Nhân
Tết Giáp Th́n 2024, Tản Mạn Về RỒNG Qua Ca
Dao Việt Nam
Lê Ngọc Châu |
Rồng
là con vật đứng đầu trong bộ Tứ
linh: Long, Lân, Quy, Phụng. Và như chúng ta biết, Rồng là con vật không có
thật trên thế gian và Rồng do trí tưởng tượng
của con người mà có trong chuyện cổ tích. Trong 12 con giáp, Rồng đứng thứ Năm và có
thể nói là con vật cao quư nhất v́ lúc nào
Rồng cũng ở trên … mây. Riêng kho tàng Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam không
thiếu những câu nói về Rồng, điển h́nh: Thuyền Rồng chở ván mù u Trong lănh vực yêu đương, hăy nghe anh chàng văn
hoa ví von: Rồng nằm bể cạn phơi râu Nhưng đôi khi, t́nh yêu đă làm cho “chàng Rồng” ta
gồng ḿnh hỏi thẳng thừng: Rồng giao đầu, Phụng giao đuôi, Văn chương Việt Nam phong phú nên câu ca dao
trả lời cũng rất văn hoa, trữ t́nh: Nhớ chàng như vợ nhớ chồng Để diễn tả cảnh vợ ngóng
chồng, ca dao Việt diễn tả: Thế gian được vợ hỏng chồng Diễn tả sự hiếu thảo của con cái
đối với Cha Mẹ, người đời
diễn tả ước mơ đó như sau: Bao giờ cá chép hoá long T́nh yêu, duyên phận đôi khi rất t́nh cờ, t́nh
cờ nưng trữ t́nh như qua câu ca dao: T́nh cờ anh gặp ḿnh đây Để rồi nhớ nhung lúc xa nhau cũng rất
văn hoa: Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây T́nh nghĩa vợ chồng trong Xă hội Việt Nam
như chúng ta biết rất gắn bó bất chấp
hiểm nguy (điển h́nh trong thời chiến
của Việt Nam trước 1975) cho nên Ca Dao Việt
Nam cũng ví von: Có chồng th́ phải theo chồng Diễn tả sự chung thủy, tính thủy chung
trong t́nh yêu cũng mượn Rồng để đề
cập đến: Trăm năm ghi tạc chữ đồng Để ví von người phụ nữ lấy
được ông chồng khôn ngoan, ca dao Việt Nam có
câu: Phận gái lấy được chồng khôn và qua câu ca dao sau đây cho ta thấy giá trị cao
quư của “Rồng”: Một ngày dựa mạn thuyền rồng Không chỉ có CA DAO mà ngay cả Tục Ngữ
Việt Nam cũng đề cập đến RỒNG,
điển h́nh như: Rồng đến nhà tôm hay Cá chép hóa Rồng Xin được mở ngoặc thêm ở đây chút
xíu để nói về Rồng (trích dẫn / tóm lược
theo internet và mạn phép được diễn đạt
theo văn phong học Việt Văn của một
cựu học sinh ban Toán (Ban B) trước 1975 thời
Việt Nam Cộng Ḥa. Mong quư thức giả hoan hỷ
cho mọi sơ sót!). Quư vị cũng biết dưới chế độ
phong kiến, Rồng tượng trưng cho Vua (long
thể) c̣n được mệnh danh là Thiên Tử
(con trời). V́ vậy, các bộ phận trên thân
thể cho đến những đồ dùng hàng ngày
của “Thiên Tử” đều
được gắn với h́nh tượng con
Rồng: long nhan (mặt vua), long bào (áo của vua có thêu
rồng), long xa (xe dành cho vua), long sàng (giường
để vua nằm)… Với truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên,
Rồng là niềm tự hào về ḍng giống,
cội nguồn của người Việt Nam. Nếu
chúng ta nh́n h́nh thể đất nước Việt
Nam từ Bắc đến Nam với h́nh cong chữ S,
có thể nói là không khác ǵ con Rồng nằm uốn
khúc dọc theo bờ biển và các địa danh (theo
internet) như: Long Đổ, (rún Rồng), Long Biên, Thăng
Long (tên thủ đô Việt tộc vào thế kỷ
thứ 6), Vịnh Hạ Long (đây là kỳ quan
thế giới công nhận), B́nh Long, Phước Long,
Long Thành, Long Khánh, Long Hải (bải tắm đẹp
ở Vũng Tàu), Long B́nh, Long An (nếu ai đi trên
đường từ Sài G̣n về Miền Tây th́
sẽ qua cầu Bến Lức thuộc Tân An ngày xưa
(thuộc Long An), Long Hồ (nằm trong lănh thổ Vĩnh
Long), Long Mỹ (thuộc về Chương Thiện),
Thới Long (là một xă thuộc quận Ô Môn,
Tỉnh Cần Thơ tức Hậu Giang ngày nay, nơi
đây có nhiều cây trái danh tiếng nhứt là Cam, Bưởi…).
