AI LÀM SỤP ĐỔ VNCH MIỀN NAM VIỆT NAM?
Lê Quế Lâm |
[1]
AI LÀM SỤP ĐỔ VNCH MIỀN NAM VIỆT NAM?- (Phần
1) [1] AI LÀM SỤP ĐỔ VNCH MIỀN NAM VIỆT NAM?- (Phần 1) Cuối
năm vừa qua, người viết nhận được
điện thoại và email của hai người
bạn cũ làm chung nhiệm sở trước 1975.
Đó là anh Nguyễn Văn Thắng, anh ở trong quân
đội khoảng hai năm rồi được
biệt phái về Bộ Quốc gia Giáo Dục và anh
Nguyễn Văn Minh thuộc P2/Quân Đoàn 3 biệt phái
về làm việc ở Trung tâm Khai thác Tài liệu
Hỗn hợp thuộc P2/Bộ TTM. Anh Minh đă gởi
cho người viết bài nhận định của
một chiến hữu ở San Jose Hoa Kỳ tựa
đề Ai Làm Sụp Đổ VNCH Miền Nam Việt
Nam? Phải chăng Dân chủ Mỹ là nguyên nhân làm
sụp đổ chế độ VNCH? (Xin xem phần
đính kèm)
Đây
là câu hỏi mà anh em chúng tôi có thể trả lời
v́ từng được quân đội phân công làm công
tác nghiên cứu về Chiến tranh VN tại một cơ
quan do Mỹ thiết lập: Combined Documents Exploitation
Center gọi tắc là CDEC trực thuộc J2/MAC-V. Chúng
tôi nghiên cứu Chiến tranh VN không phải chỉ trước
1975 mà măi đến ngày hôm nay. Đó cái nghiệp mà
ḿnh phải đeo mang cả cuộc đời. Nay có cơ
duyên và may mắn được gặp lại hai người
bạn cùng nhiệm sở hơn 40 năm về trước,
chúng tôi mượn đề tài trên để lần
lượt tŕnh bày ba giai đoạn của chiến
tranh VN. Chiến
tranh Đông Dương lần 1 (1946-1954) kết thúc
bằng HĐ Genève 1954: đất nước bị
chia đôi. Chiến tranh ĐD lần hai (1960-1975)
kết thúc bằng HĐ Paris 1973: VNCH sụp đổ.
Chiến tranh Đông Dương lần 3 từ tháng
12/1978 đến tháng 9/1989 khi Hà Nội rút quân khỏi
đất chùa Tháp, và kết thúc bằng HĐ Paris
1991 về Campuchia: VN lệ thuộc vào Trung Cộng qua
thỏa ước Thành Đô tháng 9/1990. Nói
chung chiến tranh VN mang lại thảm họa cho đất
nước. Đối với dân tộc, lănh tụ
cả hai phe quốc gia và cộng sản đều
thất bại. Sở dĩ như vậy là v́ họ
không t́m hiểu mục tiêu chiến lược của
Mỹ, mưu đồ của Liên Xô và Trung Cộng v́
mục đích ǵ? Tôn Tử Binh Pháp được tôn
xưng là Tuyệt tác Binh thư xưa nay có câu “Biết
người biết ta, trăm trận trăm thắng”.
Đối với người quốc gia, họ không
biết mục tiêu chiến lược của Mỹ là
ǵ? Nghĩa là họ không biết (phe) ta muốn ǵ.
Họ chỉ biết Nga Tàu đều tận t́nh giúp
CSVN, nhưng họ không biết mối xung đột
Nga Hoa trầm trọng ra sao? Đây là điều quan
trọng mà họ lại không quan tâm t́m hiểu. Nghĩa
là họ cũng không biết người (địch).
Không biết người biết ta th́ làm sao không
thất bại! C̣n
những người cộng sản cũng vậy, không
biết ǵ về mục tiêu chiến lược
của Mỹ. Họ chỉ biết ḷng dân sôi sục
chống Pháp. Đảng Xă hội và đảng CS Pháp
thắng lớn trong cuộc tổng tuyển cử
hồi tháng 11/1946, thành lập Mặt trận B́nh Dân
đứng ra lănh đạo nước Pháp. Ông Hồ
Chí Minh tin tưởng Liên Xô và Đảng CS Pháp
sẽ giúp ông chiến thắng thực dân Pháp, nên phát
động Toàn quốc kháng chiến (20/12/1946). Ông
Hồ chỉ biết (phe) ta ở sự tuyên truyền
c̣n sự thật th́ khác xa. Tại
Hội nghị Yalta (2/1945) và Potsdam (7/1945) các đồng
minh thắng trận đă phân chia ảnh hưởng
cho nhau. LX không có ǵ ở Đông Nam Á, nơi đây
thuộc ảnh hưởng của Anh, Pháp và Trung Hoa Dân
Quốc (Tưởng Giới Thạch) nên LX không
thể giúp ông HCM. C̣n cánh tả ở Pháp thắng
lớn, nhưng chỉ tranh đấu tranh cho dân Pháp.
Sau chiến tranh kinh tế Pháp suy sụp trầm
trọng phải nhờ Mỹ cứu giúp qua kế
hoạch Marshall nên họ không c̣n quan tâm đến
việc ủng hộ các phong trào giải phóng dân
tộc. Như thế người cộng sản không
biết ta và cũng không biết người (địch)
Đó là lư do họ thất bại trong Chiến tranh
Đông Dương lần thứ nhất. Người
viết xin tŕnh bày t́nh tiết cuộc chiến này và
sau đó t́m hiểu sự can dự của Mỹ vào
cuộc chiến Việt Nam (1960-1975) diễn tiến ra
sao? Hai đề tài này để trả lời câu
hỏi: Ai làm sụp đổ VNCH? Ngày
15/8/1945 Nhật đầu hàng, Thế chiến II
thật sự chấm dứt. Ngay sau đó, Charles de
Gaulle -Thủ tướng chính phủ lâm thời Pháp
bổ nhiệm tướng Leclerc làm tổng tư
lịnh Quân Viễn chinh Pháp và đô đốc Thierry
D’Argenlieu làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương. Pháp
trở lại cựu thuộc địa này, thương
thảo với người bản xứ để trao
trả độc lập cho ba nước Việt, Miên,
Lào. Đó là chủ trương “giải trừ
chế độ thực dân” của LHQ vừa
được thành lập được sự
thỏa thuận của các cường quốc
thắng trận. Để bảo vệ uy tín của ḿnh
trong bối cảnh mới: Ủy viên Thường
trực Hội đồng Bảo An/LHQ, Pháp đặt
các quốc gia Việt Miên Lào trong Liên Bang Đông Dương
thuộc khối Liên Hiệp Pháp, tương tự như
nước Anh thành lập khối Liên Hiệp Anh. Trước
đó, tại hội nghị Potsdam (7/1945) trong Tuyên
bố ngày 26/7/1945 lănh tụ Tam cường Anh, Mỹ và
Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) đă
thỏa thuận giao cho quân đội nước Anh vào
giải giới quân Nhật ở phía Nam vĩ tuyến
16, c̣n phía Bắc giao cho quân đội Trung Hoa Dân
Quốc. Nhật Hoàng vừa tuyên bố đầu hàng,
tại Sàig̣n, các đoàn thể yêu nước
thuộc Mặt trận Quốc gia Thống nhất và
Mặt trận Việt Minh tổ chức các cuộc
biểu t́nh và giành được chánh quyền, thành
lập Ủy ban Hành chánh Lâm thời Nam Bộ
(25/8/1945). Trước đó, Cédile được de
Gaulle bổ nhiệm làm ủy viên Cộng ḥa Pháp
ở Nam Bộ, được phi cơ Anh thả dù
xuống Tây Ninh ngày 22/8/1945. Năm ngày sau, y đă có
mặt ở Sàig̣n, tiếp xúc sơ khởi với
Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Thạch và
Nguyễn Văn Tạo thuộc Lâm ủy Hành chánh Nam
Bộ. Ngày
6/9/1945 lực lượng Hoàng gia Anh do tướng
Douglas D. Gracey cầm đầu đến Sàig̣n. Năm
hôm sau, những đơn vị đầu tiên của
Pháp khoảng 3 trung đoàn đă đến Sàig̣n.
Đến nơi Gracey thảo luận ngay vấn đề
Nam Bộ với Phạm Ngọc Thạch và Cédile. Y yêu
cầu Việt Minh giải giới lực lượng dân
quân cách mạng, giao cho quân Nhật ổn định
trật tự, duy tŕ an ninh để hai bên Việt Pháp
đàm phán. Cuộc
đàm phán Pháp Việt bất thành v́ lập trường
đôi bên trái nghịch nhau. Phía Việt Minh đ̣i Pháp
nh́n nhận độc lập, c̣n Pháp chủ trương
tái lập trật tự, lưu lại chủ quyền
của Pháp rồi tổ chức trưng cầu dân ư,
sau thành lập Liên Bang Đông Dương. Ngày 21/9/1945
Cédile ra lịnh tấn công tái chiếm các công sở và
khám lớn Sài G̣n. Tướng Gracey nhân danh Ủy ban
kiểm soát Đồng minh đứng ra đảm trách
việc ổn định trật tự, tuyên bố
lịnh thiết quân luật và kiểm soát các công
sở. Đêm
22 rạng 23/9/1945 Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ rút
khỏi Sàig̣n, khởi đầu Nam Bộ kháng
chiến. Ngày 5/10/1945 tướng Leclerc đến Sàig̣n.
