Tôn giáo nào cũng có những vị chân tu - những
đấng lành thánh - suốt đời hiến thân
cho lư tưởng thiêng liêng cao cả của ḿnh đă
chọn. Nhiều vị đă cùng sống chết
với tha nhân, chết cho đạo pháp và trở nên
hiển thánh được đời đời sùng bái
tôn thờ. Tấm ḷng vị tha chan chứa t́nh người
của họ tỏa ra vô biên không vị kỷ, không
đóng khung hạn hẹp ở lằn ranh tôn giáo.
Biết bao công đức của họ được
truyền tụng từ thế hệ này qua thế
hệ khác được kể lại bằng
những câu chuyện đầy cảm kích.
Cách nay gần 3 thập niên trên tờ Đất
Mẹ số 38 (Đất Mẹ là tờ báo nguyệt
san Công Giáo) chúng tôi đă viết dưới đề
tựa " Nén Hương Cho Ḥa Thượng THÍCH
THANH LONG" ngay sau khi ngài viên tịch tại Sài G̣n.
Từ sau ngày ấy đến nay, nhiều báo Việt
ngữ tại Hoa Kỳ cũng có những bài viết
về ngài, điểm đáng chú ư là những tác
giả này đa số là những tù nhân chính trị
người Công Giáo trong đó có một số các
vị linh mục đang có mặt tại Hoa Kỳ,
những người đă một thời sống cùng
với cố ḥa thượng ở các trại tù
từ Nam chí Bắc, tất cả đều tỏ ḷng
tôn kính, ngưỡng mộ.
Tang lễ cố Ḥa Thượng THÍCH THANH LONG ngày 29 tháng
11 năm 1991 được mô tả như một đám
rước hết sức trọng thể. Đoàn người
tham dự đă phủ kín con đường dài 5 cây
số từ cổng Chùa Giác Ngạn đường Trương
Minh Giảng Sài G̣n tới Nghĩa Trang Bà Quẹo không
chỉ gồm các đoàn thể Phật tử, các
thiện nam tín nữ mà có mặt đủ mọi thành
phần tôn giáo cũng như rất đông đảo
các cựu Tù nhân Chính trị.
Trước năm 1973, Ḥa Thượng mang cấp
bậc Trung Tá làm Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật
Giáo cho đến khi thương tọa Thích Tâm Giác
đi Nhật bản trị bệnh th́ Ḥa Thượng
mới lên làm Giám Đốc và cũng được
thăng cấp Đại Tá tuyên úy từ dạo đó.
Ngày 13/6/1975 bị việt cộng bắt đi cải
tạo và đem ra Bắc. Đến ngày 12 /9/1987
được tha trở về lại Chùa Giác Ngạn
Sài g̣n và măn phần tại đây.
Ngược ḍng thời gian gần 3 thập niên, năm
ấy cũng vào mùa thu (1982), trại cải tạo Hà
Tây tiếp nhận thêm khoảng 80 tù nhân chính trị
(TNCT) từ trại tù Thanh Phong chuyển đến.
Đa số thành phần thuộc Tổng Cục
Chiến Tranh Chính Trị gồm các ngành Tâm Lư
Chiến, An Ninh Quân Đội và Tuyên Úy của Quân
Lực VNCH.
Trại Hà Tây có tất cả 12 buồng giam. Số
TNCT mới đến bị nhốt trong buồng số
7. Buồng này rất kín cổng cao tường, bao
quanh chằng chịt kẽm gai v́ trước đó
được dùng để nhốt các tù h́nh sự
có trọng án nên được canh gác cẩn mật.
Việt cộng coi những TNCT này là những đối
tượng cực kỳ nguy hiểm. Khoảng một
tháng sau khi thanh lọc kỹ càng th́ việt cộng
mới mở cửa cho các linh mục tuyên úy ra ngoài
lao động, tuy vậy buồng 7 vẫn chưa
được ra sân lớn tập họp điểm
số như các buồng khác. Đội Tuyên Úy lúc này
do linh mục Nguyễn Quốc Túy (*) - cha Túy là cựu
Thiếu Tá Biệt Động Quân, một mẫu người
trẻ năng nổ, ứng phó thần kỳ đă
được các vị tu sĩ cử ra đứng mũi
chịu sào để điều động đội
này xử trí với những thủ đoạn thâm
độc của việt cộng. Công việc chính
của đội tuyên úy lúc đó là đào đất
đắp đường và kéo xe thay thế trâu ḅ.
