Trong khoảng thời gian từ năm 1760 tới năm
1840, vai tṛ của nước Pháp trên thế giới
rất quan trọng. Nếu không có sự can thiệp quân
sự của người Pháp tại Bắc Mỹ, người
Mỹ chưa chắc đă giành được Độc
Lập và Tự Do từ người Anh để
rồi thiết lập nên một quốc gia mới, các
định chế mới. Ảnh hưởng của người
Pháp đă tới các xứ Ái Nhĩ Lan (Ireland), Ba Lan, Ḥa
Lan, Ư và nhiều miền đất khác.
Nước Pháp đă là trung tâm của các phong trào trí
thức trong thế kỷ 18. Khoa Học của nước
Pháp đă dẫn đầu Thế Giới. Các sách
học, báo chí, tạp chí… viết về Văn Hóa và
Chính Trị bằng tiếng Pháp được các nhà
trí thức thuộc nhiều quốc gia t́m đọc và
các ư tưởng, sáng kiến, phát minh của người
Pháp được các dân tộc khác trên Thế
Giới theo dơi và bắt chước. Tiếng Pháp
đă là một ngôn ngữ quốc tế, dùng cho các
nhà trí thức và giới quư tộc của nhiều
quốc gia.
Nước Pháp với dân số 24 triệu người
vào giữa thế kỷ 18, là một miền đất
giàu có nhất và đông dân nhất dưới
quyền một chính phủ trung ương trong khi vào
thời gian này, nước Đức c̣n bị chia
rẽ, nước Nga chưa ổn định và dân
số của cả nước Anh và Tô Cách Lan cộng
lại mới được 10 triệu người.
Thành phố Paris tuy nhỏ hơn so với thành phố
London về diện tích nhưng lại rộng gấp
hai lần các thành phố Vienna và Amsterdam. Tiền vàng
của nước Pháp được lưu hành
khắp châu Âu và chiếm một nửa số lượng
ngoại tệ giao dịch, và số lượng hàng hóa
xuất cảng của nước Pháp qua các nước
khác của châu Âu đă lớn hơn số lượng
hàng hóa của nước Anh.
Nhưng trong hoàn cảnh phát triển với ảnh hưởng
rộng lớn như vậy, cuộc Cách Mạng Pháp
đă bùng nổ, làm rung động cả châu Âu,
đă lật đổ chế độ cũ bằng
một thứ "xă hội mới" và là một
khuôn mẫu mà các phong trào cách mạng sau này hướng
vào, coi cuộc Cách Mang Pháp năm 1789 là một cách
mạng đi trước.
1- Nguyên nhân xa của cuộc Cách Mạng Pháp.
Chế
độ chuyên chế sáng suốt (enlightened despotism) có
thể được dẫn chứng bằng đường
lối cai trị của Vua Louis 14 tại nước Pháp
hay của Đại Đế Peter tại nước
Nga. Vào thời đại chuyên chế này, các nhà cai
trị đă khai quang các vùng đất śnh lầy,
mở mang đường lộ, xây dựng cầu
cống, đặt ra luật lệ, dẹp bớt các
quyền tự trị địa phương, giới
hạn tính độc lập của nhà thờ và
giới quư tộc đồng thời đào tạo ra
một tầng lớp viên chức thuộc quyền chính
phủ trung ương.
Nhà vua vào thời kỳ này đă mang tính chất
thế tục, không tự cho rằng quyền hành là do
"Thiên Mệnh" và chịu trách niệm cai trị
thần dân thay "Trời". Nhà vua đă xác
nhận quyền hành của ḿnh do sự hữu ích
của ngai vàng đối với xă hội và cũng v́
thế, Đại Đế Frederic đă tự gọi
ḿnh là "người công bộc bậc nhất
của quốc gia" (the first servant of the state). Tính cách
của chế độ chuyên chế sáng suốt đă
thể hiện rơ tại các nước Pháp, Áo,
Phổ, Nga, Tây Ban Nha, Đan Mạch và Anh…
Tại nước Pháp, sự chuyên chế sáng suốt
của nhà vua đă gặp thất bại. Vua Louis 15 lên
ngai vàng năm 1715 và trị v́ tới năm 1774, đă
sống trong cung điện Versailles tráng lệ và không
quan tâm tới các vấn đề hệ trọng
của đất nước. Nền quân chủ
của nước Pháp gặp nhiều khó khăn,
nhất là trong phương pháp thu thuế. Phần
lớn nguồn lợi của quốc gia do việc thu
thuế và có một phần thuế do việc bán đi
một số đặc quyền. Trong các thứ
thuế, quan trọng nhất là thuế đất
(taille), sau đó là thuế muối (gabelle). Thông thường
chỉ có giới nông dân phải nộp thuế đất
và theo nguyên tắc, thuế đất được
miễn trừ cho giới quư tộc, các viên chức chính
quyền và giới tư sản, trong khi đó nhà
thờ có khoảng 5% tới 10% đất đai, cũng
được miễn thuế v́ đă tặng đều
đặn cho nhà vua các món quà, dù rằng những
thứ quà này ít hơn loại thuế trực thu.
Mặc dù nước Pháp là một quốc gia giàu có và
phong phú tài nguyên, nhưng về lâu dài, chính quyền
Pháp trở nên nghèo khó đi v́ những tầng
lớp xă hội được thụ hưởng
sự thịnh vượng lại không phải trả
thuế theo lợi tức của họ. Do áp lực
chiến tranh, Vua Louis 14 đă bắt người dân Pháp
phải đóng thuế thân (poll tax) và thuế 10% tính
trên lợi tức, nhưng nhiều người đă
t́m cách trốn tránh các loại thuế này.