Trong 4 tháng sau đó quân Pháp tái chiếm phần
lớn lănh thổ phía Nam vĩ tuyến 16. Nam Kỳ
vốn là thuộc địa của Pháp nên giới lănh
đạo ở đây liền thay đổi thể
chế từ Nam Kỳ thuộc địa thành Nam
Kỳ tự trị. Trong
khi đó, tại Bắc vĩ tuyến 16, sau khi Nhật
đầu hàng, lực lượng Việt Minh giành
được chính quyền, ông Hồ Chí Minh thành
lập chính phủ lâm thời. Ngày 2/9/1945 ông Hồ
đọc Tuyên ngôn Độc lập và tuyên bố thành
lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Hai
tuần sau, 18 vạn quân Tưởng Giới Thạch dưới
sự điều động của tướng Lư
Hán và Tiêu Văn sang giải giới quân Nhật. Lúc
bấy giờ có hai lực lượng Cách mạng VN
được Trung Hoa Dân Quốc ủng hộ là
Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách)
của Nguyễn Hải Thần và Trương Bội Công
đang trên đường về nước theo ngă
Quảng Đông. Và lực lượng Việt Nam
Quốc Dân Đảng (Việt Quốc) của Vũ
Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam về nước
theo ngă Vân Nam. Do đề nghị của Tiêu Văn, ngày
1/1/1946 Chủ tịch HCM cải tổ chính phủ lâm
thời, thành lập Chính phủ Liên hiệp Lâm
thời VN có đại diện của ba nhóm Việt
Minh, Việt Cách và Việt Quốc. Trong
lúc ông HCM lo đối phó với quân Tưởng và
hai lực lượng đối lập Việt Cách và
Việt Quốc th́ tại trụ sở LHQ, Bộ trưởng
Bộ Pháp Quốc Hải ngoại Marius Moutet gặp
Tống Tử Văn -Ngoại trưởng Trung Hoa Dân
Quốc để thảo luận vấn đề các
nhượng địa mà triều đ́nh Măn Thanh
đă giao cho Pháp hồi thế kỷ trước. Hai bên
thỏa thuận một sự trao đổi quyền
lợi đưa đến Hiệp ước Pháp Hoa
được Đại sứ Pháp Meyrier và đại
diện chính phủ Trung Hoa kư tại Trùng Khánh ngày
28/2/1946. Theo hiệp ước này, chính phủ Pháp
trả lại cho Trung Hoa các tô giới Thượng
Hải, Thiên Tân, Quảng Đông, Hán Khẩu và đất
mướn Quảng Châu Loan, bán lại đường
xe lữa Vân Nam, chấp nhận Hải Pḥng là hải
cảng tự do…Để đổi lại, quân Pháp
sẽ thay thế quân Trung Hoa ở Bắc vĩ
tuyến 16. Đầu
tháng 3/1946, Sainteny được Cao ủy D’Argenlieu
ủy nhiệm làm đại diện chính phủ
Cộng ḥa Pháp đến Hà Nội để thảo
luận về việc thay quân TH và tương lai chính
trị VN. Chính phủ Liên hiệp VNDCCH chấp nhận
để ông HCM và Vũ Hồng Khanh kư Hiệp ước
sơ bộ (Accords preliminaires) ngày 6/3/1946 với Sainteny và
Salan trước sự chứng kiến của đại
diện Bộ Tư lịnh Quân đội Trung Hoa, Lănh
sự quán Anh và phái bộ Mỹ. Nội dung có 3
khoản: (1)
Pháp công nhận nước VNDCCH là một nước
tự do có chính phủ, nghị viện, quân đội
và tài chính riêng và là một thành phần của Liên
bang Đông Dương thuộc khối LHP. Riêng Nam
Bộ do Pháp tạm thời quản lư để
chờ trưng cầu dân ư. (2)
Chính phủ VNDCH phải lấy t́nh thân thiện đón
tiếp quân đội Pháp chiếu theo thỏa hiệp
quốc tế vào thay quân đội Trung Hoa. (3)
Sau khi kư kết, mỗi bên phải t́m cách đ́nh
chỉ các cuộc xung đột. Quân đội hai bên
ở nguyên tại chỗ, tạo không khí ḥa hoăn để
mở các cuộc thương thuyết về việc
ngoại giao của VNDCCH, những quyền lợi kinh
tế và văn hóa của Pháp ở VN. Ba
tháng sau, hiệp ước sơ bộ được
Moutet tŕnh lên chính phủ Pháp, hiệp ước
được Paris chính thức phê chuẩn. Ngày
13/3/1946 những đội quân đầu tiên thuộc
Sư đoàn Cơ giới Pháp dưới sự
chỉ huy của tướng Leclerc đổ bộ lên
Hải Pḥng. Để tiến tới một hiệp
định chính thức và toàn bộ, hai phái đoàn
Việt Pháp đă gặp nhau ở hội nghị trù
bị Đà Lạt từ 19/4 đến 10/5/1946. Phái
đoàn VNDCCH do Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Tường Tam làm trưởng đoàn.
Cuộc đàm phán không đi đến kết quả
v́ thái độ trịch thượng của
D’Argenlieu, y muốn tỏ ra là người đứng
đầu Liên Bang Đông Dương, đứng ra
chủ tọa cuộc họp giữa phái đoàn VNDCCH
và phái đoàn Nam Kỳ tự trị. Cuộc
đàm phán sau đó được chuyển sang Pháp
để khai thông các trở ngại. Ngày
31/5/1946 phái đoàn VN lên đường tham dự
hội nghị Fontainebleau. Đáng lẽ Bộ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Tường Tam cầm đầu
phái đoàn, nhưng đến ngày lên đường,
ông cáo bệnh và xin từ chức. Phạm văn Đồng
được cử thay thế. Ngoài phái đoàn chính
thức, đích thân Chủ tịch HCM cũng sang Paris
tham dự cuộc đàm phán theo lời mời của
thủ tướng Pháp Felix Gouin. Khi đi vào thảo
luận, hai bên bất đồng ư kiến ở
nhiều vấn đề mà then chốt là vấn đề
độc lập và thống nhất VN. Vấn đề
càng căng thẳng thêm khi Nam Kỳ cũng được
Pháp thừa nhận là một quốc gia tự do trong
Liên bang ĐD thuộc khối LHP tương tự như
nước VNDCCH. Cuộc
đàm phán v́ thế đi vào bế tắc. Trước
lúc phái đoàn VN sắp sửa về nước, do yêu
cầu của Chủ tịch HCM, bộ trưởng
Bộ Pháp quốc hải ngoại Moutet đă cùng ông
Hồ kư một văn kiện ngoại giao gọi là
Tạm ước (Modus vivendi) ngay trong đêm 14/9/1946
tại tư thất của Moutet. Trong tạm ước
14/9, chính phủ VNDCCH thừa nhận giá trị
Thỏa ước 6/3, công nhận nước Cộng ḥa
Nam Kỳ cho đến lúc có cuộc trưng cầu dân
ư. Trong lúc chờ đợi, lực lượng
Việt Minh tại Nam Bộ phải tập trung vào
những khu vực được chỉ định
để giải giới chờ trưng cầu dân ư.
Hai bên thỏa thuận giữ thái độ thân
thiện đến tháng Giêng 1947 là thời hạn
cuối cùng, hai bên sẽ tái tục đàm phán để
kết thúc vấn đề VN bằng một hiệp
ước chính thức.
Lê
Quế Lâm
AI
LÀM SỤP ĐỔ VNCH MIỀN NAM VIỆT NAM?
Phải
chăng Dân Chủ Mỹ là nguyên nhân làm
sụp đổ chế độ VNCH ? Kính
thưa quư vị, qua nhiều vụ tranh căi về Cộng
Hoà và Dân Chủ Mỹ, từ trong gia đ́nh ra
ngoài xả hội và các hội đoàn. Cũng như một
vài bạn bè thân thích xung quanh tôi vẫn c̣n mơ màng,
chưa xác định con đường đi của ḿnh
để ủng hộ ai, nói rỏ là; dùng
lá phiếu ḿnh để bầu cho phe nào.
Qua nhiều sự kiện xăy ra, tôi càng suy tư, càng
cố miệt mài truy lục lại số hồ sơ,
liên quan về dân chủ và cộng hoà Mỹ. Trên
b́nh diện khách quan, tôi nhận ra sự thật
đưa tới sự xụp đổ của
chế độ Viết Nam Cộng Ḥa là do
tập đoàn dân chủ Mỹ.
Kính thưa quư vị, nếu quư vị là người
Việt ty nạn cộng sản, xin quư vị hăy
ngậm ngùi mà tưởng nhớ, cũng như hăy
gắng giữ trong tâm thức, mà hành xử theo
tinh thần của người Việt tỵ nạn
CS nói chung, người lính VNCH nói riêng.
Đừng v́ những động thái khác, mà quên
nỗi đau chung của anh em và dân tộc. Kính
thưa các quư vị.
- Từ năm 1969-1972, đảng Dân Chủ biểu
quyết đ̣i Tổng Thống Nixon phải rút quân
khỏi Việt Nam.
- Cuối nam 1971, Tên Kissinger sang Trung Cộng, dọn
đường cho TT Nixon gặp Mao Trạch Dông vào
thang giêng 1972, để bán đứng miền Nam VN
cho Hà Nội và Trung Cộng, dây là tiền đề cho
các Tổng Thống Mỹ kế tiếp.
- Khi TT Ford kế nhiệm: Đảng Dân Chủ chiếm
đa số tại cả hai viện Quốc
Hội đă biểu quyết ngưng viện
trợ quân sự cho VNCH ... đưa đến
việc chúng ta mất nước vào ngày 30 tháng 04,
1975.
Trong năm 1972 cũng chính đẳng Dân Chủ,
đưa tên George McGovern ra tranh cử, với chủ trương
rút toàn bộ lực lượng Mỹ ra
khỏi VN trong ṿng ba tháng.
- Thượng Nghị Sĩ Joe Biden, Đảng Dân
Chủ - sau nầy trở thành Phó Tổng
Thống dưới
thời Obama đă từng
tuyên bố “Tôi sẵn sàng biểu quyết ngân sách
vô giới hạn để rút binh lính Mỹ khỏi
Việt Nam, nhưng sẽ không biểu quyết
một xu cho việc di tản và tái định cư tại
Mỹ bất cứ một người Việt
nào”.
- Chính Thống đốc Tiểu bang California Dân
Chủ, Jerry Brown, kêu gọi Tổng Thống Ford không
được xả rác tỵ nạn trên
tiểu bang xinh đẹp của ông ta, và ra lệnh
đóng cửa phi trường, không cho máy bay chở tỵ nạn
Việt Nam đáp xuống, kể cả cô nhi.
- Toàn thể Cơ quan truyền
thông Mỹ thiên tả Dân Chủ, từ New
York Times, Washington Post, Los Angeles Times đến các đài
CNN, ABC, CBS, NBC... đều chỉ trích Miền
Nam VN: lănh đạo tham nhũng, tướng tá bất
tài, lính th́ hèn nhát, dân th́ toàn là đĩ điếm
và ăn mày. Tôi chưa nói tới tập đoàn
phản chiến như John Kerry, tên ngọai trưởng
sau nầy, John Fonda ... v́ họ chỉ là một
số ít hèn nhát nhất thời, trốn quân
dịch.
Ngay từ 1968 nhà báo Walter Cronkite của
CBS đă cho rằng cuộc chiến VN đang bị bế tắc
và đă đến thời điểm, để nước
Mỹ thương lượng một giải pháp ḥa
b́nh trong danh dự và rút khỏi VN.
Đảng DÂN CHỦ đă hành xử như vậy
với đồng minh Việt Nam.
Vậy chúng ta là người dân miền Nam nói chung, người
lính VNCH nói riêng, chúng ta đă bị mất nước và
bị tù tội, đến bước lưu vong
phải bỏ xứ mà đi.