Lần đầu tiên tôi được cha Túy mời
dự bữa cơm trưa thân mật tại sân
buồng 7. Có khoảng chục người trong đó có
linh mục Khổng Tiến Giám bào đệ của
linh mục Khổng Tiến Giác tuyên úy Bộ Tổng
Tham Mưu, linh mục Nguyễn Văn Thịnh cựu giám
đốc nha tuyên úy Công giáo, các mục sư Xuân,
Điểu Huynh và các đại đức Tâm, Khuê, Tùng
và ḥa thượng Long. Ngoài đội tuyên úy chỉ
có tôi và Đại tá Trần Mộng Chu nha Quân Pháp.
Hầu như không phân biệt tôn giáo và cấp
bậc, tất cả các vị tuyên úy đều xem ḥa
thượng Thích Thanh Long như một người anh
cả và xưng hô một cách chung chung là thầy Long.
Mỗi khi nhắc đến thầy Long th́ mọi người
đều nói về thầy với niềm sủng ái
trọng vọng.
Thoạt đầu khi chưa giới thiệu từng
người trong bữa tiệc, tôi ghé vào tai cha Túy
hỏi có phải người ngồi trước
mặt cha là Thầy Long không th́ cha lắc đầu.
Cung cách bề ngoài và bộ quần áo mới màu đà
c̣n tươi của vị này làm cho tôi lầm ông
với ḥa thượng Long. Rồi cha chỉ cho tôi người
ngồi đối diện với tôi.
Vóc gầy g̣, dong dỏng cao, da ngăm ngăm, hàm răng
nhỏ và đen huyền, tóc cạo dúng tiêu chuẩn sư
tăng nhà Phật, mặc bộ đồ cũ
đơn sơ, khuôn mặt hiền hậu nhưng
khắc khổ, toát ra vẻ chân tu như thánh Găng
Đi nhất là cặp mắt sáng, sâu, đen láy,
rất ít nói nhưng quan tâm lắng nghe mọi người
xung quanh. Đó là người ngồi đối
diện với tôi. Người đó chính là Thầy
Long. Tôi nh́n ông khẽ cúi đầu và ông nh́n tôi
với đôi mắt hiền từ tŕu mến. Ông
đă trao cho tôi một nụ cười thật kín
đáo.
Tháng 3/1983, trại Hà Tây sắp giải thể và
chuyển hết các TNCT về Nam Hà. Các vị Tin Lành và
Phật Giáo được phân tán về các đội
lao động. Riêng các tuyên úy Công Giáo chờ phương
tiện chuyển ngược về Thanh Phong.
Năm 1985, tôi và thầy Long bị giam chung tại Nam Hà
và chính thời gian này tôi được biết
thầy nhiều hơn. Có những người đă
biết và nói rằng trước ngày di cư từ
Bắc vào Nam năm 1954, thầy đă trụ tŕ
tại một ngôi chùa ở một làng tại tỉnh
Nam Định và được đông đảo tín
hữu mến mộ. Nhiều đêm tâm sự với
thầy trong buồng giam, tôi cố gợi chuyện
để biết thêm nhưng thầy là người
điềm đạm khiêm tốn chỉ kể với
tôi là thầy xuất gia đầu Phật từ lúc
12 tuổi. Quyết tâm tu hành, không muốn vương
vấn nợ trần, thầy đổi tên là
Nguyễn Văn Long và hầu như hoàn toàn không ai
biết được tên thật và quê quán của
thầy. Thầy thuộc nhiều địa danh ở
Nam Định, khi tôi kể chuyện liên quan đến
những vùng Cổ Lễ, Cổ Ra, Văn Tràng,
Trực Ninh, Nam Trực, Quần Phương, Lạc
Quần v.v. th́ bỗng nhiên đôi mắt thầy
rực sáng lên và có vẻ thích thú. Tôi đoán có
lẽ thầy đă trải qua thời thơ ấu
tại một trong những địa danh này chăng?
