đảo
Mariana”.
Ước
tính phía Nhật có từ 550–645 máy bay bị phá
hủy và 2.987 lính thiệt mạng, trong khi con số
về phía Hoa Kỳ là 123 máy bay bị phá hủy và 109
lính tử vong.
Nhưng
cũng như các trận chiến khác, quân đội
Nhật Bản đă giấu kín mức độ
tổn thất này trước công chúng trong nước.
Thứ
5: Trận chiến Vịnh Leyte (23-26 tháng 10 năm
1944) – Trận hải chiến lớn nhất trong
lịch sử nhân loại.
Thường
được coi là trận hải chiến lớn
nhất trong lịch sử, mặc dù vẫn c̣n có
một số tranh căi, Trận chiến Vịnh Leyte
diễn ra vào cuối tháng 10 năm 1944 ngoài khơi
bờ biển Philippines, gần các đảo Leyte, Samar
và Luzon.
Gần
200.000 người, hàng trăm tàu chiến, tàu sân bay,
thiết giáp hạm, tuần dương hạm và hàng
ngàn máy bay đă tham gia vào trận đánh vĩ đại
trải ra trên vùng biển rộng khoảng 100.000
dặm vuông.
Trận
chiến Vịnh Leyte là trận chiến đầu tiên
mà máy bay Nhật Bản thực hiện các cuộc
tấn công kamikaze có tổ chức; đồng thời
cũng là trận hải chiến cuối cùng giữa các
thiết giáp hạm trong lịch sử.
Không
bao giờ có bất kỳ cuộc giao tranh trên biển
nào lại chứng kiến nhiều chiến hạm
lớn đến như vậy.
Trận
chiến Vịnh Leyte cũng đáng chú ư ở chỗ,
nó có sự tham gia của Hạm đội Ba và
Bảy của Hải quân Hoa Kỳ, bao gồm khoảng
tám tàu sân bay cỡ lớn, tám tàu sân bay cỡ nhỏ
cùng với 18 tàu sân bay hộ tống và một
chục thiết giáp hạm.
Sau
4 ngày giao tranh, các lực lượng phe Đồng minh
cuối cùng đă giành được một chiến
thắng quyết định trước Hải quân
Nhật Bản, với cái giá phải trả là hơn
3.000 người thương vong. Thiệt hại về
phía Nhật được ghi nhận c̣n lớn hơn
rất nhiều; với 12.500 thương vong cùng
một tàu sân bay cỡ lớn, ba tàu sân bay cỡ
nhỏ và ba thiết giáp hạm bị phá hủy.
Xét
về con số thống kê, có thể dễ dàng
nhận thấy tại sao Trận chiến Vịnh Leyte
tuyệt đối được coi là trận hải
chiến lớn nhất trong lịch sử; cho dù
một số nhà sử học vẫn tranh căi rằng,
cuộc giao tranh này thực sự là sự kết
hợp của bốn trận chiến phụ lớn
diễn ra cùng một lúc.
Tuy
vậy, bất kể thế nào th́ Trận chiến
Vịnh Leyte vẫn là cú đấm nốc-ao dành cho
Hải quân Đế quốc Nhật Bản! Quân đội
Nhật sau đó đă không bao giờ có thể ra khơi
với lực lượng tương đương
được nữa, v́ lực lượng này bị
mắc cạn v́ thiếu nhiên liệu trong các căn
cứ của họ trong suốt phần c̣n lại
của Thế chiến.
Phong
Vân
|