Nhân Tết Giáp Th́n 2024, Tản Mạn Về RỒNG Qua Ca Dao Việt Nam

Lê Ngọc Châu

Rồng là con vật đứng đầu trong bộ Tứ linh: Long, Lân, Quy, Phụng.

Và như chúng ta biết, Rồng là con vật không có thật trên thế gian và Rồng do trí tưởng tượng của con người mà có trong chuyện cổ tích.

Trong 12 con giáp, Rồng đứng thứ Năm và có thể nói là con vật cao quư nhất v́ lúc nào Rồng cũng ở trên … mây.

Riêng kho tàng Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam không thiếu những câu nói về Rồng, điển h́nh:

Thuyền Rồng chở ván mù u
Người khôn ở với người ngu bực ḿnh.

Trong lănh vực yêu đương, hăy nghe anh chàng văn hoa ví von:

Rồng nằm bể cạn phơi râu
Mấy lời anh nói dấu đầu hở đuôi

Nhưng đôi khi, t́nh yêu đă làm cho “chàng Rồng” ta gồng ḿnh hỏi thẳng thừng:

Rồng giao đầu, Phụng giao đuôi,
Nay tui hỏi thiệt : Ḿnh thương tui không ḿnh?

Văn chương Việt Nam phong phú nên câu ca dao trả lời cũng rất văn hoa, trữ t́nh:

Nhớ chàng như vợ nhớ chồng
Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây…

Để diễn tả cảnh vợ ngóng chồng, ca dao Việt diễn tả:

Thế gian được vợ hỏng chồng
Có đâu như rồng mà được cả đôi

Diễn tả sự hiếu thảo của con cái đối với Cha Mẹ, người đời diễn tả ước mơ đó như sau:

Bao giờ cá chép hoá long
Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa

T́nh yêu, duyên phận đôi khi rất t́nh cờ, t́nh cờ nưng trữ t́nh như qua câu ca dao:

T́nh cờ anh gặp ḿnh đây
Như cá gặp nước, như mây gặp rồng

Để rồi nhớ nhung lúc xa nhau cũng rất văn hoa:

Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây
Như con chèo bẻo xa cây măng ṿi

T́nh nghĩa vợ chồng trong Xă hội Việt Nam như chúng ta biết rất gắn bó bất chấp hiểm nguy (điển h́nh trong thời chiến của Việt Nam trước 1975) cho nên Ca Dao Việt Nam cũng ví von:

Có chồng th́ phải theo chồng
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo…

Diễn tả sự chung thủy, tính thủy chung trong t́nh yêu cũng mượn Rồng để đề cập đến:

Trăm năm ghi tạc chữ đồng
Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai

Để ví von người phụ nữ lấy được ông chồng khôn ngoan, ca dao Việt Nam có câu:

Phận gái lấy được chồng khôn
Xem bằng cá vượt vũ môn hóa rồng

và qua câu ca dao sau đây cho ta thấy giá trị cao quư của “Rồng”:

Một ngày dựa mạn thuyền rồng
C̣n hơn chín tháng nằm trong thuyền chài ….

Không chỉ có CA DAO mà ngay cả Tục Ngữ Việt Nam cũng đề cập đến RỒNG, điển h́nh như:

Rồng đến nhà tôm
Rồng bay phượng múa

hay

Cá chép hóa Rồng
Ngọc ẩn long tu

Xin được mở ngoặc thêm ở đây chút xíu để nói về Rồng (trích dẫn / tóm lược theo internet và mạn phép được diễn đạt theo văn phong học Việt Văn của một cựu học sinh ban Toán (Ban B) trước 1975 thời Việt Nam Cộng Ḥa. Mong quư thức giả hoan hỷ cho mọi sơ sót!).

Quư vị cũng biết dưới chế độ phong kiến, Rồng tượng trưng cho Vua (long thể) c̣n được mệnh danh là Thiên Tử (con trời). V́ vậy, các bộ phận trên thân thể cho đến những đồ dùng hàng ngày của “Thiên Tử” đều được gắn với h́nh tượng con Rồng: long nhan (mặt vua), long bào (áo của vua có thêu rồng), long xa (xe dành cho vua), long sàng (giường để vua nằm)…