Thầy nói năm 16 tuổi, thầy chỉ lén về
nhà nh́n mặt thân phụ của ḿnh từ trần
rồi lại lặng lẽ ra đi. Lư tưởng
của thầy là Phật pháp, t́nh yêu của thầy là
tha nhân, thân bằng quyến thuộc của thầy là
Phật tử. Thầy có một cuộc sống vô cùng
mộc mạc, đơn sơ, đức độ, lúc
đi tu cũng như lúc ở tù. Thầy thường
nói với tôi : "Tù cũng là tu". Thầy luôn
tự nhận ḿnh là một "Ông Sư Nhà Quê".Vốn
có một tâm hồn thanh tịnh như đóa sen
nở trên mặt hồ không gợn sóng lúc nào cũng
toát vẻ chân tu khiến người bàng quan thấy
thầy là cơi phúc. Đúng như vậy!
Trong thời kỳ đói khát, tù nhân chưa được
gia đ́nh tiếp tế thăm nuôi đă có kẻ
lấy chiếc lon ghi gô đựng nước uống
của thầy nhét đầy thịt heo đánh
cắp của trại, lúc bị phát giác không ai dám
nhận. Cuối cùng để tránh phiền lụy cho
một số người, thầy không ngần ngại
đứng ra nhận chiếc lon đó là của
thầy mặc dù ai cũng biết thầy ăn chay trường
và ai là kẻ ăn trộm lúc bấy giờ. Khi nào
trại cho tù nhân chút ít thịt để "bồi
dưỡng", thầy thường nhường cho các
anh em đau ốm bệnh hoạn.
Đến khi được thăm nuôi tiếp tế,
Phật tử khắp nơi đến thăm thầy
hầu như hàng tuần. Những quà tiếp tế,
thầy đem chia cho các bạn tù. Quần áo chỉ
giữ 2 bộ. c̣n bao nhiêu cũng đem cho hết.
Thầy thường xuống bệnh xá thăm
viếng những người đau ốm và đem quà
bánh thuốc men xuống cho họ. Thầy rất quan tâm
đến những "con bà phước" (*) bị
bỏ quên trong trại. Một vài trường hợp
điển h́nh:
- Anh Khương, Phó Quản Đốc Trung Tâm Cải
Huấn Côn Sơn - một người Công Giáo - bị
địch bắt ngay trong lúc c̣n đang mặc sắc
phục và bị việt cộng đánh nhừ tử.
Hậu quả của những trận đ̣n thù
khiến anh Khương trở thành bại liệt toàn
thân và á khẩu. Anh bị mất liên lạc với
gia đ́nh từ ngày bị bắt. Gần 13 năm, anh
mới bập bẹ nói được một tiếng
"dôi, dôi" như đứa trẻ mới học
nói. Thầy Long đă đích thân chăm sóc đút cơm,
tắm rửa cho anh như một người thân,
đặc biệt là khi trại đọc lệnh tha có
tên anh nhưng anh không biết về đâu và không
thể đi được một ḿnh. Chính thầy
Long đă giúp anh một số tiền và nhờ đại
đức Tâm được tha cùng một lượt
với anh Khương về trước t́m kiếm thân
nhân của anh ở tận miền Tây để ra
đón anh.
- Anh Nguyễn viết Tân, Đại tá hải quân
QLVNCH bị toàn thân bất toại và bệnh nặng
trong lúc mọi người ai nấy đều lo cho
bản thân ḿnh và t́nh thương giữa con người
đă trở nên mệt mỏi th́ thầy Long cũng
chính là người t́nh nguyện chăm sóc anh Tân cho
đến khi anh được người nhà ra đón
kịp về rồi chết.
Một trường hợp khôi hài khác là ở trong
trại có một anh tên Nguyễn Huệ, "vô tông tích"
tự xưng là trung tướng Tư Lệnh Sư
Đoàn 23B (?). Có một thời gian anh ta bị giam chung
với các tướng lănh QLVNCH nhưng sau việt
cộng phát giác "tướng Nguyễn Huệ"
chỉ là một tên khùng và bị đuổi ra.