Nay, thử hỏi đảng dân chủ có
xứng đáng để cho người Việt
tỵ nạn nay là công dân Mỹ có nên ủng
hộhay không? Và xin các bạn hăy đánh giá thật
chính xác, cũng đừng để lá phiếu
của ḿnh làm lỗi đạo với những người
đă hy sinh trong chiến cuộc vừa qua.
Trân trọng kính chào quư vị. Theo
Vân Trang, San Jose 1/2019.
[2]
AI LÀM SỤP ĐỔ VNCH MIỀN NAM VIỆT NAM?
(Phần 2)
Lê Quế Lâm
Khi thỏa thuận với Pháp sẽ tái tục cuộc đàm phán vào tháng Giêng tới, ông HCM hy vọng t́nh h́nh nội chính của Pháp sẽ có thay đổi lớn sau cuộc tổng tuyển cử tháng 11/1946. Quả thực đúng như tiên liệu của ông Hồ, trong cuộc tổng tuyển cử này Đảng CS Pháp là đảng mạnh nhất, giành được 168 ghế chiếm đa số tại Quốc hội. Chính phủ do Mặt trận B́nh dân lănh đạo có 4 bộ trưởng cộng sản tham chính, họ giữ ghế Phó thủ tướng và bộ trưởng Quốc pḥng. Ông Hồ kỳ vọng chính giới Pháp sẽ thừa nhận Đông Dương độc lập và kư một hiệp ước thân thiện với VN. Nhưng 3 tháng trước, ông Hồ đă gặp trở ngại. Cuối tháng 9/1946 khi về đến Cam Ranh, ông đă bị D’Argenlieu trách cứ về vấn đề Nam Bộ. Y phản đối việc thành lập Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ là không phù hợp với tinh thần bản Tạm ước 14/9 và yêu cầu ông HCM phải đích thân ra lịnh ngưng ngay các cuộc tấn công vũ trang ở Nam Bộ. Kháng
chiến Nam Bộ đă xảy ra từ một năm
trước (23/9/1945). Đây là chủ trương
của Xứ ủy cộng sản Nam Kỳ do Trần
Văn Giàu làm bí thư và các đoàn thể, tôn giáo yêu
nước ở Nam Bộ. Trần Văn Giàu sanh quán
ở Chợlớn, học trường Chasseloup đă
gia nhập Đảng CS Pháp cùng học ở Đại
học Đông phương như HCM, nhưng sau ông
Hồ mấy năm. Trước Cách mạng tháng 8/1945
tại Nam Kỳ đă có sự xung đột quyết
liệt giữa những người cộng sản.
Xứ ủy Việt Minh với cờ đỏ sao vàng
làm cờ hiệu, chủ trương tờ báo
Giải Phóng, đối lập với Xứ ủy Nam
Kỳ với cờ vàng sao đỏ, chủ trương
tờ Tiền Phong. Nhóm Giải phóng (Việt Minh)
tố cáo Trần Văn Giàu và làm tay sai cho Pháp, cho
Nhật để chống đảng CS.
Khi
Nhật đầu hàng, HCM và Việt Minh giành được
chính quyền ở miền Bắc, sau đó thương
thuyết với Pháp và kư Hiệp ước Sơ
bộ 6/3. Tại Sàig̣n, Trần Văn Giàu giành
được chính quyền và thành lập Ủy ban Hành
chánh Lâm thời Nam Bộ. Ủy ban cũng thương
thảo với Pháp, nhưng chỉ một thời gian
ngắn rồi phát động kháng chiến từ tháng
9/1945, trong khi đó ông HCM vẫn tiếp tục thương
thuyết với Pháp từ hội nghị Đà
Lạt đến hội nghị Fontainebleau. Xứ
ủy Nam Bộ lên án ông Hồ phản quốc. V́
thế từ Pháp trở về, ông tuyên bố với
đồng bào “Hồ Chí Minh không phải là kẻ bán
nước”.
[3]
AI LÀM
SỤP ĐỔ VNCH MIỀN NAM VIỆT NAM? (Phần 3) Lê
Quế Lâm Sau
HĐ Genève 1954, cuộc xung đột thế giới
đi vào giai đoạn ḥa hoăn. Những thỏa
hiệp của
5 cường quốc đă giải quyết ổn
thỏa nhiều vấn đề quốc tế c̣n
tồn tại sau TC II: vấn đề những lănh
thổ bị tạm chia cắt, Triều Tiên, Đức,
Âu Châu và chiến tranh Đông Dương. Năm 1950,
cộng sản mưu toan dùng vũ lực thống
nhất bán đảo Triều Tiên nhưng thất
bại. Quyết định của các cường
quốc tái lập nguyên trạng nguyên trạng
Triều Tiên (chia cắt TT ở Vĩ tuyến 38) và dùng
giải pháp TT chia cắt ảnh hưởng nước
này cho Nga Mỹ, để chấm dứt chiến tranh
Đông Dương. Và từ giải pháp chính trị
cho Việt Nam (dự trù một cuộc hiệp thương
giữa chính phủ hai miền Nam Bắc để
thống nhất VN) đă mở ra con đường
thống nhất các lănh thổ bị chia cắt
bằng thương lượng ḥa b́nh đă làm cho Liên
Xô an tâm về phần đất ảnh hưởng
của họ ở Đông Âu.
(1)
Nước Pháp công nhận nước VN là một
quốc gia hoàn toàn độc lập có đầy
đủ chủ quyền và thẩm quyền do quốc
tế công pháp công nhận. (2)
Nước Việt Nam thay thế nước Pháp trong các
quyền lợi và trách nhiệm do những hiệp
ước mà Pháp đă kư thay cho Việt Nam. (3)
Nước Pháp cam kết chuyển giao cho VN thẩm
quyền các công sở do Pháp chi phối trên lănh
thổ VN. (4)
Hiệp ước bắt đầu có hiệu lực
ngay sau khi kư kết và băi bỏ tất cả mọi án
văn trái ngược với hiệp ước trên
đây. -Đề
cao anh em kháng chiến quốc gia. Xem chủ quyền
miền Nam là thành quả kháng chiến. Kết hợp
các thành phần kháng chiến, phi kháng chiến v́
hiểu thấu mưu đồ CS, hoặc v́ một lư
do nào khác, để tổ chức chính quyền
miền Nam. [4]
AI LÀM SỤP ĐỔ VNCH MIỀN NAM VIỆT NAM? (Phần
4)
Lê
Quế Lâm Ông
Ngô Đ́nh Diệm mở đầu cuộc đấu
tranh ư thức hệ với những người CS trong
hoàn cảnh khó khăn của một đất nước
bị thực dân phong kiến chi phối nặng
nề. Trong khi CS ở miền Bắc tước đoạt
mọi thứ quyền của người dân, ngăn
cấm người vượt tuyến đi t́m tự
do. Nhưng họ lợi dụng triệt để
khuynh hướng cởi mở đón nhận những
tư tưởng mới về dân chủ tự do
của người dân miền Nam để hô hào nhân
dân đấu tranh đ̣i những quyền lợi dân
sinh dân chủ, rồi lồng vào đó kết hợp
với đấu tranh chính trị đ̣i tổng
tuyển cử thống nhất đất nước,
tố cáo chính quyền miền Nam là tay sai của
Mỹ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước,
biến miền Nam thành thuộc địa kiểu
mới của Mỹ.
Được
Mỹ ủng hộ, ông Diệm vững tin khi nắm
quyền lănh đạo...Nhưng ông luôn hoài nghi và
không tin tưởng khả năng của những người
gọi là lănh tụ quốc gia. Ông trở nên độc
tôn, giành độc quyền bảo vệ miền Nam
tự do và đi dần đến chỗ độc
tài khi t́nh h́nh miền Nam bị CS khuynh đảo
nặng nề. Dựa vào sự hy sinh, ḷng trong sạch
và quyết tâm chống Cộng sản đến cùng,
ông coi việc lèo lái nhân dân thoát họa Cộng
sản là một thiên chức mà vua Bảo Đại
và Chúa giao phó, khiến ông thiếu tinh thần dân
chủ và chỉ dùng quyền uy để lănh đạo.
Ông
Diệm, gia đ́nh và tả hữu của ông coi “người
Nam kỳ thiếu ư thức chính trị”, họ ồ
ạt chạy theo cộng sản để kháng
chiến. Ông Hồ Sỹ Khuê cho rằng lập
luận này là sự ngộ nhận, quần chúng Nam
kỳ kháng chiến theo truyền thống Trương
Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân,
Thiên Hộ Dương… để giải phóng đất
nước, chớ không phải để theo Mác, theo
Lênin. Họ xem kẻ thù chính là thực dân Pháp.
[5]
AI LÀM SỤP ĐỔ VNCH/MIỀN NAM VIỆT NAM? (Phần
5)
Lê
Quế Lâm Chiến
lược này dựa vào hai lư thuyết mới về
chính trị và quân sự làm cơ sở cho chiến lược
toàn cầu chống Cộng sản. Đó là lư
thuyết “Chống phá hoại” của Walt
W.Rostow, phụ tá tổng thống về an ninh quốc
gia, và “Chống xâm lược” của Đại
tướng Maxwell Taylor, Cố vấn quân sự của
tổng thống. Lư thuyết này được h́nh
thành từ kết luận cho rằng “Cộng
sản là một thế lực quốc tế mà ư
định tồn tại không ǵ khác hơn là sự
xâm lược và thống trị các dân tộc
bằng chế độ độc tài vô sản.
Chủ nghĩa Cộng sản là nguồn gốc
của mọi cuộc bạo loạn và xáo trộn, là
một thế lực xâm lược từ bên ngoài,
c̣n các đảng Cộng sản địa phương
là các thế lực xâm lược từ bên trong”. Theo
HK, sự tranh chấp giữa ư thức hệ tự do
và cộng sản diễn ra ở các nước
chậm tiến của lụa địa châu Á, châu Phi
và châu Mỹ La tinh là nguy cơ của Thế giới
tự do. Nơi đây với t́nh trạng nghèo đói
lạc hậu và bất công xă hội là những
mầm mống khiến chủ nghĩa cộng sản
ươm mầm phát triển. Đây là điểm
yếu nhất của của các nước Tây phương.
Khu vực các nước đang phát triển sẽ là
đối tượng chinh phục và bành trướng
của các thế lực cộng sản khi Khuschev công
khai ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc.
Tại các khu vực này, phong trào cách mạng thường
phát xuất từ sự chống đối của
những phần tử bất măn do sự xúi giục
của các đảng CS địa phương
được LX và TC ủng hộ. Chủ trương
của họ là dùng sự nổi dậy của du kích
tiến dần đến bạo lực vũ trang
lật đổ các chính phủ hợp pháp để
giành toàn bộ chính quyền. W.