Với truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên, Rồng là niềm tự hào về ḍng giống, cội nguồn của người Việt Nam. Nếu chúng ta nh́n h́nh thể đất nước Việt Nam từ Bắc đến Nam với h́nh cong chữ S, có thể nói là không khác ǵ con Rồng nằm uốn khúc dọc theo bờ biển và các địa danh (theo internet) như: Long Đổ, (rún Rồng), Long Biên, Thăng Long (tên thủ đô Việt tộc vào thế kỷ thứ 6), Vịnh Hạ Long (đây là kỳ quan thế giới công nhận), B́nh Long, Phước Long, Long Thành, Long Khánh, Long Hải (bải tắm đẹp ở Vũng Tàu), Long B́nh, Long An (nếu ai đi trên đường từ Sài G̣n về Miền Tây th́ sẽ qua cầu Bến Lức thuộc Tân An ngày xưa (thuộc Long An), Long Hồ (nằm trong lănh thổ Vĩnh Long), Long Mỹ (thuộc về Chương Thiện), Thới Long (là một xă thuộc quận Ô Môn, Tỉnh Cần Thơ tức Hậu Giang ngày nay, nơi đây có nhiều cây trái danh tiếng nhứt là Cam, Bưởi…). Ở Miền Tây có 2 địa danh mang tên Long, trở thành tỉnh lỵ, không những có những cây lành trái ngon ngọt nữa, đó là Vĩnh Long và Long Xuyên.

Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng tại Hà Nội, do Pháp xây dựng (1899-1902). Cầu Long B́nh thuộc tỉnh An Giang, Cầu Thăng Long bắc ngang qua hai làng Đông Ngạc và Vơng La. Cầu Rồng bắc qua sông Hàn (Đà Nẵng)… (sưu tầm và biên soạn lại).

Suốt quá tŕnh Việt Nam bị đô hộ và sau đó phải “giao lưu văn hóa với Trung Hoa”, khái niệm Rồng của Trung Hoa mới du nhập vào nước Việt Nam ta. Từ đó, người Việt mới có khái niệm Rồng như là một con vật linh thiêng, trong hệ thống Tứ Linh: Long, Lân, Quy, Phụng và cũng từ đó, trong ngôn ngữ, từ long hay Rồng mới gắn liền với cương vị đế vương, vua chúa, hay những thực thể cao quư. Như một loạt từ sau đây:

Long thể: thân thể vua
Long nhan: mặt vua
Long sàng: giường vua
Long ngai: ngai vua
Long cổn, long bào: áo vua
Long châu, long thuyền: thuyền vua…

Và h́nh ảnh tưởng tượng của Rồng cũng đă chi phối cách mô tả ngoại h́nh các bậc vua chúa của nhà văn: râu rồng, mũi rồng, đi nhẹ như nước, ngồi vững như non v.v…

Đó là trong ngôn ngữ và văn chương. C̣n trong ngôn ngữ và văn học dân gian, từ Rồng, h́nh tượng Rồng được dùng mở rộng hơn và không có hệ thống. Nên đề cập về h́nh tượng Rồng, từ rồng trong ngôn ngữ và văn học dân gian v́ thế chỉ có tính chất phiếm luận.

Dấu ấn trong tâm thức người Việt Nam cũng được diễn tả qua tục ngữ, thành ngữ, ca dao v́ con Rồng là một h́nh tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam, từng là biểu tượng linh thiêng liên quan đến truyền thuyết con Rồng cháu Tiên của người Việt. Các vị Vua Việt Nam xăm lên đùi ḿnh h́nh ảnh rồng để giữ truyền thống của cư dân ven biển. Đến đời Vua Trần Anh Tông (1293-1314) mới chấm dứt tục xăm rồng trên đùi. Rồng tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng Thiên Tử (bệ rồng, ḿnh rồng). Rồng là h́nh tượng của mưa thuận gió ḥa, là vật linh thiêng đứng vào hàng bậc nhất trong Tứ Linh Long, Lân, Quy, Phụng. Đặc biệt, h́nh tượng con Rồng Việt Nam tương phản với h́nh tượng con rồng độc ác, tượng trưng cho cái xấu của các nước phương Tây.

Vài nét về h́nh tượng Rồng qua các triều đại phong kiến Việt Nam

H́nh tượng Rồng từ thời Hùng Vương đă được h́nh dung là con vật thân dài, có vẩy như cá sấu, được chạm trên các đồ đồng.

Qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, con rồng Việt Nam xuất hiện rơ nét dưới thời Lư. H́nh ảnh Rồng bay lên (Thăng Long) tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, được lấy làm tên cho mảnh đất đế đô. Rồng thời Lư tượng trưng cho mơ ước của cư dân trồng lúa nên xuất hiện trong khung cảnh của nước, của mây cuộn. Rồng thời nhà Lư ḿnh dài như rắn, thân trơn nếu là con nhỏ, c̣n con lớn th́ thân có vẩy, lưng có vây.

H́nh tượng con rồng thời Trần có nhiều biến đổi so với thời Lư. Rồng xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi, đường bệ với chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tṛn lẳn, mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ, lưng vơng h́nh yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi th́ đuôi thẳng và nhọn, khi th́ xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có vẩy như những nửa h́nh hoa tṛn, nhiều cánh đều đặn, có vẩy chỉ là những nét cong nhẹ nhàng.

Rồng thời nhà Lê thay đổi hẳn. Rồng không nhất thiết là một con vật ḿnh dài, uốn lượn đều đặn mà ở nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là cái mũi to. Thân rồng lượn hai khúc lớn. Chân có năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn. Rồng thời Lê tượng trưng cho quyền uy phong kiến. Cũng chính bắt đầu từ thời đại này xuất hiện quan niệm tứ linh tượng trưng cho uy quyền của vương triều rồng đứng đầu trong tứ linh. Ba vật thiêng kia là: Lân (tượng trưng cho sự thái b́nh và minh chúa), Quy (tượng trưng sự bền vững của xă tắc) và Phụng (tượng trưng cho sự thịnh vượng của triều đại).

Rồng thời Trịnh Nguyễn vẫn c̣n đứng đầu trong bộ tứ linh nhưng đă được nhân cách hóa, đưa vào đời thường như h́nh rồng mẹ có bầy rồng con quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi.

Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn ḿnh trong đám mây, hoặc ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ… Phần lớn ḿnh rồng không dài ngoằn mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt ch́a ra cân xứng hai bên. H́nh tượng rồng dùng cho vua có năm móng, c̣n lại là bốn móng.

Hiện nay h́nh tượng con Rồng tuy không c̣n tính chất thiêng liêng, tối thượng nhưng vẫn được đưa vào trang trí cho các công tŕnh kiến trúc, hội họa, chạm, khắc nghệ thuật…
Trong mọi thời điểm nào, con rồng vẫn là một phần trong cuộc sống văn hóa của người Việt.

Rồng trong tâm thức người Việt qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao

Theo cách tính dân gian của người xưa, trong một Giáp có 12 năm. Khởi đầu bằng năm con Chuột (Tí) và kết thúc bằng năm con Lợn (Hợi). Qua thống kê ở một tài liệu khoa học gần đây về 12 con vật này cho thấy đây là những con vật có tần số xuất hiện khá cao trên tư liệu thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Trong số này, chỉ có tên gọi các con vật như: Khỉ, Dê, có vị thế thấp hơn, những con vật c̣n lại đều có tần suất xuất hiện cao.

Trong số 12 con vật được dùng vào hệ 12 Con Giáp th́ Rồng ở vị trí thứ 5. Rồng là con vật tuy chưa ai nh́n thấy diện mạo thật của nó thế nào nhưng trong lịch sử và nghệ thuật, trong văn học và đời sống của người Việt, Rồng là con vật xuất hiện nhiều hơn cả, xuất hiện một cách vừa thực vừa hư, vừa gần, vừa xa, vừa giản dị lại vừa linh thiêng. Có thể nói Rồng là một con vật huyền thoại. H́nh tượng Rồng là một biểu tượng văn hóa, phương Tây thường đối lập với sức mạnh “chính nghĩa” và cuối cùng bị sức mạnh chính nghĩa đánh bại.

Con Rồng ở phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng là h́nh ảnh đẹp, là biểu tượng của sự cao cả, thiêng liêng và sức sống vĩnh hằng. H́nh tượng con Rồng rất quen thuộc trong tâm thức người Việt. Người Việt có tục thờ cúng Lạc Long Quân, có tục xăm ḿnh bằng h́nh Rồng. Mỗi khi nói đến “Con Rồng Cháu Tiên”, người Việt Nam ta đều cảm thấy hănh diện, tự hào.