Ở Miền Tây có 2 địa danh mang tên Long, trở
thành tỉnh lỵ, không những có những cây lành trái
ngon ngọt nữa, đó là Vĩnh Long và Long Xuyên. Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên
bắc qua sông Hồng tại Hà Nội, do Pháp xây
dựng (1899-1902). Cầu Long B́nh thuộc tỉnh An
Giang, Cầu Thăng Long bắc ngang qua hai làng Đông
Ngạc và Vơng La. Cầu Rồng bắc qua sông Hàn (Đà
Nẵng)… (sưu tầm và biên soạn lại). Suốt quá tŕnh Việt Nam bị đô hộ và sau
đó phải “giao lưu văn hóa với Trung Hoa”,
khái niệm Rồng của Trung Hoa mới du nhập vào
nước Việt Nam ta. Từ đó, người
Việt mới có khái niệm Rồng như là một
con vật linh thiêng, trong hệ thống Tứ Linh: Long,
Lân, Quy, Phụng và cũng từ đó, trong ngôn
ngữ, từ long hay Rồng mới gắn liền
với cương vị đế vương, vua chúa,
hay những thực thể cao quư. Như một loạt
từ sau đây: Long thể: thân thể vua Và h́nh ảnh tưởng tượng của
Rồng cũng đă chi phối cách mô tả ngoại
h́nh các bậc vua chúa của nhà văn: râu rồng, mũi
rồng, đi nhẹ như nước, ngồi
vững như non v.v… Đó là trong ngôn ngữ và văn chương. C̣n
trong ngôn ngữ và văn học dân gian, từ Rồng,
h́nh tượng Rồng được dùng mở
rộng hơn và không có hệ thống. Nên đề
cập về h́nh tượng Rồng, từ rồng
trong ngôn ngữ và văn học dân gian v́ thế
chỉ có tính chất phiếm luận. Dấu ấn trong tâm thức người Việt Nam
cũng được diễn tả qua tục ngữ,
thành ngữ, ca dao v́ con Rồng là một h́nh tượng
có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín ngưỡng
của dân tộc Việt Nam, từng là biểu tượng
linh thiêng liên quan đến truyền thuyết con
Rồng cháu Tiên của người Việt. Các vị
Vua Việt Nam xăm lên đùi ḿnh h́nh ảnh rồng
để giữ truyền thống của cư dân ven
biển. Đến đời Vua Trần Anh Tông
(1293-1314) mới chấm dứt tục xăm rồng trên
đùi. Rồng tượng trưng cho quyền uy
tuyệt đối của các đấng Thiên Tử
(bệ rồng, ḿnh rồng). Rồng là h́nh tượng
của mưa thuận gió ḥa, là vật linh thiêng đứng
vào hàng bậc nhất trong Tứ Linh Long, Lân, Quy,
Phụng. Đặc biệt, h́nh tượng con
Rồng Việt Nam tương phản với h́nh tượng
con rồng độc ác, tượng trưng cho cái
xấu của các nước phương Tây.
Vài nét về h́nh tượng Rồng qua các
triều đại phong kiến Việt Nam H́nh tượng Rồng từ thời Hùng Vương
đă được h́nh dung là con vật thân dài, có
vẩy như cá sấu, được chạm trên các
đồ đồng. Qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, con rồng
Việt Nam xuất hiện rơ nét dưới thời Lư.