Rostow đặt vấn đề chống nổi
dậy thành chủ điểm trong đường
lối chung của HK đối với các nước
đang phát triển chống lại sự phá hoại
của cộng sản. Với những phong trào cách
mạng mà động lực chính là những ư tưởng
về công bằng xă hội th́ phải chấm dứt
bất công xă hội, nâng cao đời sống nhân
dân về kinh tế, chính trị, văn hóa. Tại các
nước nông nghiệp đang phát triển “nông
dân là biển nước nuôi cá du kích”, nên
vấn đề chủ yếu theo Rostow là phải tranh
thủ người nông dân, tách họ khỏi sự
kiểm soát của cộng sản, mở cho họ
thấy những triển vọng tốt đẹp hơn
về tương lai. Ấp chiến lược là trung
tâm của chiến lược chống nổi dậy
nhằm cô lập các phần tử sách động
khuynh đảo của cộng sản khỏi nông
dân. Trong
những trường hợp cần phải chống
lại sự xâm lăng từ bên ngoài vào, HK sẽ
xử dụng biện pháp quân sự, sẳn sàng
đưa quân chiến đấu đến trực
tiếp can thiệp, coi đó như là một cuộc
thánh chiến mà HK phải đảm nhận. Chiến
lược mới của TT Kennedy, thay thế chiến lược
“trả đũa ồ ạt”của thời
Eisenhower, dự kiến ba mức độ phản
ứng linh hoạt tùy theo t́nh h́nh xâm lược
của cộng sản. Với chiến tranh đặc
biệt: HK cố vấn và giúp đỡ người
bản xứ tiến hành cuộc chiến tranh bảo
vệ độc lập tự do của chính họ.
Mức độ thứ hai là chiến tranh cục
bộ: HK trực tiếp can thiệp để
lập lại cân bằng quyền lực, thực
hiện ba mục tiêu: tiêu diệt địch, xây
dựng nền tảng quốc gia, b́nh định và
phát triển đất nước. H́nh thức
cuối cùng là chiến tranh tổng lực. W.
Rostow cho rằng “Chận đứng cộng sản
chính là sứ mạng quan trọng mà Hoa Kỳ phải
đảm nhận.. Đây là cuộc chiến tranh sâu
sắc, không phải chỉ đánh bằng vũ khí
mà c̣n đánh trong tâm trí con người sống ở
các làng mạc và đồi núi, đánh bằng
đường lối của chính phủ bản
xứ. Thực chất đó là cuộc tranh chấp
trong phạm vi một dân tộc mà những kẻ đứng
ngoài không thể thắng được, nhưng
chỉ có thể tạo ra những điều kiện
để người bản xứ chiến thắng
cuộc chiến tranh của chính họ”. Hoa Kỳ
sẽ thực hiện điều này khi tham chiến và
kết thúc cuộc chiến VN. Ngày
15/2/1961, Việt Cộng thống nhất các lực lượng
quân sự, thành lập “Bộ Chỉ huy vũ trang
giải phóng Miền Nam” thường gọi là
Bộ Chỉ Huy Miền hoặc R. Và từ tháng 9/1961,
các đơn vị VC với quân số tập trung
đông đảo từ 500 đến 1000 tên bắt
đầu được tung ra hoạt động.
Chúng đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Thành
và gây tổn thất nặng nề cho quân chính phủ
ở tỉnh Đắc Lắc. Tháng 2/ 1962 Bộ Tư
Lịnh Viện trợ Quân sự Mỹ tại VN
tức MAC-V (Military Assistance Command-Vietnam) được
thành lập để điều khiển mọi
nổ lực yểm trợ của HK ở VN. Lúc
bấy giờ số cố vấn quân sự Mỹ
ở VN là 3200 tăng dần đến 12300 vào cuối
năm 1962 và lên đến 13500 vào đầu năm
1963. T́nh h́nh an ninh ở Miền Nam càng tồi tệ,
sự can thiệp của HK càng dấn sâu, sự mâu
thuẫn giữa Mỹ và chính quyền Diệm càng gia
tăng. Dưới ảnh hưởng của người
em làm quân sư, TT Diệm cho rằng cố vấn
Mỹ đă tạo ra cái ấn tượng thực
dân trong ḷng người dân VN và yêu cầu Mỹ rút
bớt cố vấn. Ông
Ngô Đ́nh Nhu phản công bằng cách mượn
giải pháp trung lập của De Gaulle để gây
sức ép với Mỹ. Ông mời Đại sứ
Pháp Roger L’Alouette đến thảo luận và bày
tỏ ư muốn thương thuyết với Hà Nội
sau khi ông HCM công khai đề cập đến mối
liên lạc giữa hai bên Nam Bắc có thể đặt
trên một căn bản mới. Theo đó một
cuộc ngưng bắn có thể được dàn
xếp bởi các bên thù nghịch nếu sự can
thiệp của ngoại quốc nghĩa là sự can
thiệp của HK phải chấm dứt. Ông Nhu c̣n yêu
cầu các thành viên trong Ủy hội Quốc tế
kiểm soát đ́nh chiến “đứng ra dàn
xếp để hai bên VN thi hành hiệp định
Genève”. Ông Nhu c̣n tiếp xúc mật với Phó
thủ tướng BV Phạm Hùng lúc bấy giờ là
Bí thư Trung ương cục Miền nam. Những tin
tức trên khiến dư luận Mỹ lên án dữ
dội sự phản bội của ông Diệm đối
với Mỹ, càng hỗ trợ mạnh mẽ chính
quyền Kennedy ủng hộ cuộc đảo chánh
quân sự nhân vụ Phật giáo nhằm loại anh em
ông Diệm. HK cho rằng “Cuộc chiến Việt
Nam không thể thắng được nếu c̣n hai
ông ấy cầm quyền” v́ họ chống
chiến lược của Mỹ, không cho Mỹ can
thiệp trực tiếp để theo đuổi
cuộc chiến mạnh mẽ hơn. Sau
đảo chánh TT Diệm ngày 1/11,1963, t́nh h́nh an ninh
ở MNVN ngày càng tồi tệ. Chương tŕnh
Ấp Chiến lược nhằm tách du kích cộng
sản khỏi nguồn nhân vật lực của nông
dân đă bị hủy bỏ. Từ đó CS hầu như
làm chủ toàn bộ nông thôn. Sau chuyến thị sát
t́nh h́nh MNVN, trong tường tŕnh ngày 21/12/1963, Bộ
trưởng Quốc pḥng McNamara tiết lộ “T́nh
h́nh MNVN rất rối rấm, các khuynh hướng
hiện nay nếu không được lật ngược
lại trong ṿng hai ba tháng sắp tới, có thể
đưa tới một t́nh trạng tốt nhất là
sự trung lập hóa và điều có vẻ đúng
hơn là một quốc gia bị cộng sản
kiểm soát”. Ngày
30/1/1964 tướng Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh
lư loại các tướng thân Pháp có khuynh hướng
trung lập ra khỏi chính quyền. Tướng Khánh
dùng thủ đoạn mua chuộc, thăng cấp
bừa băi các sĩ quan trẻ, loại dần các tướng
già để nắm quân đội, tạo cho các sĩ
quan chỉ huy một ḷng trung thành, không phải với
Tổ quốc mà trung thành với người ban phát
quyền lợi cho ḿnh. Được hậu thuẫn
của đàn em, Nguyễn Khánh thành lập Hội
đồng Quân lực, thảo ra Hiến chương Vũng
tàu, băi bỏ chức vụ quốc trưởng
của Dương văn Minh, lên làm chủ tịch nước. Mưu
đồ xây dựng chế độ quân phiệt
của Nguyễn Khánh bị sinh viên học sinh và các
đoàn thể tôn giáo phản đối. Các cuộc
biểu dương lực lượng, đảo chánh
lại tiếp tục diễn ra chống Khánh, hết tướng
Dương Văn Đức đến đại tá
Huỳnh Văn Tồn, đến tướng Lâm văn
Phát và đại tá Phạm Ngọc Thảo. Cuối
cùng là tướng Nguyễn Chánh Thi kết hợp
với tướng Nguyễn Cao Kỳ lật đổ
Khánh. Trong cảnh hỗn quân hỗn quan, các tướng
trẻ đều nuôi tham vọng trở thành lănh
tụ, trong khi t́nh h́nh an ninh quốc gia vô cùng đen
tối. Đầu
tháng 11/1964 đặc cộng CS tấn công phi trường
Biên Ḥa phá hủy 8 oanh tạc cơ B57, sát hại
5 cố vấn Mỹ và bắt đầu tập trung
lực lượng cấp trung đoàn mở các
chiến dịch lớn. Tại B́nh Giă (Phước
Tuy) từ cuối năm 1964 đến đầu năm
1965, một bộ phận thuộc Sư đoàn Công trường
9 Việt Cộng tấn công vào một khu vực
được xem là hậu cứ an toàn của quân
chính phủ, liên tiếp xa luân chiến với 7, 8
tiểu đoàn TQLC, BĐQ, ND được thiết
giáp và phi pháo yểm trợ. Trong trận này, VC tuyên
truyền đă bắn rơi và làm hư hỏng 38 phi
cơ, phá hủy 28 xe bọc thép, bắt sống 19 tù
binh Mỹ, gây thương vong cho 2 ngàn binh sĩ VNCH. Đến
thời điểm này, kư giă Mỹ Neil Sheehan nhận
xét “Chỉ c̣n một khả năng có thể ngăn
chận sự sụp đổ của chế độ
Sàig̣n, đó là sự can thiệp của các lực lượng
quân sự Mỹ. Một cuộc chiến tranh lớn
trên bộ và trên không của Mỹ ở Việt Nam
không thể nào tránh được” Ngày
7/2/1965 Cộng quân pháo kích phi trường Pleiku trong
lúc Thủ tướng LX Kosygin đến thăm Hà
Nội. Lúc bấy giờ McGeorge Bundy, Cố vấn ANQG
của TT Johnson đang có mặt ở Sài G̣n. Từ
bản doanh của tướng Westmoreland, ông yêu cầu
Johnson có những biện pháp trả đũa tức
khắc. Bundy coi đây là lư do để mở đầu
chiến dịch dội bom Bắc Việt. Trở
về Mỹ, Bundy báo cáo với Johnson “T́nh h́nh Nam
VN đang suy sụp, nếu không có một hành động
mới của Hoa Kỳ, sự thất bại sẽ
không tránh khỏi”. Sau khi tham khảo ư kiến
Hội đồng ANQG và các lănh tụ Quốc hội,
TT Johnson ra lịnh không lực của Hải quân mở
các cuộc oanh kích liên tục 14 giờ vào các vị
trí huấn luyện cộng quân ở Đồng
Hới, Vĩnh Linh, 60 dậm bắc vĩ tuyến 17.