Năm 1726, việc thu thuế cũng gặp thất
bại v́ việc trả thuế trực thu chứng
tỏ người đóng thuế thuộc đẳng
cấp thấp kém (inferior status) trong xă hội. Các nhà
quư tộc, giới tu sĩ, giới tư sản cũng
phản đối việc đóng thuế v́ họ không
có trách nhiệm và không có quyền kiểm soát chính
trị hay hành chánh đối với xă hội mà
họ đang sinh sống. Họ đ̣i hỏi nhà vua
phải tôn trọng nguyên tắc là không có thuế
nếu không có đại diện của các tầng
lớp dân chúng.
Tới thập niên 1740, do phí tổn chiến tranh
của nước Pháp quá cao, một loại thuế
mới lại được ban hành theo đó, mọi
lợi tức từ mọi tài sản phải chịu
thuế 5%: đất đai, đầu tư thương
mại và các quyền lợi khác. Không ai được
miễn thuế cả, dù thuộc tầng lớp xă
hội nào, dù trước kia đă được
miễn thuế rồi… nhưng trên thực tế,
loại thuế 5% này chỉ được đánh vào
đất đai.
Khi chính quyền Pháp thời đó tăng thuế,
tiếng phản đối dữ dội đă nổi
lên từ Nghị Viện Paris, từ các nghị
viện 11 tỉnh, từ miền Brittany và từ giáo
hội. Tất cả các tổ chức này đă
mạnh hơn thời trước. Những người
phản đối chính quyền trung ương Pháp
đă viện dẫn các lời nói của Montesquieu
(1689-1755).
|
Montesquieu
|
Trong
tác phẩm "Tinh Thần Luật Pháp" (the Spirit of
the Laws) xuất bản năm 1748, ông Montesquieu đă làm
phát triển hai ư tưởng chính. Ư tưởng
thứ nhất cho rằng các h́nh thức chính quyền
thay đổi tùy theo khí hậu và hoàn cảnh,
chẳng hạn như thể chế chuyên chế
(despotism) chỉ thích hợp với loại đế
quốc rộng lớn tại miền khí hậu nóng và
chế độ dân chủ chỉ hữu hiệu
tại các quốc gia thành phố nhỏ bé (small
city-states).
Ư tưởng thứ hai nhắm vào sự độc
đoán thuộc vương quyền (royal absolutism)
của nước Pháp. Montesquieu đă tin tưởng
rằng cần phải có sự phân chia và cân bằng
quyền lực (the separation and balance of power) giữa nhà
Vua và các cơ chế trung gian, chẳng hạn như các
nghị viện, giới quư tộc, giới tu sĩ hay
nhà thờ. Triết gia Montesquieu cũng đă khâm
phục các thể chế chính trị của nước
Anh theo đó có sự ḥa hợp giữa vương
quyền, giới quư tộc và nền dân chủ
(monarchy, aristocracy and democracy) thể hiện bằng nhà
Vua, các nhà quư tộc và các viện dân cử. Lư
thuyết về sự phân quyền giữa Lập Pháp,
Hành Pháp và Tư Pháp của Montesquieu đă ảnh hưởng
rất mạnh tới các người Mỹ khiến
cho các nhà lập quốc Bắc Mỹ viết ra
Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ năm 1787.
Thời đó, các Nghị Viện của nước Pháp
đă cương quyết cho rằng việc tăng
thuế là vi hiến (unconstitutional) và vi phạm vào các
tự do lịch sử của họ (historic liberties). Sau
nhiều tranh chấp, Vua Louis 15 đành phải xếp
việc tăng thuế sang một bên. Nhưng khi
cuộc chiến tranh 7 năm (1756-1763) chấm dứt, vương
quyền của nước Pháp lại muốn tăng cường
việc tập trung quyền lực vào trung ương nên
đă quyết định hủy bỏ các Nghị
Viện v́ đây là các lực lượng chính
trị chống đối.
V́ mục đích này, vào năm 1768, Vua Louis 15 đă
bổ nhiệm ông Maupeou làm Thủ Tướng để
giải tán các Nghị Viện cũ đồng
thời thiết lập ra các Nghị Viện mới
thay thế. Nhân viên của các hội đồng
mới này là các viên chức được bổ
nhiệm, ăn lương, không được bỏ
phiếu chống đối các đạo luật
của chính quyền, có tính đồng nhất trên
cả nước Pháp và một dự tính của các
hội đồng này là sẽ đánh thuế vào các
tầng lớp xă hội đă được ưu
đăi hay miễn thuế trước kia.
|
Vua Louis 16
|
Năm
1774, Vua Louis 15 qua đời, nối ngôi là người
cháu tức Vua Louis 16 mới 20 tuổi, một người
vụng về và nhút nhát, ưa thích cưỡi
ngựa, săn bắn và làm các ổ khóa. Khuyết
điểm của nhà vua trẻ này là tính do dự,
sẵn sàng nghe lời các cố vấn và khi có
những lời khuyên sáng suốt, mọi việc đều
tốt đẹp nhưng khi nhà vua gặp các lời
khuyên thiển cận, kết quả là những nguy
hại cho chính mạng sống của nhà vua.
Việc tăng thuế của ông Maupeou và các người
cộng tác với ông cũng đă gặp chống
đối, nhiều nơi tố cáo ông là kẻ
thừa hành của một chế độ chuyên
chế và họ đ̣i hỏi phải lập lại
Nghị Viện Paris và các Nghị Viện cũ. Vua
Louis 16 v́ do dự, đă ra lệnh giải nhiệm ông
Maupeou và làm phục hồi các Nghị Viện cũ.