Thấy thầy thương người và dễ dăi,
"tướng Nguyễn Huệ" thường hay
chạy theo quấy quả xin xỏ cơm và thuốc lào.
Hễ trông thấy anh ta là thầy tủm tỉm cười,
thầy không hề tỏ vẻ khó chịu và c̣n đi
kiếm thuốc lào cho anh ta, tuy thầy chẳng bao
giờ hút thuốc.
Tù nhân được tha dần nhưng vẫn c̣n
tồn đọng một số khá lớn trong đó có
các đại đức Tâm, Khuê, Xuân, Tùng, Trí, B́nh,
Ngự, Học, Diệu v.v. Mỗi lần thầy Long
được thông báo có thăm nuôi th́ các vị này
đă sắm sẵn bao bị và tận t́nh giúp đỡ
thầy. Thầy thường nói : " Hôm nay tôi
lại có thánh Veronica đến thăm nuôi ". Đây
cũng là dịp thầy tập họp các tu sĩ
Phật giáo ở trong trại tù để phân công
đi thăm viếng bệnh nhân hoặc cắt cử
họ đến tụng kinh và cầu siêu mỗi khi có
người tạ thế.
Vào các dịp lễ Noen hay Tết âm lịch, thầy cũng
dành dụm chút gạo, đậu xanh, đường
tán và khởi xướng việc nấu chè ăn chung
cả buồng mang niềm vui nhỏ bé đến cho
mọi người và c̣n dốc hết "hầu
bao" giúp các anh em nghèo đói nhất trong trại.
Thầy rất thích nghe tôi đánh đàn và kể
chuyện cuộc đời thánh Phanxicô Khó Khăn
(Francis 0f Assisi) nhất là những câu hát ư nghĩa thâm
thúy trong Kinh Ḥa B́nh. Cứ vào mỗi sáng sớm
Chủ Nhật được nghỉ lao động,
trong khi tất cả mọi người c̣n nằm trong
mùng th́ thầy đă đánh thức tôi và khẽ nói
: "Ông Quư ơi ! Dậy cho anh em nghe đàn đi
!" Thế rồi âm thanh của chiếc đàn
gỗ tự tạo ở trong tù của tôi nhè nhẹ
vẳng ra tiếng thay lời trong âm giai cung Mi buồn
" Lạy Chúa từ nhân, xin cho con....." hầu như
không làm cho ai khó chịu cả.
Tấm ḷng cao quư của thầy sáng như ngọn
đuốc trong trại tù tăm tối, không những
đối với các bạn tù chính trị mà c̣n lan
tỏa đến cả những tù h́nh sự giam chung
cùng trại.
Như một tấm huy chương vô giá mà trên cơi
đời này không thể đem ra so sánh được,
thầy đă đối diện với bọn cai tù khát
máu, trước họng súng AKA mà không hề nao núng và
không sợ chết. Thầy đă được các
vị tuyên úy Công Giáo ca ngợi v́ đức bác ái và
ḷng hỉ xả, quên ḿnh và chấp nhận những ǵ
bất hạnh xảy đến. Trong cuốn AKA và
Thập Giá của linh mục Phan Phát Huồn, Ḍng Chúa
Cứu Thế trang 107-108 kể chuyện đám tang
của Cha Nguyễn Văn Bản, Ḍng Đa Minh, tuyên úy
Tổng Y Viện Cộng Ḥa chết tại trại giam
Yên Bái. Sau khi chôn cất, việt cộng bắt các tù
nhân cải tạo lên lớp hội thảo đển
lên án và làm nhục người đă chết. Chúng vu
cáo cho Cha Nguyễn Văn Bản là một tên ác ôn côn
đồ, chạy theo Mỹ Ngụy giết hại
đồng bào, một tên có nợ máu đối
với nhân dân, một tên lường gạt vv.. Nghe tên
Nha cán bộ việt cộng lải nhải nhục
mạ một người đă khuất mà người
đó vốn là một người đạo đức
gương mẫu, không dằn nổi sự bất b́nh,
thầy Long đă đứng lên bênh vực bằng
một giọng ôn tồn nhưng cương quyết :
" Tôi được biết Linh Mục Bản ngoài
xă hội cũng như ở trong trại cải
tạo là một con người đạo đức,
được mọi người kính nể..." Tên
việt cộng hống hách nạt nộ:
" Anh im mồm ngay. Anh Bản đă bị nhà nước
cách chức linh mục của anh ta từ ngày anh bước
chân vào trại cải tạo, c̣n anh, anh đừng có
ḥng đem cái bọn cha cố vào đây mà hù dọa
cách mạng..." nhưng thầy Long đâu có
chịu im cho. Đợi cho tên việt cộng vừa
dứt lời th́ thầy Long nói tiếp:
" Nếu linh mục đều như cán bộ nói
th́ làm sao dân chúng tin tưởng và kính mến họ.