Trong suốt chiều dài tháng năm dựng nước và giữ nước, h́nh tượng Rồng đă gắn chặt với đất nước Việt Nam, con người Việt Nam từ tên sông, tên núi, tên đất, tên người. Nào là Vịnh Hạ Long – cảnh quan thiên nhiên được xếp hạng di sản văn hóa thế giới; thủ đô nước Việt từ năm 1010 đến nay vẫn được gọi là đất Thăng Long (Rồng bay). Con sông lớn nhất phía Nam đang chuyển tải phù sa, cấp nước cho vựa lúa Nam Bộ được gọi là Sông Chín Rồng (Cửu Long Giang); có hàng trăm địa danh gắn với tên Rồng trên khắp đất nước Việt Nam chúng ta. Trong dân gian, Rồng tượng trưng cho thần linh và điềm lành, Rồng đi mây về gió, có thể đem lại sự tốt tươi cho cây cối, muôn vật:

Rồng đen lấy nước th́ nắng
Rồng trắng lấy nước th́ mưa?

Người Việt ngày xưa thường cầu khẩn Long Vương ban cho mưa thuận gió ḥa, cho mùa màng bội thu. H́nh tượng con Rồng muôn vàn dáng vẻ, màu sắc rực rỡ, không chỉ xuất hiện trong các truyền thuyết, thơ ca, trên các sản phẩm mỹ nghệ, điêu khắc mà Rồng c̣n được thể hiện trong nhiều phong tục tập quán, lễ hội dân gian… Nhiều người chọn đặt tên con trai là: Long (Rồng) với mong muốn con ḿnh sẽ có sự uy vũ, cương nghị của đấng nam nhi.

Thời phong kiến, Rồng trở thành biểu tượng của quyền lực thiên tử. Chỉ có Vua mới được mặc áo thêu rồng. H́nh tượng rồng mang vẻ cao quư, tôn nghiêm, tượng trưng cho uy quyền: Long nhan, Long trượng, Long thể… Rồng đứng đầu trong Tứ Linh: Long, Ly, Quy, Phượng. Mặc dù chịu ảnh hưởng của nhà nước phong kiến, Rồng vẫn gần gũi với cuộc sống dân gian. Nhiều khi Rồng được dân gian lấy làm vũ khí đấu tranh chống áp bức cường quyền, để phê phán những thói hư tật xấu nịnh bợ trong xă hội:

Vóc rồng th́ để hầu vua
Vải thô, lụa xấu th́ chừa cho dân

Truyền thuyết Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đă đi vào ư niệm, tiềm thức đă làm cho người dân Việt tự hào ḿnh là “con Rồng cháu Tiên”. Rồng đi vào trong tâm thức của người Việt từ tṛ chơi trẻ con: rồng rắn lên mây. Rồng được chạm khắc trên các đ́nh làng, cổng xóm; trong Tranh Tết Đông Hồ, Hàng Trống mỗi dịp Tết đến Xuân về (theo internet, ngưng trích dẫn).

Trong ngôn ngữ dân gian, Rồng xuất hiện với tần số lớn trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Trong hôn nhân v́ nhiều lẽ, người con gái tài sắc bị gả ép lấy phải người chồng không ra ǵ, rồng trong câu ca dao sau được so sánh như một sự nghịch lư trớ trêu kể trên:

Rồng vàng tắm nước ao tù
Người khôn ở với người ngu bực ḿnh

Tuy nhiên tư duy về Rồng trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao của người Việt cũng khá phức tạp, không phải lúc nào cũng thống nhất trong các ư kiến về h́nh tượng đó. Để chỉ người giàu sang đến thăm người nghèo hèn có thành ngữ: “Rồng đến nhà tôm”, c̣n khi con người thỏa măn về mong ước cao sang nào đó th́ lại nói: “như Rồng gặp mây”.
Phê phán những thói ba hoa, dân gian ta cũng mượn Rồng để diễn tả:

Trong lưng chẳng có một đồng
Lời nói như rồng chúng chẳng thèm nghe

Từ ngữ trong tiếng Việt, kiểu kết hợp “Rồng – Phượng” cũng như trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao thường được hiểu theo nghĩa tích cực (positiv). Giống như người có kiểu chữ viết phóng khoáng, không g̣ bó th́ ứng với thành ngữ: “rồng bay phượng múa”.