Hai hôm sau đặc công phá hoại cư xá Mỹ
ở Qui Nhơn. Các cuộc không tập Bắ Việt
tái diễn. Do
yêu cầu của tướng Westmoreland Tư lịnh
MAC-V, ngày 8/3/1965 hai tiểu đoàn TQLC Mỹ đổ
bộ lên Đà Nẵng để bảo vệ phi trường
và căn cứ Mỹ tại đây. Đây là
những đơn vị chiến đấu đầu
tiên của Mỹ đến VN. Một tháng sau, 2
tiểu đoàn TQLC khác được tăng cường
cho phi trường Đà Nẵng và Phú Bài, nâng
tổng số quân Mỹ ở VN lên đến 40 ngàn
vào giữa tháng 4/1965 Trước
khi trực tiếp nhảy vào ṿng chiến, HK xúc
tiến việc ổn định t́nh h́nh chính trị
VNCH để dồn nổ lực vào việc thực
hiện mục tiêu chiến lược của ḿnh. Trước
Giáng sinh 1964, trong một cuộc thảo luận chính
trị, Đại sứ Taylor đă nặng lời
với các tướng Nguyễn Văn Thiệu,
Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi và Chung Tấn Cang
“Chúng tôi đă nói cho quư vị rơ là nước
Mỹ đă chán nản v́ những cuộc đảo
chính rồi. Rơ ràng tôi đă uổng phí lời nói
của tôi. Bây giờ các ông làm cho t́nh h́nh rối
bời rồi và chúng tôi sẽ phải làm cách nào ra
khỏi sự ung thối ấy”. Nhờ đó
sự tranh chấp nội bộ kéo dài từ ngày đảo
chánh TT Diệm đă chấm dứt sau khi nhóm tướng
lănh trẻ áp lực đẩy tướng Khánh sang
Pháp lưu vong. Tháng 5/1965 nhân cuộc khủng hoảng
chính trị giữa Thủ tướng Phan Huy Quát và
Quốc trưởng Phan Khắc Sửu về việc
bổ nhiệm và băi nhiệm các thành viên nội các,
phe quân nhân ép chính phủ dân sự từ chức, giao
quyền cho quân đội. Tướng Nguyễn Văn
Thiệu với tư cách tổng trưởng Quốc
pḥng và Tổng thư kư Hội đồng Quân lực
đón nhận sự bàn giao từ chính phủ dân
sự. Ông đảm nhận chức vụ Chủ
tịch Ủy ban Lănh đạo Quốc gia, tướng
Nguyễn Cao Kỳ giữ chức Chủ tịch Ủy
ban Hành pháp Trung ương. Ngày
7/4/1965 tại Viện Đại học Hopkins, TT Johnson
tuyên bố sẳn sàng thương lượng không
điều kiện với các phe liên hệ dựa trên
những hiệp ước cũ hoặc bổ túc
bằng những hiệp ước mới. Mục tiêu
của HK là nền độc lập của MNVN
được bảo đảm để họ có
thể quyết định mối liên hệ riêng
của họ mà không sự can thiệp từ bên ngoài.
HK sẽ làm mọi thứ cần thiết để
đạt được mục tiêu là “Nền
độc lập của Nam VN được bảo
đảm vững chắc để họ có thể
hoạch định mối liên hệ riêng của
họ đối với các nước khác mà không có
sự can thiệp từ bên ngoài. Nơi đây không
phải là căn cứ quân sự của nước
nào và cũng không liên minh quân sự với nước
nào”. Johnson khẳng định “Nếu mục
tiêu trên đây chưa đạt được, HK
sẽ không rút khỏi miền Nam VN hoặc công khai
hoặc khoác dưới một hiệp định vô
nghĩa nào”. Johnson
c̣n đề nghị TTK/LHQ U Thant với uy tín và
kiến thức sâu rộng về châu Á, đề xướng
với các nước Đông Nam Á liên kết với
nhau trong đó có Bắc Việt Nam, góp phần trong
một nổ lực chung để hợp tác và phát
triển khu vực trong ḥa b́nh. HK sẽ đầu tư
1 tỷ đô la cùng các nước kỹ nghệ phát
triển kể cả Liên Xô tham gia vào nổ lực
chung đó, để “biến sự vô vọng và
kinh sợ thành những triển vọng và tiến
bộ”. Hôm
sau 8/4/1975 TT Phạm Văn Đồng bác bác đề
nghị ḥa b́nh của Mỹ và đưa ra đề
nghị 4 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân
Chủ Cộng Ḥa: (1) Yêu cầu HK rút quân khỏi MNVN.
(2) Đ́nh chỉ hành động chiến tranh với
miền Bắc, (3) Công việc miền Nam do nhân dân MNVN
giải quyết theo cương lĩnh của MTGPMN. (4)
Việc thống nhất VN sẽ do nhân dân hai miền
tự quyết định không có sự can thiệp
từ bên ngoài. TT Phạm Văn Đồng c̣n
khẳng định “Mọi giải pháp trái với
lập trường trên đây đều không thích
hợp, giải pháp muốn dùng LHQ để can
thiệp vào t́nh h́nh nước Việt Nam cũng đều
không thích hợp”. Giữa
tháng 5/1965 HK ngưng oanh tạc BV trong một tuần
lễ để bí mật chuyển đến Sứ
quán Hà Nội ở Moscow một đề nghị ḥa
b́nh. Hà Nội không trả lời, trái lại c̣n
lợi dụng sự bất ổn chính trị ở
Sài G̣n đẩy mạnh các hoạt động quân
sự ở MNVN. Tại Phước Long từ ngày
11/5/1965 hai trung đoàn VC mở nhiều đợt
tấn công vào tỉnh lỵ Sông Bé, thị trấn
Đồng Xoài và một căn cứ Lực lượng
Đặc biệt Mỹ. Tại Trung phần, cộng
quân đánh bại hai tiểu đoàn quân chính phủ
ở Ba Gia (Quảng Ngăi). Chỉ trong tháng 5 và
6/1965 VC đă gây thiệt hại nặng cho 5 trung đoàn
và 9 tiểu đoàn bộ binh VNCH. Tướng
Westmoreland báo cáo về Hoa Thạnh Đốn “Quân
đội Nam Việt Nam không thể đứng
vững được trước áp lực của
cộng quân nếu không có sự yểm trợ
mạnh mẽ của quân chiến đấu Mỹ”.
Để
chế độ MN tự do khỏi sụp đổ
ông cần một quân số tổng cộng là 180 ngàn
trong đó có 34 tiểu đoàn chiến đấu
Mỹ và 10 tiểu đoàn chiến đấu Đại
Hàn. Việc dội bom miền Bắc không ngăn
được sự xâm lược của Hà Nội
khiến TT Johnson chấp nhận lời yêu cầu
của Westmoreland gởi tiếp 44 tiểu đoàn
chiến đấu để trực tiếp
đương đầu với sự xâm lăng
của cộng sản. Muốn BV ngồi vào bàn đàm
phán, Johnson cho rằng không có cách nào khác hơn là
phải gia tăng áp lực làm cho Hà Nội thấy
rằng họ không thể nào thắng được
ở miền Nam bằng sức mạnh quân sự. Lúc
bấy giờ thủ tướng Mă lai Abdul Rahman cũng
thừa nhận “không thể hội đàm với
cộng sản trừ phi chúng bị đánh bại”.
Theo ông, cộng sản chỉ bằng ḷng thương
lượng nếu họ tin rằng họ sẽ
thất trận. Rahman c̣n cho rằng “Nếu Hoa
Kỳ rút lui và miền Nam VN mất vào tay cộng
sản th́ chúng ta cũng sẽ chuẩn bị để
đương đầu một phong trào mới”.
Quân đội của HK tại VN từ 75 ngàn hồi
giữa tháng 7/1965 đă tăng lên đến 184 ngàn
vào cuối năm đó Sau
một tuần ngưng ném bom nhưng không mang kết
quả thuận lợi nào cho việc đàm phán Từ
19/5/1965 không lực Mỹ bắt đầu vượt
vĩ tuyến 20 đánh rộng ra Bắc. Hoa Kỳ
lập luận “Không tập miền Bắc không
phải tấn công khiêu chiến cũng không phải
để chiến thắng miền Bắc mà chỉ
để ngăn chận đừng cho Bắc Việt
chuyển người và vũ khí vào miền Nam. Hoa
Kỳ chỉ ở lại miền Nam để bảo
vệ nước nầy khỏi bị miền Bắc
xâm chiếm. Nếu miền Bắc chịu thương
thuyết th́ Hoa Kỳ sẳn sàng ngồi vào bàn
hội nghị”. Mỹ
cũng thông báo cho Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa
biết rơ lập trường của họ trong
cuộc chiến Việt Nam: “không khiêu khích khối
Xă hội chủ nghĩa, không xâm lược nước
Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa, chỉ áp lực Hà
Nội chấm dứt chiến tranh, giải quyết
vấn đề Nam Việt Nam bằng đàm phán, góp
phần xây dựng một Đông Nam Á ḥa b́nh và phát
triển có sự hợp tác của mọi cường
quốc”. Phản
ứng của LX là kêu gọi các nước XHCN
thống nhất hành động, thành lập “Mặt
trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam
chống Mỹ”, nhưng Bắc Kinh cực lực bác
bỏ đề nghị của Liên Xô xây dựng sân
bay và lập cầu không vận ở lănh thổ Trung
Quốc để chuyển vũ khí giúp Bắc
Việt Nam. Bắc Kinh thuyết phục Hà Nội tách
rời quỹ đạo Liên Xô, đừng để
cuộc chiến giải phóng Miền Nam bị đồng
hóa với cuộc tranh giành ảnh hưởng của
hai siêu cường Nga Mỹ. Mao Trạch Đông
lợi dụng sự can thiệp của Mỹ vào
chiến tranh Việt Nam để giương lá cờ
chống bá quyền của hai siêu cường, bảo
vệ nền độc lập dân tộc của các nước
Thế giới thứ ba, nên họ khước từ
hợp tác với Liên Xô. Mao
đă nhắn khéo với Hoa Thạnh Đốn qua người
bạn thân là kư giă Edgar Snow: “Quân đội Trung
Quốc sẽ không vượt biên giới của ḿnh
để đánh nhau. Đó là điều hoàn toàn rơ
ràng, chỉ khi nào người Mỹ tấn công, người
Trung Quốc mới chiến đấu. Đánh nhau
ngoài biên giới của ḿnh là phạm tội ác”.
Được Bắc Kinh bật đèn xanh, HK không c̣n
sợ một trận Triều Tiên thứ hai, liền
ồ ạt đổ quân vào miền Nam và đẩy
mạnh việc oanh tạc miền Bắc để áp
lực Hà Nội ngồi vào bàn thương thuyết
mang lại ḥa b́nh cho VN.