Thực ra, chính các Nghị Viện cũ này đă ngăn
trở các cải cách, đă là cứ điểm
của giới quư tộc và các người hưởng
đặc quyền trong nhiều thập niên.
Cũng vào năm 1774, Vua Louis 16 thành lập một
bộ cải cách, đứng đầu là ông Jacques
Turgot. Đây là một nhà triết học và cũng là
một nhà cai trị có kinh nghiệm. Khi lên nắm
quyền, ông Turgot đă t́m cách dẹp bỏ các phường
thợ thủ công (guilds) v́ các loại nghiệp đoàn
này đă chiếm được sự độc
quyền ưu đăi tại các thành thị. Ông Turgot cũng
cho phép ngành nội thương về ngũ cốc
được tự do hơn và t́m cách hủy bỏ
loại tạp dịch bắt buộc (corvée) theo đó
mọi công dân phải sửa chữa đường
lộ trong vài ngày mỗi năm và thay thế bằng
tiền đánh thuế lên mỗi đầu người
dân thuộc mọi giai cấp. Trước chương
tŕnh cải cách này, Nghị Viện Paris được
sự ủng hộ của các thành phố khác và nhà
thờ, đă phản đối ông Turgot dữ
dội, khiến cho ông ta phải từ chức vào năm
1776. Việc canh tân như vậy đă bất thành.
Năm 1778, nước Pháp giao chiến với nước
Anh. Các đ̣i hỏi lại tái diễn: các phí tổn
v́ chiến tranh, các món nợ, các dự án đánh
thuế, các chống đối từ các Nghị
Viện và từ các thành phần của dân chúng… và
kết quả là vào thập niên 1780, cuộc Cách
Mạng đă bùng nổ.
2- Ba giai cấp trong chế độ
cũ của nước Pháp.
|
Ba giai cấp của dân Pháp
Giai cấp hạng 3 ở dưới cùng cơng trên
lưng
gai cấp 1 (tu sĩ), giai cấp 2 (quư tộc)
|
Thể
chế chính trị của nước Pháp trước
cuộc Cách Mạng năm 1789 vừa mang tính quư
tộc, vừa có tính phong kiến. Năm 1302, v́ sự
chống đối Giáo Hoàng và v́ cần tới sự
ủng hộ của nhiều tầng lớp trong dân chúng,
Vua Philip IV của nước Pháp đă kêu gọi các
đại biểu của xă hội Pháp đứng vào
trong 3 giai cấp (estates) và mỗi người dân
thuộc về một trong ba giai cấp này. Giai cấp
thứ nhất là giới tu sĩ, giới quư tộc
thuộc giai cấp thứ hai c̣n giai cấp thứ ba
gồm những người c̣n lại, từ các nhà buôn
giàu có, các nhà trí thức tới lớp nông dân nghèo hèn
và giới công nhân thành thị. Quyền lợi pháp lư
cùng uy tín cá nhân của một công dân tùy thuộc vào
loại giai cấp của người công dân đó
trong khi trên thực tế, tài sản, các sinh hoạt
sản xuất cùng ảnh hưởng xă hội, chính
trị, đă không tương xứng với sự phân
loại giai cấp kể trên.
Giai cấp thứ nhất của nước Pháp
thời đó là giới tu sĩ. Địa vị và các
điều kiện ưu đăi của Nhà Thờ đă
là một trong các nguyên nhân chính gây ra cuộc cách
mạng. Các vị giám mục thời đó thường
đóng các vai tṛ quan trọng trong công quyền và Nhà
Thờ Thiên Chúa Giáo cũng đă thu thuế trên các
sản phẩm thu hoạch được từ
những đất đai sở hữu. Vào các năm
trước cuộc Cách Mạng 1789, có vào khoảng
100,000 tu sĩ Catholic trên nước Pháp, và nhà thờ,
trường học, các tu viện và các cơ sở tôn
giáo khác đă chiếm hữu từ 5% tới 10% đất
đai toàn quốc với tài sản tập trung không
đều, phần lớn dồn vào các giám mục cao
cấp.
Giới quư tộc là giai cấp thứ hai, có vào
khoảng 400,000 người kể cả phụ nữ và
trẻ em. Họ giữ độc quyền tại các cơ
quan cao cấp của chính phủ, các tổ chức quân
đội và nghị viện. Cùng với giới tu sĩ,
các nhà quư tộc đă ngăn trở việc thu
thuế và lo t́m cách kiểm soát các chính sách quốc
gia.
Trong các năm từ 1713 tới 1789, nền ngoại thương
của nước Pháp đă tăng lên gấp 5
lần nên cũng làm gia tăng giới thương nhân
và viên chức của chính phủ. Họ là thành
phần của giai cấp tư sản, một lớp
người dần dần trở nên giàu có, đông
đúc hơn và cũng tự tin hơn, nhưng họ
cũng bất măn đối với các ưu đăi, các
đặc quyền, các kiêu ngạo… của giới tu
sĩ và giới quư tộc. Do càng ngày càng trở nên
giàu có hơn, giới tư sản đă cảm
thấy bị kỳ thị trong việc chấp
nhận vào các chức vụ của chính quyền, trong
các vai tṛ và danh dự của xă hội là những
thứ thường dành cho giới quư tộc. Cuộc
cách mạng đă xẩy ra là do sự xung đột
giữa hai tầng lớp xă hội đang đi lên: giới
quư tộc và giới tư sản.