Các kết hợp “rồng – mây”, “rồng – phượng”, “rồng – vây” trong tiếng Việt đều được hiểu theo nghĩa tích cực, đẹp đẽ, được vận dụng vào trong những bối cảnh thuận lợi, phát triển. C̣n các kết hợp “rồng – giun”, “rồng – liu điu” lại theo chiều hướng tiêu cực (negativ), hoàn toàn tương phản. Ví dụ nói đến t́nh cảnh chung đụng vợ chồng mà một người chẳng ra ǵ làm ḿnh bực bội lại có ư liên tưởng: “Rồng ở với giun”. Các kết hợp “Rồng – Phượng” có khi vẫn được dân gian dùng với ư nghĩa phê phán: “chạm rồng trổ phượng” (ngoài nghĩa đen c̣n có nghĩa phê phán sự tô điểm rườm rà thái quá !!!).
Nói cho cùng h́nh ảnh Rồng được người Việt Nam ta sử dụng khá đa dạng nhằm diễn đạt các quan điểm, nhận thức, tư tưởng phong phú về đời sống:

Ăn như rồng cuốn
Làm như cà cuống lội sông

Nhân dịp Xuân Giáp Th́n 2024, kính chúc đồng hương mọi chuyện đều hạnh thông như “CÁ GẶP NƯỚC – NHƯ RỒNG GẶP MÂY” (theo internet)!

Bây giờ, trước khi viết đoạn kết xin trở lại với Ca Dao và Tục Ngữ về Rồng.

Dân gian quan niệm, tản mạn về rồng như sau:

Cá gáy hóa rồng

Quan niệm này cũng được Ca Dao Việt Nam đề cập đến:

Mồng bốn cá đi ăn thề.
Mồng tám cá về cá vượt Vũ môn.

Vũ môn, tức cửa Vũ gồm có ba tầng. Ở Việt Nam ta cũng có điểm này và đó là nơi mà người xưa tưởng là cá trải qua cuộc thi khảo sát về tŕnh độ và năng lực. Nếu vượt qua ba cấp Vũ môn th́ sẽ hóa rồng (!)

Từ khái niệm cụ thể đó, thành ngữ “cá hóa rồng” thường dùng để chỉ việc thi cử thành đạt của sĩ tử ngày xưa. Dân gian đă từng nuôi ước mơ:

Biết bao giờ cá gáy hóa rồng,
Đền công ơn thầy mẹ ẵm bồng ngày xưa

Khái niệm này cũng được mở rộng, dùng để ám chỉ cho việc người con gái lấy được người chồng xứng đáng, Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam diễn tả điều này như sau:

Phận gái lấy được chồng khôn,
Xem bằng cá vượt Vũ môn hóa rồng.

Để diễn tả sự chung thủy vợ chồng, Việt Nam ta có câu:

Lấy chồng th́ phải theo chồng,
Chồng đi hang rắn, hang rồng, cũng đi.

Người đời nói Rồng nở từ trứng và ở hang nhưng trong dân gian cũng có một quan niệm khác: rồng cũng sinh sản như rắn:

Trứng rồng th́ nở ra rồng,
Hạt thông th́ nẩy cây thông rườm rà.

Xa hơn nữa, trong ngôn ngữ và văn học dân gian của Việt Nam, Rồng là một yếu tố ví von, so sánh để biểu đạt một số sinh hoạt của con người như ăn, nói, viết, giao tế, thời vận, t́nh yêu, nhận định về con người và cuộc sống.

Ngay cả về chuyện ăn cũng có thành ngữ: “ăn như rồng cuốn”. Rồng cuốn tức là rồng hút, chỉ hiện tượng ṿi rồng trong tự nhiên, như cách tiên đoán về thời tiết:

Rồng đen uống nước th́ nắng,
Rồng trắng uống nước th́ mưa.

Về chữ viết, người văn hay chữ tốt thường được ca ngợi như:

“Rồng bay Phượng múa”.

và “nói như rồng” là để khen tặng người có tài nói thao thao bất tuyệt:

Tuy nhiên trái lại nếu một người mà

Trong lưng chẳng có một đồng,
Lời nói như rồng chúng chẳng thèm nghe.

th́ lời nói trở thanh vô giá trị.

Nhưng nên coi chừng, bao giờ cũng cần nói đúng thực chất, phù hợp với kiến thức mà ḿnh nếu không dễ trở thành khập khiễng: “nói những lời như rồng như rắn”. Thêm yếu tố rắn ở trên làm chuyển đổi tức khắc giá trị nội dung của câu nói:

Học chẳng biết chữ cua, chữ c̣ng,
Nói những lời như rồng, như rắn!

Riêng trên phương diện giao tế, dân gian Việt Nam dùng thành ngữ: “rồng đến nhà tôm” để vừa bày tỏ sự khiêm tốn, nhún nhường của gia chủ, vừa gián tiếp ca ngợi người khách quư. Nhưng có khi, đó cũng là cách mai mỉa:

Mấy đời rồng đến nhà tôm.
Tôi đến nhà chị không môn th́ bầu.