Mặc dù cán bộ đă cấm các trại viên
gọi các linh mục là Cha và tự xưng ḿnh là con,
trại viên nào không tuân th́ sẽ phải xử lư, nhưng
thưa cán bộ, có ai chấp hành lệnh đó không?
Trái lại, đối với công chức nhà nước,
trước mặt họ gọi là cán bộ nhưng
sau lưng họ gọi bằng thằng việt
cộng th́ cán bộ nghĩ sao?"
Như một con hổ bị trúng đạn, hai
mắt hắn đỏ ngầu giận dữ, nhảy
chồm tới nh́n trừng trừng vào thầy Long, quát
thật lớn văng cả nước miếng vào
mặt người đối diện và hắn ra
lệnh:
"À anh này hỗn thật, yêu cầu các đồng
chí đem cùm tên này cho tôi, biên bản sẽ làm
sau."
Thầy Long vẫn tiếp tục nói một cách hùng
hồn cho đến lúc lính cảnh vệ việt
cộng mang AK xông tới c̣ng hai tay ông, ông không tự
bênh vực cho ḿnh, ông vẫn b́nh thản đưa hai
tay cho chúng c̣ng để chúng đem đi. Đây
thật là h́nh ảnh một con chiên hiền lành đứng
trước kẻ xắn lông ḿnh mà không nói lời
than trách như đă được diễn tả trong
Kinh Thánh. (Cv.8.32-33).
Cuối năm 1987, thầy Long được tha về.
Cởi bỏ chiếc áo chàm cải tạo, thầy
lại khoác chiếc áo màu đà. Từ khi trở
về Chùa Giác Ngạn, thầy không giữ chức
trụ tŕ như trước, thầy sống trên căn
gác xép tại góc vườn nhưng hàng ngày rất
đông người đến thăm viếng và ngôi
chùa được trùng tu lại trở nên đẹp
đẽ khang trang hơn cũng nhờ uy tín và sự
quan tâm của thầy. Hầu như ai cũng cảm
mến gương hy sinh, ḷng can đảm, tánh cương
trực của thầy Long. Có những vị Linh
Mục không đi cải tạo mà chỉ nghe tiếng
thôi cũng muốn đến thăm thầy Long
tại Chùa Giác Ngạn. Tôi hỏi Cha Vũ Ngọc Trân,
Chánh Xứ Chu Hải tỉnh Phước Tuy, cha nghĩ
thế nào khi đến thăm Ḥa Thượng Thích
Thanh Long tại Chùa Giác Ngạn? Cha đă trả
lời một cách không dè dặt: " Tôi nghĩ Chúa
sẽ thưởng công cho bất cứ ai biết khao
khát trọn lành, thương người và giúp đỡ
bênh vực người. Chúa nói kẻ nào giúp đỡ
người đều có công trước mặt Ta. Tôi
nghe các cha tuyên úy đi cải tạo về có nói
nhiều về ông. Tôi cũng mến mộ ông và
việc tôi đến thăm cơ sở một tôn giáo
khác đâu có ǵ làm suy giảm đi ḷng kính mến Chúa
nơi tôi đâu. Nếu nói đó là một h́nh
thức trao đổi văn hóa th́ cũng chẳng
sao!" (Cha Đa Minh Vũ Ngọc Trân cũng đă qua
đời tại Xứ Chu Hải Bà Rịa ngày
24/2/1992).