Dưới tận cùng trong xă hội là lớp người
b́nh dân, sống bằng tiền lương lao động,
họ là các nông dân, các thợ thủ công, các công nhân
nhà máy… Họ đă sống nhờ bán sức lao
động và sản phẩm trên các loại thị trường
và chính họ đă đóng một vai tṛ quan trọng
trong cuộc Cách Mạng.
Nước Pháp vào thế kỷ 18 có 4 phần 5 dân chúng
là nông dân. Đây không phải là lớp người "nông
nô" như tại nước Nga. Họ canh tác trên
mảnh đất của họ, hoặc trên đất
thuê rồi nộp lợi tức thu hoạch cho chủ
đất. Nhưng vào thời đó vẫn c̣n một
số đặc tính của thời đại phong
kiến với các thái ấp (manor) có các nhà quư
tộc làm chủ. Những người này có đặc
quyền "săn bắn" (banalité) hay duy tŕ các
con mồi săn trên đất đai của ḿnh và
của các nông dân khác. Các nhà quư tộc lại có các
độc quyền về các nhà máy xay lúa, các nhà máy
ép rượu, các ḷ bánh ḿ…, có uy quyền về ṭa
án, về chính quyền địa phương và có
quyền thu một số lệ phí và tiền phạt.
Vào thời kỳ trước cuộc Cách Mạng,
giới nông dân chiếm vào khoảng 2/5 đất
đai, giới tư sản trên 1/5, nhà thờ có dưới
1/10, số c̣n lại là đất công gồm cả
đất hoang hay các vùng śnh lầy, các vùng đất
chưa khai phá. Với hệ thống đất đai
khá phức tạp như thế, lại không có hàng rào
ngăn cách, phân chia các mảnh đất, không có cách
ấn định các quyền hạn và quyền
lợi về đất đai, cuộc cách mạng v́
thế là một cơ hội để làm biến
đổi các luật lệ về tài sản (the law of
property) và quy định các định chế về
quyền tư hữu trên các mảnh đất, đặc
biệt có lợi cho giới tư sản và giới nông
dân có đất.
Giới tư sản thời trước Cách Mạng Pháp
cũng là lớp người sở hữu các hàng hóa,
các cơ sở sản xuất, các công việc thương
mại, họ dần dần trở nên giàu có hơn
trong khi giới quư tộc phải đương đầu
với vật giá gia tăng, với mức sống lên
cao nên đă t́m cách tăng thuế, làm khó khăn các
hợp đồng thuê đất, các dàn xếp về
trả nợ hoa màu của giới nông dân.
Người nông dân trực tiếp canh tác trên mảnh
đất đă phẫn nộ v́ các bất công kinh
tế, xă hội cũng như chính trị, họ
cảm thấy chính họ mới là người làm
chủ miếng đất canh tác, chính họ đă
bị áp bức và bóc lột. Chuột có thể phá
hủy hoa màu, chim bồ câu thường ăn lúa
của họ nhưng nông dân không được
quyền giết chuột, giết chim… v́ các loại này
được bảo vệ để các nhà quư
tộc săn bắn. Các đoàn thợ săn cũng
dẫm nát hoa màu của nông dân mà người dân lành
không có quyền khiếu nại hay đ̣i bồi thường.
Bổn phận của họ là phải đóng thuế
cho nhà Vua, nhà thờ và các nhà quư tộc. Tất
cả bổn phận của người nhà nông càng
trở nên vô lư khi người dân đă bắt đầu
hiểu được các định luật về
lẽ phải, khi các nhà văn của thời đại
đó đă đề cập tới các tư tưởng
mới về công bằng và như thế đă giúp thêm
vào việc khuấy động các bất măn.
Nước Pháp vào thế kỷ 18 đă là một
quốc gia có chính quyền tập trung nên các điều
kiện xă hội nếu bị biến động
tại kinh đô, đă ảnh hưởng tới
cả nước. Khủng khoảng đầu tiên
của nước Pháp là do tài chính, và cũng do
sự sụp đổ tài chính (financial collapse) của
chính quyền mà cuộc Cách Mạng đă tới
một cách nhanh chóng.
|
Cung điện Versailles
|
Chính
quyền Pháp thời kỳ đó đă chịu gánh
nặng v́ sự xa hoa, sự huy hoàng của Cung Điện
Versailles. Cung điện rực rỡ này đă
được xây cất theo sáng kiến của Vua
Louis 14. Cùng với các kiến trúc sư, các nhà điêu
khắc, các nhà thiết trí vườn cảnh… tài
giỏi nhất thời bấy giờ, Vua Louis 14 đă
chi phí 65 triệu quan tiền (livres) (so với phí
tổn xây cất một căn nhà thông thường là
20 quan) trong hơn 40 năm để biến Hoàng Cung
Versailles thành một lâu đài rực rỡ nhất
của châu Âu. Các pḥng kính và hành lang tráng lệ, các
khu vườn rộng răi và trồng tỉa công phu…
tất cả đă biểu lộ sự sang trọng
của nước Pháp và uy quyền bao la của nhà
Vua.
Cũng chính tại cung điện Versailles, các hầu tước,
bá tước… đă cùng nhau tham dự với nhà Vua
vào các yến tiệc, các đoàn thượng khách xe
ngựa lộng lẫy, đi vui chơi, đi săn
bắn… với các loại quần áo sang trọng,
với cách tiêu xài phí phạn… tất cả những
xa hoa này đă làm phá sản giai cấp quư tộc.