Âu cũng là một lối giao tế thực dụng. Và quen thuộc nhất là Rồng chỉ thời vận. Thành đạt Hạnh thông như là “rồng gặp mây”.
Thường chỉ người thành đạt khoa cử:

“Như cá gặp nước, như rồng gặp mây”

Nhưng nếu mất yếu tố thời vận th́ chỉ là “Rồng nằm ở cạn”,
không c̣n vùng vẫy, múa may ǵ được, mà chỉ c̣n trơ h́nh hài:

Rồng nằm bể cạn giơ râu,
Mấy lời anh nói giấu đầu hở đuôi.

Hay đau khổ hơn là:

Rồng vàng tắm nước ao tù,
Người khôn ở với đứa ngu bực ḿnh.

Dễ thường mấy khi rồng mây được dùng để chỉ lứa đôi, v́ những h́nh tượng khác quyến rũ hơn, như: mận – đào, loan – phượng, yến – oanh, gió – trăng v.v… nhưng điều đó cũng có:

Mấy khi Rồng gặp mây đây,
Để Rồng than thở với mây vài lời.
Nữa mai Rồng ngược mây xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời Rồng Mây.

Xa hơn nữa, “lời rồng mây” cũng là lời hẹn thề, lời nước non hay là lời hứa thủy chung.

Một kiểu nói khác bày tỏ sự ước ao cao sang, biểu hiện một tâm lư hưởng thụ :

Một ngày dựa mạn thuyền Rồng,
C̣n hơn chín tháng nằm trong thuyền chài.

Cách nói trên tất nhiên bị phủ định bằng một suy nghĩ chín chắn hơn và xác thật hơn:

Chớ tham ngồi mũi thuyền rồng,
Tuy rằng tốt đẹp, nhưng chồng người ta.

Và quả thật, dân gian chúng ta đă xét đoán đúng giá trị, nh́n đúng thực chất con người, không lệ thuộc những thứ trang sức phù hoa trang hoàng sang trọng:

Dù ngồi cửa sổ chạm rồng
Chăn loan gối phượng, không chồng cũng hư

Nhưng sâu sắc và không kém chua chát là lời cảm thán sau đây:

Khen ai khéo dựng b́nh phong,
Bên ngoài long phượng, trong ḷng gạch vôi!

Hoặc nhằm để mỉa mai, phê phán lối sống thiếu trách nhiệm, đánh lừa người và đánh lừa cả chính ḿnh ca dao Việt Nam chúng ta cũng không bỏ qua nên có câu:

Học chẳng biết chữ cu chữ c̣
Nói những chữ như rồng như rắn

Tóm lại, tâm thức về Rồng – h́nh ảnh con vật vừa hư, vừa thực, vừa cao quư thiêng liêng, vừa gần gũi là cách tiếp cận uyển chuyển, phóng khoáng đầy tự tin của người Việt Nam.

Rồng đă trở thành biểu tượng văn hóa, một biểu tượng thiêng liêng gắn với tâm thức về cội nguồn dân tộc Việt Nam. Trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao, Rồng lại càng thể hiện độc đáo nhiều ư nghĩa, mang biểu tượng của sự cao cả, thiêng liêng và tồn tại măi măi …

Ca dao và tục ngữ truyền khẩu Việt về Rồng th́ c̣n rất nhiều nhưng người viết chỉ có thể trích dẫn một số ít ca dao trên đây, góp nhặt được trên internet. Rất tiếc bài viết có giới hạn nên tôi không thể trích dẫn hết để tŕnh bày cùng quư độc giả, mong thông cảm. Đa tạ.

Hy vọng là bài tạp ghi trên cũng đủ gói ghém ư nghĩa sâu sắc của Ca Dao Việt, có thể nói là căn bản của Nền Văn Hóa Dân Tộc Việt Nam.

Kính chúc Quư độc giả một Năm Mới Giáp Th́n 2024,

“AN KHANG THỊNH VƯỢNG”.

Lê Ngọc Châu
(Nhân Tết Giáp Th́n 2024, Nam Đức, ngày 18.01.2024)

Tài liệu tham khảo:
– Phỏng tác theo ca dao và thành ngữ góp nhặt trên internet.
– Nguồn u.a.: http://www.nuiansongtra.com/index.php?c=article&p=4640

 

Trở lại