Trong thời gian chưa mắc bệnh ung thư nơi xương
tọa, phương tiện chính của thầy trong thành
phố là "xe đạp ôm". Thầy thường
ngồi trên "poọc ba ga" phía sau để cho
một chú tiểu chở đi. Người ta thấy
thầy xuất hiện ở nhiều nơi và t́nh thương
của thầy dường như vẫn đặc
biệt dành cho bạn tù cải tạo c̣n trong trại
giam hoặc đă được tha về. Khi biết có
ai đi xuống trại Z30D th́ thầy cũng nhắn
lời thăm hỏi, có đôi lúc thầy gửi
một cần xé chôm chôm hoặc vài thùng ḿ gói
xuống phân phát cho anh em chưa may mắn được
về xum họp với gia đ́nh. Khi nghe tin có người
vừa mất, bất luận ở đâu, không phân
biệt tôn giáo, nơi cầu siêu hay chốn làm phép xác,
tại chùa hay nhà thờ thánh thất, thầy cũng
đều có mặt để phân ưu với gia
đ́nh người quá cố, thầy không ngần
ngại đến v́ "nghĩa tử là nghĩa
tận". Tôi đă gặp thầy và cùng đứng
chung với thầy dưới gốc cây xoài trước
tượng đài Đức Mẹ trong khuôn viên Nhà
Thờ Ba Chuông để chờ tiễn đưa linh
cữu của cố Trung Tá Nguyễn Thủy Chung và
cố Trung Tá Nguyễn Anh Ly mất vào những năm
1989-1990.
Rất nhiều cựu TNCT nay đang có mặt tại
Hoa Kỳ hoặc định cư rải rác trên
khắp thế giới vẫn nhắc đến
thầy Long. Kư giả Lô Răng tức cố Trung Tá
Phan Lạc Phúc và Trung Tá nhà văn Hoàng Ngọc Liên, Kư
giả Vũ Ánh... cũng có những bài viết
rất sâu sắc về thầy.
** *
Tôi chẳng có tư cách ǵ và cũng chẳng dám
đưa ra nhận xét nào để "phong thánh"
cho một con người mà tôi quen biết trong một
thời gian hạn hẹp. Dưới nhăn quan của
một tín đồ Công Giáo, dù sao tôi cũng chỉ là
một chứng nhân với biểu kiến riêng, tôi xem
Ḥa Thượng Thích Thanh Long là một tấm gương
rất tốt lành, đáng kính và đáng tôn vinh mà
thời đại ngày nay thắp đuốc giữa
ban ngày đi t́m cũng khó kiếm. Một người
đă hy sinh tất cả để trọn đời
đi theo con đường giống như của thánh
Phanxicô Khó Khăn tác giả bài ca KINH H̉A B̀NH đă
đi.
Thầy Long luôn đề cập KINH LỤC H̉A trong
Diệu Pháp Liên Hoa cho các đệ tử. Chính v́
thế mà thầy rất thích KINH H̉A B̀NH của thánh
Phanxicô lúc ở trong tù th́ sau này tôi mới nghiệm
ra v́ nó ẩn chứa những điều uyên thâm sâu
xa nói về đức bác ái và ḷng từ bi cũng
giống như KINH LỤC H̉A. Tôi không ngờ thầy
Long lại là một người bạn tri âm của tôi
và ngày nay mỗi khi dạo nhạc hát lên bài ca KINH H̉A
B̀NH tôi lại nhớ đến thầy.
Từ cơi bên kia, tôi tin rằng thầy đang mỉm cười
và chăm chú lắng nghe tôi hát:
"Lạy Chúa từ nhân, Xin cho con biết mến yêu
và phụng sự Chúa trong mọi người, Lạy
Chúa xin hăy dạy con như khí cụ b́nh an của Chúa,
Để con đem yêu thương vào nơi oán thù,
đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an ḥa
vào nơi tranh chấp, đem chân lư vào chốn lỗi
lầm...
Tôi sẽ nhớ thầy măi măi cùng với bài ca KINH H̉A
B̀NH trong tiếng tơ đồng của cung Mi
buồn.
VŨ VĂN QUƯ
(*) Cha Nguyễn Quốc Túy hiện nay làm cha xứ Tân
Thái Sơn tại Sài G̣n.
(*) Con bà phước: tù nhân mồ côi, không người
thăm viếng, thiếu thốn.
|