Sự xa hoa đó vẫn tiếp tục tới thời
Vua Louis 16 và Hoàng Hậu Marie Antoinette, vốn người
nước Áo, cũng đă chi tiêu các món tiền
rất lớn lao vào quần áo, nữ trang và các
giải trí khác khiến cho bà Hoàng này được
gọi bằng biệt danh: bà Thiếu Hụt (Madame
Deficit).
Ngoài việc tiêu xài phung phí của triều đ́nh, công
việc bảo tŕ các cung điện đă chiếm 5
phần trăm ngân quỹ quốc gia. Chính quyền Pháp
thời đó c̣n phải chi phí về các phí tổn
chiến tranh, về việc duy tŕ Quân Đội và
Hải Quân… Năm 1774, nước Pháp mắc nợ
93 triệu quan tiền (93 million livres) rồi tiền
nợ quốc gia hàng năm tăng lên tới 300
triệu quan tiền vào năm 1789 và tổng số
nợ đă lên tới 4 tỉ quan tiền (4 billion
livres). Món nợ lại càng trở nên to lớn do nước
Pháp giúp công giúp của vào cuộc chiến tranh giành
độc lập của Hoa Kỳ.
Nợ nần của nước Pháp càng tăng thêm do
việc miễn thuế, do việc trốn thuế
của những người được ưu đăi,
do sự phức tạp và thiếu hoàn hảo của
hệ thống thu thuế khiến cho các món tiền thu
được đă không được nộp đầy
đủ vào ngân quỹ của đất nước.
Cho nên mặc dù nước Pháp là một miền đất
trù phú, ngân quỹ của nước Pháp lại
trống rỗng. Những người chịu trách
nhiệm về ngân quỹ đó gồm cả Vua Louis
16, các ông John Law, Maupeou, Jacques Turgot… tất cả đă
nh́n thấy rơ việc cần phải đánh thuế vào
các giai cấp được ưu đăi.
Năm 1777, ông Jacques Necker được Vua Louis 16
bổ nhiệm làm Giám Đốc Tài Chính, đă đi
theo con đường của những vị đi trước
và cũng bị băi nhiệm. Kế tiếp ông Necker, ông
Calonne c̣n đưa ra các biện pháp mạnh hơn. Năm
1786, ông Calonne đă đề nghị một thứ
thuế tổng quát đánh lên mọi chủ đất
mà không một ai được miễn trừ, đề
nghị việc giảm nhẹ thuế gián thu và
hủy bỏ thuế nội thương để
khuyến khích kinh tế sản xuất trong nước,
đề nghị việc tịch thu một số tài
sản của nhà thờ, việc thiết lập các
hội đồng địa phương trong đó các
giới tu sĩ, quư tộc, tư sản và nông dân
đều có đại diện. Nếu chương tŕnh
cải cách của ông Calonne này được thực
hiện, các trở ngại tài chính đă có thể
được giải quyết và cuộc Cách Mạng
đă không xẩy ra, nhưng Nghị Viện Paris đă
không chấp nhận các cải cách và các nhà quư
tộc lại muốn tham gia vào việc kiểm soát chính
quyền. Bế tắc đă tới.
Vua Louis 16 đành phải băi nhiệm ông Calonne và
chỉ định vị Tổng Giám Mục miền
Toulouse là ông Lomenie de Brienne. Ông De Brienne cũng muốn xúc
tiến một chương tŕnh cải cách tương
tự thông qua Nghị Viện Paris (the Parlement of Paris) và
đă bị chính nghị viện này bác bỏ và cho
rằng chỉ có Đại Hội Các Giai Cấp (an
Estates General) mới có quyền đồng ư về các
thứ thuế mới. Vua Louis 16 và ông De Brienne lúc đầu
từ chối đề nghị đó v́ cho rằng
Đại Hội đó sẽ bị chi phối bởi
giới quư tộc. Cũng giống như Vua Louis 15 và
thủ tướng Maupeou, Vua Louis 16 và ông De Brienne không
ưa các Nghị Viện mà muốn có một hệ
thống tư pháp mới không gây ảnh hưởng
đến các chính sách của đất nước.
Điều này đă dẫn tới sự phẫn
nộ của giới quư tộc. Các nghị viên thành
phố, các giai cấp trong thị xă đă phản kháng
lại, các sĩ quan quân đội từ chối
phục vụ, các nhà quư tộc tổ chức các nhóm
chính trị… Chính quyền bị đưa tới
cảnh tŕ trệ với tiền không mượn
được, thuế không thu được.
Ngày 5 tháng 7 năm 1788, Vua Louis 16 hứa hẹn sẽ
triệu tập một Đại Hội các Giai Cấp
vào tháng 5 năm 1789. Các giai cấp trong xă hội Pháp
khi đó sẽ được mời tới để
bầu ra các đại biểu và đưa danh sách các
khiếu nại.
3- Từ Đại Hội Giai Cấp đến
Cuộc Cách Mạng.