H́nh ảnh Rồng bay lên (Thăng Long) tượng trưng
cho khí thế vươn lên của dân tộc,
được lấy làm tên cho mảnh đất
đế đô. Rồng thời Lư tượng trưng
cho mơ ước của cư dân trồng lúa nên
xuất hiện trong khung cảnh của nước,
của mây cuộn. Rồng thời nhà Lư ḿnh dài như
rắn, thân trơn nếu là con nhỏ, c̣n con lớn
th́ thân có vẩy, lưng có vây. H́nh tượng con rồng thời Trần có
nhiều biến đổi so với thời Lư.
Rồng xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp
sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi,
đường bệ với chiếc mào lửa
ngắn hơn. Thân rồng tṛn lẳn, mập mạp,
nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ, lưng
vơng h́nh yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều
dạng, khi th́ đuôi thẳng và nhọn, khi th́
xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có
vẩy như những nửa h́nh hoa tṛn, nhiều cánh
đều đặn, có vẩy chỉ là những nét
cong nhẹ nhàng. Rồng thời nhà Lê thay đổi hẳn. Rồng
không nhất thiết là một con vật ḿnh dài,
uốn lượn đều đặn mà ở
nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to,
bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất
hẳn, thay vào đó là cái mũi to. Thân rồng lượn
hai khúc lớn. Chân có năm móng sắc nhọn
quắp lại dữ tợn. Rồng thời Lê tượng
trưng cho quyền uy phong kiến. Cũng chính bắt
đầu từ thời đại này xuất hiện
quan niệm tứ linh tượng trưng cho uy quyền
của vương triều rồng đứng đầu
trong tứ linh. Ba vật thiêng kia là: Lân (tượng trưng
cho sự thái b́nh và minh chúa), Quy (tượng trưng
sự bền vững của xă tắc) và Phụng (tượng
trưng cho sự thịnh vượng của triều
đại). Rồng thời Trịnh Nguyễn vẫn c̣n đứng
đầu trong bộ tứ linh nhưng đă được
nhân cách hóa, đưa vào đời thường như
h́nh rồng mẹ có bầy rồng con quây quần,
rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh
lứa đôi. Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy
nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng.
Rồng được thể hiện ở nhiều tư
thế, ẩn ḿnh trong đám mây, hoặc ngậm
chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời,
chầu hoa cúc, chầu chữ thọ… Phần lớn
ḿnh rồng không dài ngoằn mà uốn lượn vài
lần với độ cong lớn. Đầu rồng
to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược
ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử,
miệng há lộ răng nanh. Trên lưng rồng có tia,
phân bố dài ngắn đều đặn. Râu
rồng uốn sóng từ dưới mắt ch́a ra cân
xứng hai bên. H́nh tượng rồng dùng cho vua có năm
móng, c̣n lại là bốn móng. Hiện nay h́nh tượng con Rồng tuy không c̣n tính
chất thiêng liêng, tối thượng nhưng vẫn
được đưa vào trang trí cho các công tŕnh
kiến trúc, hội họa, chạm, khắc nghệ
thuật… Rồng trong tâm thức người Việt qua thành
ngữ, tục ngữ, ca dao Theo cách tính dân gian của người xưa, trong
một Giáp có 12 năm. Khởi đầu bằng năm
con Chuột (Tí) và kết thúc bằng năm con Lợn
(Hợi). Qua thống kê ở một tài liệu khoa
học gần đây về 12 con vật này cho thấy
đây là những con vật có tần số xuất
hiện khá cao trên tư liệu thành ngữ, tục
ngữ, ca dao. Trong số này, chỉ có tên gọi các
con vật như: Khỉ, Dê, có vị thế thấp hơn,
những con vật c̣n lại đều có tần
suất xuất hiện cao. Trong số 12 con vật được dùng vào hệ
12 Con Giáp th́ Rồng ở vị trí thứ 5. Rồng là
con vật tuy chưa ai nh́n thấy diện mạo