[6]
AI LÀM SỤP ĐỔ VNCH/MIỀN NAM VIỆT NAM? (Phần
6)
Lê
Quế Lâm
Mao
đă lên tiếng TQ sẽ không tấn công Mỹ,
nếu Mỹ không tấn công TQ giúp Mỹ an tâm,
dồn hết nổ lực để áp lực
mạnh Hà Nội chấp nhận đàm phán, giải
quyết ḥa b́nh vấn đề VN. Trước khi có
những hành động quân sự quyết liệt,
Mỹ mở cuộc tấn công ḥa b́nh sâu rộng
nhân dịp hưu chiến Giáng sinh 1965 đầu năm
dương lịch 1966. Họ cố tạo ra t́nh
thế thuận lợi để có thể gia tăng
khả năng giải quyết chiến tranh VN bằng
con đường ḥa b́nh. TT Johnson gởi thư đến
nhiều lănh tụ quốc gia, nhiều phái đoàn do
Phó TT Humphrey, Ngoại trưởng Dean Rusk, Đại
sứ Harriman và Golberg, Thứ trưởng Ngoại giao
Mennem Williams dẫn đầu, được gởi
đi tiếp xúc và thảo luận với Đức
Giáo hoàng, Tổng Thư kư LHQ và hơn 115 quốc gia
thuộc mọi khuynh hướng trên thế giới. Hoa
Kỳ c̣n chuyển đến sứ quán Hà Nội
ở Liên Xô và Miến Điện những đề
nghị kêu gọi Bắc Việt đàm phán trực
tiếp với HK để giải quyết ḥa b́nh
vấn đề VN. TT Johnson tuyên bố “Hoa Kỳ
sẽ kéo dài việc ngưng oanh tạc, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đàm phán, nếu
Bắc Việt có những sự đáp ứng hữu
ích thực sự cho việc tái lập ḥa b́nh”. HK
cũng yêu cầu LHQ triệu tập một hội
nghị quốc tế để giải quyết
vấn đề chiến tranh VN. Hội đồng
Bảo An biểu quyết chấp thuận với
tỉ số 9/2 đưa vấn đề VN vào chương
tŕnh nghị sự, nhưng chính quyền Hà Nội cương
quyết khước từ sự can thiệp của
LHQ. Họ cho rằng “Nếu quả thực Hoa
Kỳ muốn ḥa b́nh th́ phải công nhận MTGPMN là
đại diện chân chính duy nhất của Miền
Nam Việt Nam và mở cuộc thương thuyết
với mặt trận đó”. Hà Nội cho biết
thêm, vấn đề MNVN chỉ được
giải quyết khi nào HK chấp nhận giải pháp 4
điểm của chính phủ VNDCCH. Để
trả lời Hà Nội, ngày 7/1/1966, Bộ Ngoại giao
Mỹ đưa ra đề nghị 14 điểm để
cùng thảo luận với đề nghị 4 điểm
của chính phủ VNDCCH. Nội dung gồm những
diểm chính sau: *Thừa nhận hiệp định
Genève 1954 và 1962 (Trung lập Lào) là căn bản đầy
đủ cho việc tái lập ḥa b́nh ở ĐNÁ.
*HK chấp nhận thương thuyết không điều
kiện và không đặt điều kiện tiên
quyết. *HK không muốn có căn cứ ở ĐNÁ,
không có ư định duy tŕ quân đội Mỹ ở
MNVN sau khi ḥa b́nh được bảo đảm. *Hoa
Kỳ ủng hộ cuộc tổng tuyển cử
tự do, để nhân dân MNVN chọn lựa chính
phủ của họ. *Vấn đề thống
nhất VN sẽ do nhân dân VN quyết định. *Các nước
ĐNÁ có thể theo con đường trung lập
hoặc phi liên kết tùy sự chọn lựa
của họ. *HK sẽ góp phần tái thiết ĐNÁ,
trong đó BV có thể tham gia vào nổ lực chung
đó để phát triển khu vực. Trong
thông điệp ngày 12/1/966 TT Johnson tường tŕnh
với Quốc hội trong nổ lực giải
quyết ḥa b́nh vấn đề Việt Nam, HK sẳn
sàng thảo luận bất cứ đề nghị nào
của Hà Nội dù 4 điểm, 14 điểm hoặc
40 điểm. Hoa Kỳ sẳn sàng rút quân khỏi MNVN
khi nào dân chúng nơi đây được bảo
đảm có quyền hoạch định tương
lai riêng của họ…Nhưng rất tiếc đề
nghị của HK không được Hà Nội trả
lời. Sau
37 ngày ngưng ném bom không đem lại một triển
vọng tốt đẹp nào cho việc đàm phán v́
thái độ tránh né của Hà Nội. Họ luôn luôn
phủ nhận trách nhiệm của họ trong cuộc
chiến ở Miền Nam. HK oanh tạc trở lại
với qui mô lớn, kể cả xử dụng oanh
tạc cơ khổng lồ B.52 vào các vị trí
huấn luyện và tập trung quân xâm nhập dọc
giới tuyến 17. Các kho chứa dầu ở ngoại
thành Hà Nội và Hải Pḥng, các khu công nghiệp
Cẩm Phả, Ḥn Gai, Việt Tŕ trở thành mục
tiêu oanh kích thường xuyên, để làm suy nhược
ư chí quyết thắng của Hà Nội. Cùng
với việc không tập miền Bắc, theo yêu
cầu của tướng Westmoreland, quân số HK ở
VN dự trù sẽ gia tăng từ 350 ngàn lên 400 ngàn
trong năm 1966. Trong
lúc HK dồn mọi nổ lực áp lực Hà Nội
từ bỏ ư định chiến thắng bằng
quân sự, chịu đàm phán, th́ t́nh h́nh chính
trị VNCH lâm vào t́nh trạng khủng hoảng. Tháng
5/1965 sau khi tiếp nhận chính quyền từ chính
phủ dân sự, vấn đề khó khăn đầu
tiên của các tướng lănh là chọn người
đảm nhận chức vụ Ủy viên Hành pháp
Trung ương (thủ tướng) trong Ủy ban Lănh
đạo Quốc gia. Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư
lịnh Quân đoàn I được dư luận chú
ư nhiều nhất v́ ông được hậu
thuẫn của Phật giáo, nhưng ông ta cũng như
hầu hết các tướng lănh chỉ muốn
nắm quân hùng cứ một quân khu hơn là nắm
quyền ở trung ương rất dễ bị
lật đổ, việc này từng xảy ra hai ba năm
trước. Vấn đề chọn người
được giải quyết mau lẹ khi tướng
Nguyễn Cao Kỳ, Tư lịnh Không quân t́nh
nguyện kiêm nhiệm chức vụ Ủy viên Hành
pháp Trung ương. Nội
các chiến tranh do tướng Nguyễn Cao Kỳ ra
đời trong lúc quân Mỹ ồ ạt kéo vào VN và
lời tuyên bố của tướng Nguyễn Văn
Thiệu Chủ tịch Ủy ban Lănh đạo
Quốc gia: “Quân đội không hề lập
chế độ độc tài và sẽ trao quyền
lại cho các dân cử khi nào cộng sản hoàn toàn
bị tiêu diệt”, khiến người dân nghi
ngờ thiện chí của Mỹ. Họ nghĩ rằng
HK ủng hộ Thiệu Kỳ chỉ v́ mục tiêu
chiến tranh, c̣n Thiệu Kỳ lợi dụng
chiến tranh để xây dựng chế độ
độc tài quân phiệt. Trong khi chiến tranh theo
họ nghĩ, không thể chấm dứt bằng
kết quả một bên thắng một bên đầu
hàng, v́ các cường quốc đang trợ giúp
cả hai bên. Sinh
viên Viện Đại Học Sài G̣n ra tuyên cáo “Cương
quyết đấu tranh thành lập gấp một chính
quyền quốc gia dân cử để kịp thời
ổn định t́nh trạng hiện tại và
cực lực lên hành động lệ thuộc
ngoại bang của chính phủ hiện tại”.
Tổng Liên đoàn Lao Công VN cũng lên tiếng
phản đối âm mưu kéo dài cuộc chiến
tranh diệt chủng tại miền Nam và yêu cầu
Mỹ phải tôn trọng chủ quyền quốc gia
của VN. Tuyên cáo của Tổng Liên đoàn Lao Công
viết rằng: “Chúng tôi muốn Hoa Kỳ là đồng
minh của chúng tôi về ḥa b́nh, không phải nội
các chiến tranh mà là một nội các ḥa b́nh”.
Lợi
dụng sự bất măn của dân chúng đối
với chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, nhất là đông
đảo tín đồ Phật giáo muốn có một
chính quyền độc lập với chính sách
chiến tranh của Mỹ, một chính quyền
được dân chúng tín nhiệm để đủ
sức nói chuyện với Hà Nội và MTGPMN. Tướng
Nguyễn Chánh Thi Tư lịnh QĐ I công khai chống
lại chính quyền trung ương ở Sài G̣n. Tướng
Kỳ dùng biện pháp mạnh cách chức tướng
Thi, đụng chạm đến các lănh tụ
Phật giáo miền Trung. Thượng tọa Thích Trí
Quang đưa bàn thờ Phật xuống đường
để chống quân chính phủ từ Sài G̣n
gởi ra miền Trung, và đ̣i thành lập chính
phủ dân sự. Rất nhiều tướng tá
chịu ảnh hưởng của Phật giáo chống
lại chính quyền trung ương, cũng như
nhiều tướng tá khác không dám thi hành lịnh
của trung ương chống lại Phật giáo. T́nh
thế hỗn loạn của miền Nam hồi giữa
năm 1966, cùng sự ủng hộ mạnh mẽ
của Liên Xô và Trung Cộng càng làm cho ông Hồ Chí
Minh quyết tâm chấp nhận tổn thất,
chiến đấu đến cùng. Ngày 17/7/1966 ông kêu
gọi nhân dân “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm,
10 năm hay lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Pḥng và
một số thành phố xí nghiệp có thể bị
tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ.
Không có ǵ quư hơn Độc lập Tự do. Đến
ngày thắng lợi nhân dân sẽ xây dựng lại
đất nước đàng hoàng, to đẹp hơn”.
Số đơn vị Bắc Việt xâm nhập
được ghi nhận cao gấp đôi so với 6
tháng trước. Trước
sự xâm nhập ồ ạt của Bắc Việt,
ngày 30/6/1966 TT Johnson cảnh cáo Hà Nội: “Mỹ
sẽ gia tăng mạnh mẽ các vụ không tập
vào các mục tiêu quân sự để những kẻ
gây chiến, xâm phạm nền tự do các nước
láng giềng phải chịu trả một giá đắt”.