|
Đại Hội Giai Cấp
|
Một
thế kỷ rưỡi trôi qua mà chưa có Đại
Hội các Giai Cấp (Estates General) nên Vua Louis 16 đă kêu
gọi mọi người cùng nghiên cứu vấn
đề về Đại Hội và viết ra các
đề nghị để Đại Hội sẽ
được tổ chức trong các điều
kiện và hoàn cảnh mới. Sự việc này gây nên
các cuộc thảo luận công cộng. Hàng trăm
tờ truyền đơn xuất hiện, nhiều người
đ̣i hỏi ba giai cấp phải họp tại ba nơi
riêng biệt v́ giai cấp b́nh dân bao giờ cũng áp
đảo. Tháng 9-1788, Nghị Viện Paris họp
lại, đă quyết định rằng Đại
Hội các Giai Cấp sẽ họp và sẽ bỏ
phiếu như đă xẩy ra vào năm 1614. Cũng qua
Nghị Viện Paris, giới quư tộc muốn lấn
át sự chuyên chế của nhà Vua. Họ đ̣i
hỏi một chính quyền theo hiến pháp, đ̣i
hỏi sự bảo đảm các tự do cá nhân,
sự tự do về ngôn luận và báo chí, sự ngăn
ngừa không bị bắt bớ và giam cầm tùy
tiện. Một số nhà quư tộc cũng đă
tự nguyện từ bỏ các đặc quyền
về miễn thuế trong khi đa số khác trông
đợi chính quyền tổ chức một cơ
chế tối cao gồm 3 thành phần, một phần
thuộc giới quư tộc, phần thứ hai là
giới tu sĩ nhưng cũng là quư tộc và phần
thứ ba là giới b́nh dân. Tới lúc này, giai cấp
thứ ba (the Third Estate) gồm các luật sư, thương
nhân, chủ ngân hàng, chủ tiệm, thợ thủ công,
công nhân và nông dân... lại không muốn bị
giới quư tộc cai trị về tinh thần lẫn
vật chất. Nền triết lư của thời
kỳ Khai Sáng (the Enlightment) rồi cuộc Cách Mạng
tại Bắc Mỹ đă khiến cho họ không ưa
và không tin tưởng giới quư tộc.
|
Hector St. John de Crèvecoeur
|
Một
nhà văn người Pháp là ông Hector St. John de Crèvecoeur,
trong bài viết có tên là "Các bức thư
của một nông dân Mỹ" (Letters of an American
Farmer) đă cho mọi người thấy rằng vào
lúc này, các người Mỹ đă tự cảm
thấy là những "con người" v́ họ
đă được đối xử xứng đáng.
Người đại diện cho cuộc chiến tranh
giành độc lập của Bắc Mỹ tại nước
Pháp chính là ông Benjamin Franklin, người đă
được Quốc Hội Lục Địa (the
Continental Congress) cử qua Paris để lo mọi
việc cần thiết cho quốc gia non trẻ Hoa
Kỳ. Các nhà triết học, các nhà trí thức
tại các nơi họp mặt (salon) của thành
phố Paris đă phải kính nể ông Franklin v́
sự trí thức và đức tính giản dị
của ông. Ông Franklin đă gây được các
ấn tượng rất tốt đẹp vào các nhân
vật danh tiếng quen biết của nước Pháp
như Voltaire, Condorcet, Helvetius, Turgot... cùng các nhân
vật khác, và h́nh ảnh giành lấy Tự Do của
xứ Bắc Mỹ đối với chế độ
áp bức đă khiến cho ông Turgot phải viết
trong một bài văn câu ca tụng Benjamin Franklin: "Ông
ta đă ăn trộm sấm chớp của Trời cao
và cây vương trượng của các bạo chúa"
(He stole thunder from the heavens and the scepter from tyrants).
Giấc mơ Tự Do của xứ Hoa Kỳ đă
nằm trong đầu óc của các giai tầng xă
hội của nước Pháp, trong tư tưởng
của ông Crèvecoeur vốn là một trong các nhân
vật sáng lập ra một nơi họp mặt (salon)
của thành phố Paris, trong các lời khen ngợi
Hầu Tước De Lafayette sau khi đă từng
phục vụ cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ và trở
về đất Pháp.
Vào tháng 1 năm 1789, linh mục Sieyès cũng tung ra
một số tập sách mỏng có tên là "Giai
cấp thứ ba là ǵ?" trong đó có công bố
rằng giới quư tộc là giai cấp vô dụng, không
cần thiết và có thể bị loại bỏ,
chỉ có giai cấp thứ ba là thành phần hữu ích
cho xă hội và là bản thể của quốc gia. Chính
vào lúc này, tư tưởng của Jean Jacques Rousseau
trong tác phẩm "Khế Ước Xă Hội"
(the Social Contract) đă trở thành tư tưởng
cách mạng.
|
Jean Jacques Rousseau
|
Năm
1762, J. J. Rousseau đă viết trong tác phẩm kể trên
rằng "con người được sinh ra
tự do nhưng đă bị xiềng xích ở
khắp mọi nơi" (Man is born free and everywhere he is
in chains). Theo Rousseau, con người có các quyền
tự nhiên nhưng đă bị tước đoạt
do xă hội có tổ chức. Các cá nhân có các
nguyện vọng riêng (individual will) nhưng khi sống
chung trong một cộng đồng lại có nguyện
vọng chung (general will). Mục đích của chính
quyền là thực hiện nguyện vọng chung này và
nhờ đó nền dân chủ thực sự được
thi hành. Cách giải quyết của ông Rousseau thực
ra chưa thỏa đáng nhưng các vấn đề
do ông nêu ra, như tính Tự Do, như nền Dân
Chủ, hành động và áp chế của các nhóm
đa số và thiểu số, vai tṛ của các đại
biểu… đă kêu gọi cuộc Cách Mạng và các cách
điều chỉnh xă hội.
Giai cấp thứ ba lúc đầu đă ủng hộ
giới quư tộc để chống lại sự
độc đoán của vương triều nhưng
rồi hai giới quư tộc và b́nh dân đă ghét nhau và
nghi ngờ nhau. Sự xung đột này đă làm cho các
cải cách không thể thực hiện được
và càng hâm nóng sức mạnh cách mạng.
Đại Hội các Giai Cấp đă hội họp vào
ngày 5 tháng 5 năm 1789 tại Cung Điện Versailles.