thật của nó thế nào nhưng trong lịch sử
và nghệ thuật, trong văn học và đời
sống của người Việt, Rồng là con
vật xuất hiện nhiều hơn cả, xuất
hiện một cách vừa thực vừa hư, vừa
gần, vừa xa, vừa giản dị lại vừa
linh thiêng. Có thể nói Rồng là một con vật
huyền thoại. H́nh tượng Rồng là một
biểu tượng văn hóa, phương Tây thường
đối lập với sức mạnh “chính nghĩa” và cuối cùng
bị sức mạnh chính nghĩa đánh bại. Con Rồng ở phương Đông nói chung,
Việt Nam nói riêng là h́nh ảnh đẹp, là
biểu tượng của sự cao cả, thiêng liêng
và sức sống vĩnh hằng. H́nh tượng con
Rồng rất quen thuộc trong tâm thức người
Việt. Người Việt có tục thờ cúng
Lạc Long Quân, có tục xăm ḿnh bằng h́nh
Rồng. Mỗi khi nói đến “Con Rồng Cháu Tiên”,
người Việt Nam ta đều cảm thấy hănh
diện, tự hào. Trong suốt chiều dài tháng năm dựng nước
và giữ nước, h́nh tượng Rồng đă
gắn chặt với đất nước Việt
Nam, con người Việt Nam từ tên sông, tên núi, tên
đất, tên người. Nào là Vịnh Hạ Long –
cảnh quan thiên nhiên được xếp hạng di
sản văn hóa thế giới; thủ đô nước
Việt từ năm 1010 đến nay vẫn được
gọi là đất Thăng Long (Rồng bay). Con sông
lớn nhất phía Nam đang chuyển tải phù sa,
cấp nước cho vựa lúa Nam Bộ được
gọi là Sông Chín Rồng (Cửu Long Giang); có hàng trăm
địa danh gắn với tên Rồng trên khắp
đất nước Việt Nam chúng ta. Trong dân gian,
Rồng tượng trưng cho thần linh và điềm
lành, Rồng đi mây về gió, có thể đem
lại sự tốt tươi cho cây cối, muôn
vật: Rồng đen lấy nước th́ nắng Người Việt ngày xưa thường cầu
khẩn Long Vương ban cho mưa thuận gió ḥa, cho
mùa màng bội thu. H́nh tượng con Rồng muôn vàn dáng
vẻ, màu sắc rực rỡ, không chỉ xuất
hiện trong các truyền thuyết, thơ ca, trên các
sản phẩm mỹ nghệ, điêu khắc mà
Rồng c̣n được thể hiện trong nhiều
phong tục tập quán, lễ hội dân gian… Nhiều
người chọn đặt tên con trai là: Long
(Rồng) với mong muốn con ḿnh sẽ có sự uy vũ,
cương nghị của đấng nam nhi. Thời phong kiến, Rồng trở thành biểu tượng
của quyền lực thiên tử. Chỉ có Vua mới
được mặc áo thêu rồng. H́nh tượng
rồng mang vẻ cao quư, tôn nghiêm, tượng trưng
cho uy quyền: Long nhan, Long trượng, Long thể…
Rồng đứng đầu trong Tứ Linh: Long, Ly,
Quy, Phượng. Mặc dù chịu ảnh hưởng
của nhà nước phong kiến, Rồng vẫn
gần gũi với cuộc sống dân gian. Nhiều
khi Rồng được dân gian lấy làm vũ khí
đấu tranh chống áp bức cường quyền,
để phê phán những thói hư tật xấu
nịnh bợ trong xă hội: Vóc rồng th́ để hầu vua Truyền thuyết Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ
đă đi vào ư niệm, tiềm thức đă làm cho
người dân Việt tự hào ḿnh là “con Rồng cháu Tiên”.
Rồng đi vào trong tâm thức của người
Việt từ tṛ chơi trẻ con: rồng rắn lên
mây. Rồng được chạm khắc trên các
đ́nh làng, cổng xóm; trong Tranh Tết Đông
Hồ, Hàng Trống mỗi dịp Tết đến Xuân
về (theo internet, ngưng trích dẫn). Trong ngôn ngữ dân gian, Rồng xuất hiện
với tần số lớn trong ca dao, tục ngữ, thành
ngữ. Trong hôn nhân v́ nhiều lẽ, người con gái
tài sắc bị gả ép lấy phải người
chồng không ra ǵ, rồng trong câu ca dao sau được
so sánh như một sự nghịch lư trớ trêu
kể trên: Rồng vàng tắm nước ao tù Tuy nhiên tư duy về Rồng trong thành ngữ,
tục ngữ, ca dao của người Việt cũng
khá phức tạp, không phải lúc nào cũng thống
nhất trong các ư kiến về h́nh tượng đó.