Quân số Mỹ lúc bấy giờ là 285 ngàn, theo thông
báo của Ngũ giác Đài sẽ tăng đến
383 ngàn vào cuối năm 1966 và 425 ngàn vào giữa năm
1967. Với quân số này, tướng Westmoreland sẽ
thực hiện cuộc tấn công chiến lược
mùa khô thứ hai 1966/67, chấm dứt giai đoạn
“lùng và diệt” chuyển sang bước
thứ hai “quét và giữ” tại chiến trường
trọng điểm đông dân miền Đông Nam
phần. Cuối
tháng 10/1966, do đề nghị của tổng thống
Phi Luật Tân Ferdinand Marcos, các lănh tụ Đồng
minh có quân tham chiến ở VN như TT Park Chung Hee
của Đại Hàn, TT Kittikachorn của Thái Lan, TT
Harold Holt của Úc, TT Keith Holyoak của Tây Tân Lan và TT
Johnson của Mỹ, tham dự hội nghị Manila.
Họ đưa ra sáng kiến ḥa b́nh bằng đề
nghị quân ngoại nhập cùng rút khỏi MNVN để
nhân dân MN thực hiện việc ḥa giải, đồng
thời đề xướng kế hoạch phát
triển vùng Á châu/Thái B́nh Dương với việc
thành lập Ngân hàng Phát triển Á châu.
Đầu
tháng 2/1967, Thủ tướng LX Kosygin đến thăm
Anh Quốc và yêu cầu HK chấm dứt không điều
kiện việc ném bom miền Bắc để khởi
đầu các cuộc thương thuyết ḥa b́nh. Do
đó ngày 8/2/1967 TT Johnson chính thức gởi đến
Chủ tịch HCM lời đề nghị: Mỹ
sẽ ngưng ném bom và ngưng tăng cường quân
lực Mỹ ở MNVN nếu BV cũng đ́nh chỉ
việc gởi người và vũ khí vào MN. Sau đó
hai bên tiến hành những cuộc đàm phán trực
tiếp để giải quyết vấn đề
MNVN. Trong
thư trả lời, Chủ tịch HCM lập lại
đề nghị 4 điểm của Hà Nội, ông coi
đó là cơ sở để giải quyết
cuộc chiến ở miền Nam. Ông cho biết nước
VNDCCH “không thể thương lượng dưới
sự đe dọa của bom đạn Mỹ. Hoa
Kỳ phải chấm dứt vĩnh viễn và không
điều kiện việc ném bom và mọi hành động
chống lại nước Việt Nam Dân chủ
Cộng ḥa, khi đó hai bên mới có thể đàm
phán và thảo luận những vấn đề mà hai
bên quan tâm”. Từ
tháng 4/1967 những cuộc mật đàm giữa Mỹ
và Bắc Việt đă diễn ra, quan trọng nhất
là cuộc tiếp xúc giữa Kissinger và Mai Văn
Bộ ở Paris kéo dài đến tháng 7/1967 th́ tạm
ngưng. Để đạt thắng lợi trên
chiến trường làm cơ sở cho thắng
lợi trên bàn đàm phán, đồng thời để
Chính phủ VNDCCH đến bàn hội nghị trong tư
thế một kẻ chiến thắng. Từ giữa
tháng 7/1967 Hà Nội tích cực chuẩn bị kế
hoạch “Tổng công kích + Tổng khởi nghĩa”
toàn miền Nam. Tháng 12/1967 Bộ Chính trị họp và
ra nghị quyết “Chuyên cuộc chiến tranh Cách
mạng Miền Nam sang một thời kỳ mới,
thời kỳ giành thắng lợi quyết định”. Trong
lúc Mỹ và Chính phủ VNDCCH tiếp xúc mật
với nhau, th́ tại Sài G̣n, một lănh tụ MTGPMN
là Trần Bạch Đằng lúc bấy giờ là Bí
thư Thành ủy Sài G̣n đă có những cuộc
tiếp xúc mật với Đại sứ Mỹ Bunker.
Năm 1988, TBĐ -người đă trực tiếp
chỉ huy các cuộc tấn công ở Sài G̣n hồi
Tết Mậu Thân 1968 đă dành cho kư giả Úc Clayton
Jones một cuộc phỏng vấn về biến
cố này. Đằng nói: “Chúng tôi bị dồn
vào thế phải tổng công kích, dù chúng tôi đă
cố gắng t́m kiếm nhiều giải pháp chính
trị khác. Tôi đă thông báo điều này với
chính Đại sứ Bunker vào năm 1967 khi chiến
tranh sẽ là một điều tất yếu”.
Ông Đằng cho biết từ 1966 đến 1969,
Việt Cộng đă tiếp xúc mật nhiều
lần với Mỹ để trao đổi tù binh.
Chính Bunker đă can thiệp để trả tự do
cho vợ của Đằng, sau này là phụ tá của
bà Nguyễn Thị B́nh tại hội đàm Paris. Ngoài
vợ của TBĐ, Mỹ c̣n can thiệp với chính
phủ VNCH phóng thích bà Dược sĩ Phạm
Thị Yên (chị Bảy Yên), Ủy viên Trung ương
MTGPMN đang bị giam giữ ở Côn Đảo
từ đầu thập niên 1960. Bà Dược sĩ
Yên được bồi dưỡng sức khơe
tại Bịnh viện tư của Bác sĩ Nguyễn
Duy Tài, sau đó Mỹ đưa bà trở ra chiến
khu để gặp lại chồng là Trần Bửu
Kiếm. Trong bàn đàm phán Paris, ông Kiếm là Trưởng
phái đoàn đầu tiên của MTGPMN. Sau
nhiều chuyến đi đêm được HK hứa
sẽ án binh bất động, Việt Cộng dốc
toàn lực vào cuộc Tổng công kích + Tổng
khởi nghĩa Tết Mậu Thân khắp miền Nam.
Nếu quả thực MTGPMN có ưu thế và được
sự ủng hộ của dân chúng MN như họ thường
rêu rao là “kiểm soát ¾ dân số và 4/5 đất
đai” th́ Mỹ sẳn sàng rút quân để
Mặt trận quản lư công việc miền Nam VN.
Nếu không thắng, MTGP sẽ cùng chính quyền VNCH
hiệp thương, thành lập chính phủ liên
hiệp, giải quyết chiến tranh bằng con
đường ḥa b́nh. Trong cuộc tấn công này, TBĐ
đă chiêu dụ khá đông trí thức như Luật
sư Tŕnh Đ́nh Thảo, Giáo sư Nguyễn Văn
Kiết.…ra mật khu để thành lập Liên minh
các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Ḥa
b́nh. Sau đó Liên minh này hợp tác với MTGPMN thành
lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa
MNVN, tham dự đàm phán 2 bên và 4 bên ở hội
nghị Paris. Mật
lịnh tấn công được chính Chủ tịch
HCM loan báo trên Đài phát thanh qua bài thơ chúc Tết
vào đêm Giao thừa Tết Mậu Thân. CS hy vọng cơ
hội ngày năm có một này, trong khi đồng bào
nô nức đón Xuân, lực lượng VNCH chỉ
c̣n ½ cấm trại, lơ là trong việc pḥng thủ
v́ đang có lịnh hưu chiến, họ sẽ đánh
tan quân đội VNCH, sách động nhân dân
nổi dậy giành toàn bộ chính quyền. Sau
này tướng Trần Văn Trà Tư lịnh Quân GPMN
tiết lộ: “Mục tiêu của Bộ Chính
trị đề ra là “tiêu diệt và làm ră đại
bộ phận quân đội Sài G̣n, đánh đổ
chính quyền các cấp và giành toàn bộ chính
quyền về tay nhân dân” và “tiêu diệt một
phần quan trọng sinh lực và phương tiện
chiến tranh của Mỹ” là vượt quá nhiều
khả năng thực tế ta có. Thứ nhất ta
không đủ sức -lực lượng quân sự ta
chỉ bằng 1/5 của Mỹ và quân đội Sài
G̣n về bộ binh, c̣n không quân, hải quân và cơ
giới th́ chúng có ưu thế tuyệt đối…”
Tướng Trà c̣n cho biết “một quyết định
lớn như vậy mà Bộ Chính trị chỉ dành
cho các cấp ở chiến trường có ba tháng
-nhất là tất cả các cấp, các lực lượng
quân sự và chính trị ở chiến trường
vừa đánh giặc vừa triển khai chuẩn
bị mọi mặt th́ thật là quá ngắn
ngủi…”. Tướng
Trà nhận định “đây là cũng là thời
kỳ ta bị tiêu hao nặng nhất về lực lượng,
đặc biệt là tiêu hao về cán bộ, từ
cán bộ cao cấp đến cơ sở. Chính v́
bị thiệt hại nhiều về người và phương
tiện mà trong điều kiện của ta khó bổ
sung kịp thời, trong lúc quân Mỹ và quân đội
Sài G̣n được tăng viện lớn lao, nhanh
chóng nên trước cuộc phản kích điên
cuồng và công cuộc b́nh định cấp tốc
của địch sau đó vào năm 1969-1970 trong
kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” ta đă
gặp vô vàn khó khăn. Địch đă lợi
dụng được thời kỳ lực lượng
ta chưa kịp phục hồi và địch được
bổ sung dồi dào, liên tục phản kích và
tiến công, đẩy ta ra xa đô thị, chủ
lực ta dạt về biên giới, nhiều vùng nông
thôn ta mất quyền làm chủ, cơ sở phường
xă của ta bị thiệt hại nặng nề. Trước
t́nh h́nh hết sức khó khăn đó, nhiều người
đă cho rằng Tết Mậu Thân là một thất
bại của ta”. Trong
khi đó Hà Nội lại cho rằng nhờ chiến
thắng Tết Mậu Thân cũng như những
thất bại của HK trong nổ lực xâm lăng
và gây chiến đă bị chính nhân dân Mỹ phản
đối và thế giới lên án, khiến Johnson
phải chấp nhận đàm phán, tuyên bố không
dám tái ứng cử, phải xuống thang chiến
tranh, ngưng ném bom hoàn toàn miền Bắc và chịu
thương thuyết với cả MTGPMN. Ngày
30/3/1968 TT Johnson ra lịnh ném bom hạn chế từ vĩ
tuyến 19 trở vào và cho biết sẽ triệu
hồi Đại sứ tại Mạc Tư Khoa Llewellyn
Thompson phối hợp với Averell Harriman đại
diện HK gặp gỡ đại diện Hà Nội
ở Genève hoặc bất cứ nơi nào thuận
lợi cho việc thương thảo giải quyết
vấn đề chiến tranh VN. Ông kêu gọi Hà
Nội tích cực đáp ứng đ̣i hỏi này. Ba
ngày sau chính phủ VNDCCH ra tuyên bố sẳn sàng
cử đại diện tiếp xúc với đại
diện Mỹ. Nhiệm vụ hoàn tất, TT Johnson tuyên bố không tái ứng cử nhiệm kỳ 2. Cuối tháng 10/1968, ba tháng trước khi rời Bạch Cung, ông quyết định ngưng hoàn toàn việc ném miền Bắc, mời hai chính quyền ở miền Nam là MTGPMN và VNCH tham dự hội nghị Paris. TT Johnson đă chấm dứt giai đoạn Mỹ trực tiếp điều khiển chiến tranh VN, bàn giao nhiệm vụ cho người kế nhiệm trong giai đọan mới: VNCH đảm nhận cuộc chiến, Hoa Kỳ chấm dứt chiến tranh VN bằng một hiệp định ḥa b́nh, Hoa Kỳ rút quân để hai bên MNVN giải quyết vấn đề nội bộ của họ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài.