Giai cấp thứ ba gồm các đại biểu
phần lớn là các luật sư, đă không chấp
nhận lối bỏ phiếu mỗi giai cấp một
lá, phản đối việc họp riêng rẽ
từng giai cấp tại ba địa điểm khác
nhau và đ̣i hỏi tất cả các đại
biểu phải được tập trung vào một nơi
và bỏ phiếu theo cá nhân, cách bỏ phiếu này có
lợi cho giai cấp thứ ba hơn v́ nếu tính theo
đầu người, số đại biểu
của giai cấp này bằng với số của hai
giai cấp kia nhập lại. Bế tắc đă kéo dài
tới 6 tuần lễ.
|
Lời Thề tại Sân
Đánh Banh
|
Ngày
13-6-1789, một số tu sĩ và quư tộc đă
bỏ pḥng họp của hai giai cấp kia, nhập
bọn với giai cấp thứ ba, họ được
hoan hô nồng nhiệt. Ngày 17- 6, Nghị Hội của
giai cấp thứ ba tự gọi ḿnh là Quốc
Hội (National Assembly). Do áp lực của giới quư
tộc, Vua Louis 16 đă đóng cửa pḥng họp
của giai cấp b́nh dân. Các đại biểu này
liền kéo qua một sân banh có mái che, cùng thề và kư
vào "Lời Thề tại Sân Đánh Banh" (the
Oath of the Tennis Court) vào ngày 20-6, xác nhận rằng nơi
nào họ hội họp th́ nơi đó hiện
hữu Quốc Hội và họ sẽ không giải tán
cho đến khi thảo xong một bản Hiến Pháp
(a constitution).
Khi Vua Louis 16 gửi tới một đại diện thông
báo cho các đại biểu phải giải tán, th́
Hầu Tước Mirabeau đă giận dữ và la lên:
"Hăy về bảo với Chủ của ngươi
rằng bọn ta ở đây là do ư muốn của toàn
dân và bọn ta chỉ giải tán do đầu lưỡi
lê" (Go tell your master that we are here by the will of the people,
and that we shall be removed only at the point of the bayonet). Hành
động táo bạo này đă là một bước "cách
mạng", đ̣i hỏi chủ quyền phải
về tay một nhóm người không có thẩm
quyền pháp lư.
Vua Louis 16 như vậy đă không c̣n kiểm soát
được Đại Hội các Giai Cấp, nhà Vua
cũng đă không đưa ra được một chương
tŕnh cải cách nào, không thể hiện được
uy quyền lănh đạo sẵn có, không thuyết
phục được giới tư sản và giới
b́nh dân về ḷng trung thành sẵn có của họ
đối với nhà Vua, và đă không đứng
về phe của giai cấp thứ ba để giảm
bớt các đặc quyền của giới quư
tộc và giới tu sĩ. Trước sự thách đố
của những người b́nh dân, Vua Louis 16 đă
bối rối, trông cậy vào sự trợ lực
của Hoàng Hậu Marie Antoinette, các anh em hoàng thân cùng
một số các nhà quư tộc khác. Cuối cùng, Vua
Louis 16 đă quyết định giải tán Đại
Hội các Giai Cấp. Vào cuối tháng 6, và 18 ngàn binh lính
được gọi tới Cung Điện Versailles.
Biến cố chính trị này đă chứng tỏ nhà
Vua đứng về phe các nhà quư tộc.
4- Cuộc Cách Mạng bùng nổ.
Năm 1788, nước Pháp bị mất mùa. Năm 1789
cũng là một năm lạm phát. Nền ngoại thương
đă không tăng thêm v́ cuộc chiến tranh giành
Độc Lập tại Bắc Mỹ đă được
giải quyết xong. Lương bổng của công nhân
hạ xuống, nạn thất nghiệp tăng cao càng
đẩy cao lên giá thực phẩm. Các xáo trộn lao
động đă xẩy ra tại nhiều nơi. Vào
tháng 4 năm đó, các công nhân nổi loạn đă
đốt phá một nhà máy làm giấy tại nông thôn,
các nông dân tuyên bố sẽ không đóng thuế và không
nộp tô cho địa chủ. Nạn lạm phá cũng
làm giảm lợi tức của các nông dân và công nhân
lương thiện. Sự nghèo đói càng làm tăng
thêm các kẻ trộm cướp, các kẻ khuấy
động. Các khủng hoảng chính trị đă
trở thành các khủng hoảng kinh tế và xă
hội.