Để chỉ người giàu sang đến thăm
người nghèo hèn có thành ngữ: “Rồng đến nhà tôm”, c̣n khi con
người thỏa măn về mong ước cao sang nào
đó th́ lại nói: “như Rồng
gặp mây”. Trong lưng chẳng có một đồng Từ ngữ trong tiếng Việt, kiểu kết
hợp “Rồng
– Phượng” cũng như trong thành
ngữ, tục ngữ, ca dao thường được
hiểu theo nghĩa tích cực (positiv). Giống như
người có kiểu chữ viết phóng khoáng, không
g̣ bó th́ ứng với thành ngữ: “rồng bay phượng
múa”. Các kết hợp “rồng – mây”,
“rồng – phượng”, “rồng – vây” trong
tiếng Việt đều được hiểu theo
nghĩa tích cực, đẹp đẽ, được
vận dụng vào trong những bối cảnh thuận
lợi, phát triển. C̣n các kết hợp “rồng – giun”, “rồng – liu điu” lại
theo chiều hướng tiêu cực (negativ), hoàn toàn tương
phản. Ví dụ nói đến t́nh cảnh chung đụng
vợ chồng mà một người chẳng ra ǵ làm
ḿnh bực bội lại có ư liên tưởng: “Rồng ở với giun”. Các
kết hợp “Rồng – Phượng” có khi
vẫn được dân gian dùng với ư nghĩa phê
phán: “chạm rồng
trổ phượng” (ngoài nghĩa đen
c̣n có nghĩa phê phán sự tô điểm rườm
rà thái quá !!!). Ăn như rồng cuốn Nhân dịp Xuân Giáp Th́n 2024, kính chúc đồng hương
mọi chuyện đều hạnh thông như “CÁ GẶP NƯỚC – NHƯ
RỒNG GẶP MÂY” (theo internet)! Bây giờ, trước khi viết đoạn
kết xin trở lại với Ca Dao và Tục Ngữ
về Rồng. Dân gian quan niệm, tản mạn về rồng như
sau: Cá gáy hóa rồng Quan niệm này cũng được Ca Dao Việt
Nam đề cập đến: Mồng bốn cá đi ăn thề. Vũ môn, tức cửa Vũ gồm có ba tầng.
Ở Việt Nam ta cũng có điểm này và đó là
nơi mà người xưa tưởng là cá trải
qua cuộc thi khảo sát về tŕnh độ và năng
lực. Nếu vượt qua ba cấp Vũ môn th́
sẽ hóa rồng (!) Từ khái niệm cụ thể đó, thành ngữ “cá hóa rồng” thường
dùng để chỉ việc thi cử thành đạt
của sĩ tử ngày xưa. Dân gian đă từng nuôi
ước mơ: Biết bao giờ cá gáy hóa rồng, Khái niệm này cũng được mở
rộng, dùng để ám chỉ cho việc người
con gái lấy được người chồng
xứng đáng, Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam diễn
tả điều này như sau: Phận gái lấy được chồng khôn, Để diễn tả sự chung thủy vợ
chồng, Việt Nam ta có câu: Lấy chồng th́ phải theo chồng, Người đời nói Rồng nở từ
trứng và ở hang nhưng trong dân gian cũng có
một quan niệm khác: rồng cũng sinh sản như
rắn: Trứng rồng th́ nở ra rồng, Xa hơn nữa, trong ngôn ngữ và văn học dân
gian của Việt Nam, Rồng là một yếu tố ví
von, so sánh để biểu đạt một số
sinh hoạt của con người như ăn, nói,
viết, giao tế, thời vận, t́nh yêu, nhận
định về con người và cuộc sống. Ngay cả về chuyện ăn cũng có thành
ngữ: “ăn như rồng cuốn”.