Vào tháng 7 năm 1789, giá bánh ḿ tăng cao hơn bao
giờ hết. Các thành phố tràn ngập các kẻ
ăn xin và các kẻ liều mạng. Tại thành
phố Paris, người dân xao động v́ tin binh lính
của nhà Vua đang tập trung về Cung Điện
Versailles để dự mưu dẹp bỏ Quốc
Hội. Do t́nh h́nh căng thẳng, mọi người
dân Paris đều muốn vơ trang để tự
vệ. Ông chủ ngân hàng Laborde với con trai có chân
trong Quốc Hội tại Versailles, đă là một
trong số những người cung cấp ngân khoản
để mua vơ khí cho dân chúng Paris. Các đám đông
đă đi lục t́m vơ khí tại các nhà kho và các ṭa
nhà chính phủ. Ngày 12 tháng 7 trên các đường
phố Paris, các đám đông đă đi diễn hành
và hô to khẩu hiệu "Bánh ḿ rẻ", "hăy
mở cửa nhà tù", "Hăy vơ trang cho nhân dân"…
|
Phá Ngục Bastille
|
Vào
ngày 14 tháng 7, một đám rất đông dân chúng kéo
tới Ngục Bastille. Đây là một lâu đài mà nhà
Vua và các bộ trưởng đă tùy ư giam cầm
nhiều người dân trong nhiều thập niên. Do t́nh
h́nh căng thẳng, viên quản đốc nhà ngục
đă cho đặt các khẩu đại bác tại các
lỗ châu mai. Khi đám đông dân chúng Pháp kéo
tới nhà Ngục, họ đ̣i hỏi viên quản
đốc phải dẹp bỏ các khẩu đại
bác và cung cấp cho họ một số vơ khí. Lời
đ̣i hỏi đă bị từ chối, rồi do các
hiểu lầm, đám đông dân chúng Pháp đă
tấn công Ngục Bastille. 98 người bị chết
do súng ở bên trong nhà Ngục bắn ra. Với sự
tiếp tay của một số binh lính cùng với 5
khẩu đại bác, đám đông dân chúng đă phá
cửa xông vào bên trong và giết chết viên quản
đốc, một số viên chức và binh lính,
rồi dân chúng phẫn nộ đă chặt đầu
họ, cắm vào các giáo mác để đi diễn hành
qua các đường phố. Khi được báo tin
việc đập phá Ngục Bastille, Vua Louis đă
phải thốt lên câu: "Tại sao thế? Đây
là một cuộc nổi loạn hay sao?". Nhà Vua
đă được trả lời bằng câu: "Không,
thưa Ngài, đây là một cuộc Cách Mạng".
Việc phá Ngục Bastille đă cứu văn được
Quốc Hội tại Versailles. Vua Louis 16 không biết cách
phải đối phó ra sao nên đành phải chấp
nhận t́nh trạng của Paris, công nhận Ủy Ban
của các công dân Paris như là một chính phủ
mới, cai quản thành phố đó. Tại Paris và các
thành thị khác, các đội quân tư sản hay
đội quân quốc gia được thành lập
để giữ trật tự. Hầu Tước De
Lafayette, người vốn là "vị anh hùng
của hai lục địa", được
cử ra điều khiển các đội quân canh gác
Paris. Để dùng làm huy hiệu, ông Lafayette đă
phối hợp hai màu sắc đỏ và xanh của thành
phố Paris với màu trắng của gịng họ Bourbon
thành một biểu tượng ba màu của cuộc Cách
Mạng và từ đó đă ra đời lá cờ Tam
Tài.
Biến cố tại Paris đă lan ra các thành phố khác
và miền quê, nơi đây các nông dân đă tự vơ
trang, xông vào một số nhà địa chủ và
chủ trại để đốt phá các hồ sơ
lưu trữ về tiền nợ. Nhiều nhà quư
tộc bị giết, các người khác bỏ
chạy ra nước ngoài. Chế độ thái ấp
(manorial regime) đă bị giới nông dân tiêu hủy.
Ngày 14 tháng 7 năm 1789 là ngày Phá Ngục Bastille
được coi là ngày khởi đầu của
cuộc Cách Mạng Pháp, nhưng các hành động Cách
Mạng c̣n kéo dài trong 10 năm, cho tới khi Tướng
Napoléon lên nắm quyền lực vào năm 1899.
Thời gian này có thể được chia một cách
đơn giản thành 4 giai đoạn:
1.
Từ 1789 tới 1792, có
nền quân chủ lập hiến trong đó giới tư
sản (the bourgeoisie) áp đảo,
2.
Từ 1792 tới 1793,
đảng Girondin đă hoạt động mạnh
mẽ,
3.
Thời kỳ khủng
bố (Reign of Terror) của giới tư sản cấp
thấp và giới lao động kéo dài trong 2 năm
1793-94, và cuối cùng là
4.
Thời kỳ phục
hồi quyền lực của giai cấp tư sản.
Cũng
trong giai đoạn 10 năm kể trên, giới quư
tộc muốn trở lại các đặc quyền
ưu đăi về chính trị và kinh tế, giới tư
sản muốn có thêm quyền lực chính trị, thêm
sự hữu hiệu về cai trị và b́nh đẳng
xă hội, giới nông dân muốn chấm dứt
việc nạp tô phong kiến, giảm nhẹ thuế má,
có thêm đất đai canh tác, và giới lao động
thành thị mong muốn bảo đảm về công
việc làm ăn cùng với thực phẩm rẻ
tiền hơn.
Trong cuộc Cách Mạng Pháp, không có giai cấp nào
chế ngự được chính quyền. Các chương
tŕnh cải tiến tiếp diễn nhau, xen vào là các
tranh giành cá nhân, các yếu tố như ưa thích
bạo động và khủng bố, mệt mỏi v́
chiến tranh, ḷng ái quốc và tự hào quốc gia…
tất cả đă thể hiện qua các cuộc tranh
đấu vật chất, nhưng có lẽ các yếu
tố được đề cao trong cuộc Cách
Mạng là việc làm giảm bớt quyền lực
của Quốc Gia, làm tăng thêm Tự Do và B́nh Đẳng
cá nhân với nét đặc thù từ vai tṛ áp đảo
của nhóm các nhà chính trị kiểm soát Thành Phố
Paris. Chính những nhân vật này đă hướng
dẫn trào lưu của cuộc Cách Mạng Pháp.
Phạm
Văn Tuấn
Tài
liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica Encyclopedia, Western
Civilization, Ideas, Politics & Society by Marvin Perry, Myrna Chase,
James R. Jacob, Margaret C. Jacob & Theodore H. Von Laue, Houghton
Mifflin Co., Boston, 1996 (2 vol.).
|