Rồng cuốn tức là rồng hút, chỉ hiện tượng
ṿi rồng trong tự nhiên, như cách tiên đoán
về thời tiết: Rồng đen uống nước th́ nắng, Về chữ viết, người văn hay chữ
tốt thường được ca ngợi như: “Rồng bay Phượng múa”. và “nói như rồng” là
để khen tặng người có tài nói thao thao
bất tuyệt: Tuy nhiên trái lại nếu một người mà Trong lưng chẳng có một đồng, th́ lời nói trở thanh vô giá trị. Nhưng nên coi chừng, bao giờ cũng cần nói
đúng thực chất, phù hợp với kiến
thức mà ḿnh nếu không dễ trở thành khập
khiễng: “nói những lời như rồng như
rắn”. Thêm yếu tố rắn ở trên làm
chuyển đổi tức khắc giá trị nội
dung của câu nói: Học chẳng biết chữ cua, chữ c̣ng, Riêng trên phương diện giao tế, dân gian
Việt Nam dùng thành ngữ: “rồng đến nhà tôm” để
vừa bày tỏ sự khiêm tốn, nhún nhường
của gia chủ, vừa gián tiếp ca ngợi người
khách quư. Nhưng có khi, đó cũng là cách mai mỉa: Mấy đời rồng đến nhà tôm. Âu cũng là một lối giao tế thực
dụng. Và quen thuộc nhất là Rồng chỉ
thời vận. Thành đạt Hạnh thông như là “rồng gặp mây”. “Như cá gặp nước, như rồng
gặp mây” Nhưng nếu mất yếu tố thời vận
th́ chỉ là “Rồng nằm
ở cạn”, Rồng nằm bể cạn giơ râu, Hay đau khổ hơn là: Rồng vàng tắm nước ao tù, Dễ thường mấy khi rồng mây được
dùng để chỉ lứa đôi, v́ những h́nh tượng
khác quyến rũ hơn, như: mận – đào, loan
– phượng, yến – oanh, gió – trăng v.v… nhưng
điều đó cũng có: Mấy khi Rồng gặp mây đây, Xa hơn nữa, “lời rồng mây” cũng
là lời hẹn thề, lời nước non hay là
lời hứa thủy chung. Một kiểu nói khác bày tỏ sự ước ao
cao sang, biểu hiện một tâm lư hưởng
thụ : Một ngày dựa mạn thuyền Rồng, Cách nói trên tất nhiên bị phủ định
bằng một suy nghĩ chín chắn hơn và xác
thật hơn: Chớ tham ngồi mũi thuyền rồng, Và quả thật, dân gian chúng ta đă xét đoán
đúng giá trị, nh́n đúng thực chất con người,
không lệ thuộc những thứ trang sức phù hoa
trang hoàng sang trọng: Dù ngồi cửa sổ chạm rồng Nhưng sâu sắc và không kém chua chát là lời
cảm thán sau đây: Khen ai khéo dựng b́nh phong, Hoặc nhằm để mỉa mai, phê phán lối
sống thiếu trách nhiệm, đánh lừa người
và đánh lừa cả chính ḿnh ca dao Việt Nam chúng
ta cũng không bỏ qua nên có câu: Học chẳng biết chữ cu chữ c̣ Tóm lại, tâm thức về Rồng – h́nh ảnh
con vật vừa hư, vừa thực, vừa cao quư
thiêng liêng, vừa gần gũi là cách tiếp cận
uyển chuyển, phóng khoáng đầy tự tin
của người Việt Nam. Rồng đă trở thành biểu tượng văn
hóa, một biểu tượng thiêng liêng gắn
với tâm thức về cội nguồn dân tộc
Việt Nam. Trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao,
Rồng lại càng thể hiện độc đáo
nhiều ư nghĩa, mang biểu tượng của
sự cao cả, thiêng liêng và tồn tại măi măi … Ca dao và tục ngữ truyền khẩu Việt
về Rồng th́ c̣n rất nhiều nhưng người
viết chỉ có thể trích dẫn một số ít
ca dao trên đây, góp nhặt được trên internet.
Rất tiếc bài viết có giới hạn nên tôi không
thể trích dẫn hết để tŕnh bày cùng quư
độc giả, mong thông cảm. Đa tạ. Hy vọng là bài tạp ghi trên cũng đủ gói
ghém ư nghĩa sâu sắc của Ca Dao Việt, có
thể nói là căn bản của Nền Văn Hóa Dân
Tộc Việt Nam. Kính chúc Quư độc giả một Năm Mới
Giáp Th́n 2024, “AN KHANG THỊNH VƯỢNG”. Lê Ngọc Châu Tài liệu tham khảo: |