[7]
AI LÀM SỤP
ĐỔ VNCH-MIỀN NAM VIỆT NAM? (Phần 7)
Lê
Quế
Lâm Ngày 7/12 sau bốn giờ thảo luận với Thọ, Kissinger cảm thấy triển vọng thỏa hiệp với BV ngày càng xa dần, ông gởi điện báo cáo Nixon “Sau khi thăm ḍ thêm ư định của Hà Nội, ta thấy rơ là họ không hề từ bỏ mục tiêu hay tham vọng của họ đối với Miền Nam VN. Điều đă làm là thay đổi chiến lược bằng cách chuyển từ chiến tranh qui ước và chủ lực sang chiến lược chính trị và nổi dậy trong khuôn khổ dự thảo hiệp định. V́ vậy chúng ta không thể trông đợi một nền ḥa b́nh trường cửu tiếp theo một hiệp định đă hoàn thành…” Cuối cùng Kissinger nhắc lại câu hỏi mà ông đă tŕnh bày với Nixon hai tuần trước: “Tiếp tục chiến đấu bằng cách hủy bỏ thỏa hiệp bây giờ có tốt hơn là bị bắt buộc phải phản ứng sau này, một phản ứng được biện minh bằng sự vi phạm một hiệp định đă được kư kết hay không?”
[8] AI
LÀM MẤT VNCH-MNVN? (Phần chót)
Lê Quế Lâm Chủ
trương của Nixon là thương thuyết
chấm dứt chiến nhằm giúp Hoa Kỳ
“chiến thắng đưọc ḥa b́nh” và giúp
Việt Nam Cộng Ḥa “giành được thắng
lợi trong ḥa b́nh” nên ông chỉ thị Kissinger
trở lại thương thuyết tiếp với Lê
Đức Thọ để có thể đạt
được thỏa ước trước ngày ông
tuyên thệ nhậm chức 20/1/1973. Nhưng ngày
13/12/1972, Thọ cho biết ông không muốn tiến
đến một hiệp định trong giai đoạn
này, ông sẽ trở về Hà Nội ngày hôm sau để
tham khảo ư kiến Bộ Chính trị. Trước thái
độ tŕ hoăn của Hà Nội, Kissinger đề
nghị Nixon hai giải pháp: oanh tạc Bắc Việt
mạnh mẽ để họ trở lại đàm phán
nghiêm chỉnh hoặc chờ đến tháng Giêng để
tiếp tục đàm phán trở lại. Nixon coi sự
bướng bỉnh của Bắc Việt là thái độ
tráo trở, bất tín, ông kết luận: “Kẻ
thù thực sự muốn kéo dài chiến tranh và không c̣n
cách nào khác hơn là phải dùng chiến tranh để
cải hóa đầu óc họ”. Ngày 14/12
Nixon gởi tối hậu thư yêu cầu Hà Nội
trở lại bàn đàm phán trong ṿng 72 giờ, đồng
thời ra lịnh Đô đốc Thomas Moorer, Chủ
tịch Tham mưu trương Liên quân chuẩn bị
lực lượng B.52 đồn trú ở Guam, để
tái oanh tạc Bắc Việt. Quyết định này
được sự tán đồng của Kissinger và
cố vấn quân sự của Nixon - tướng
Alexander Haig. Theo tướng Hiag th́ chỉ có một
quả đấm mạnh mới có thể kéo Hà
Nội trở lại bàn hộ nghị. C̣n tướng
Vogt, cựu tư lịnh Đệ thất Không lực
Mỹ th́ cho rằng đối với CS “cứ
phải dí lửa vào đít chúng nó, th́ chúng nó
mới chịu làm một cái ǵ. Nết tắt lửa
đi, chắc chúng sẽ không bao giờ kư cả”.
Những lập luận trên đă hỗ trợ
mạnh mẽ sự lựa chọn của Kissinger:
phải oanh tạc ồ ạt miền Bắc, nếu
không chiến tranh kéo dài, chia rẽ trong nước và
sự tổn thất càng chồng chất thêm. Tối
hậu thư của Nixon không được Bắc
Việt hồi âm. Ngày 17/12 ông hạ lịnh cho B.52 tái
oanh tạc miền Bắc và thả ḿn xuống hải
cảng Hải Pḥng. Trong hồi kư, Nixon cho rằng “quyết
định này đă dằn vặt ông nhiều
nhất trong suốt thời gian làm tổng thống”,
nếu ông không có những hành động quyết
liệt, Quốc hội cũng sẽ đi đến
quyết định rút quân khỏi VN để đổi
lấy tù binh Mỹ. Trước
khi oanh tạc BV, Kissinger tổ chức một cuộc
họp báo ở Hoa Thạnh Đốn, ông cho biết
TT Nixon đă quyết tâm đi đến thỏa
hiệp chấm dứt chiến tranh VN. Hướng
về Hà Nội, Kissnger bày tỏ chủ trương
của Mỹ: “Chúng tôi muốn chấm dứt
chiến tranh, một chấm dứt mang nhiều ư nghĩa
hơn là một cuộc đ́nh chiến. Chúng tôi
muốn chuyển từ t́nh trạng thù địch sang
t́nh trạng b́nh thường hóa, từ b́nh thường
hóa sang cộng tác. Nhưng chúng tôi không đi đến
một giải pháp nếu nó là một h́nh thức trá
h́nh của sự tiếp tục chiến tranh”.
Trong giải đáp câu hỏi của báo chí, Kissinger
tiết lộ: “Chúng tôi có một thỏa ước
đă hoàn tất 99% nếu nói về mặt bản văn”. Chủ
trương cùa Mỹ đối với VN như
Kissinger phác họa, đă từng bước được
thực hiện. Tháng 7/1995 TT Vơ Văn Kiệt và TT Bill
Clinton đă thỏa thuận việc b́nh thường hóa
bang giao Việt Mỹ. Đến tháng 8/2013 tại Nhà
Trắng, TT Barack Obama cùng Chủ tịch Trương
Tấn Sang đưa mối bang giao chuyển sang đối
tác. Đến năm 2015 TBT Nguyễn Phú Trọng
được TT Obama tiếp tại Pḥng Bầu
Dục, đă nâng mối quan hệ đối tác lên
thành đối tác toàn diện. Năm sau TT Obama đến
VN, cùng Chủ tịch Trần Đại Quang nâng đối
tác toàn diện lên tầm cao mới: VN yêu cầu
Mỹ giải tỏa lịnh cấm bán vũ khí cho VN. Cùng ngày
ra lịnh dội bom BV, Nixon cử tướng Haig sang Sài
G̣n trao cho TT Thiệu bức thư với lời lẽ
được mô tả là gay gắt nhất từ trước
đến nay, “Đă đến lúc chúng ta phải
biểu dương một mặt trận đoàn
kết trong lúc thương lượng với kẻ
địch, và Ngài phải quyết định ngay bây
giờ là có muốn tiếp tục liên minh với chúng
tôi hay không, hay Ngài muốn tôi đi t́m một thỏa
hiệp riêng rẽ với kẻ địch, để
chỉ phục vụ quyền lợi cho Hoa Kỳ mà thôi”. Ngày
26/12, 110 pháo đài bay B.52 mở cuộc tấn công
dữ dội nhất nhắm vào các mục tiêu quân
sự ở Hà Nội và Hải Pḥng. Ngay chiều hôm
đó, Hà Nội đồng ư gặp lại HK vào ngày
8/1/1973 tại Paris với “thái độ thương
thuyết nghiêm chỉnh để dàn xếp những
vấn đề c̣n lại với Hoa Kỳ”. Nixon
hạ lịnh ngưng ném bom và gởi công hàm cho chính
phủ VNDCCH, chấp nhận những điều
kiện của Hà Nội đưa ra và hẹn ngày tái
tục đàm phán. Ba ngày trước
khi Mỹ/Bắc Việt tái nhóm để giải
quyết chung cuộc vấn đề VN, ngày 5/1/1973
Nixon lại gởi thư nhắc nhở Thiệu: “Hậu
quả trầm trọng nhất sẽ xảy ra nếu
như chính phủ của Ngài tự ư bác bỏ
hiệp định và tách rời khỏi HK. Sự
từ khước tiếp tay với chúng tôi của Ngài
sẽ là một sự chuốc lấy thảm họa,
nó sẽ hủy diệt tất cả những ǵ mà chúng
ta đă cùng nhau tranh đấu để đạt
được trong mười năm qua. Vào lúc chúng tôi
bước vào tuần thảo luận mới này, tôi
hy vọng rằng hai quốc gia chúng ta sẽ biểu dương
một mặt trận đoàn kết. Tôi nhắc
lại những ǵ ở đây tôi thường
viết cho Ngài: bảo đảm tốt nhất cho
sự tồn tại của MNVN là sự đoàn
kết của hai quốc gia chúng ta, sự đoàn
kết sẽ bị nguy hại trầm trọng nếu
Ngài cứ nhất định đi theo con đường
hiện nay của Ngài. Hành động của Quốc
hội kể từ khi tái nhóm hiển nhiên đă
chứng minh được phần nào lời chúng tôi
đă báo trước. Tôi tin tưởng Ngài sẽ
quyết định tiếp tay với chúng tôi, tôi xin
bảo đảm với Ngài rằng tôi sẽ tiếp
tục yểm trợ Ngài trong giai đoạn hậu
chiến, và chúng tôi sẽ đáp ứng bằng toàn
thể sức mạnh của HK nếu như BV vi
phạm hiệp định. Một lần nữa tôi
xin kết thúc thư này bằng lời kêu gọi Ngài
hăy sát cánh với chúng tôi”. Ngày
8/1/1973 LĐT và Kissinger lần đầu tiên gặp lai
nhau sau thời gian căng thẳng tột độ.
Cuộc họp lần này diễn ra tại trụ
sở phái đoàn VNDCCH. Thọ đón khách một cách
lạnh nhạt, Kissinger lấy chân đẩy cánh
cửa bước vào trụ sở và nhận lời
xin lỗi của Thọ: “V́ tự ái dân tộc không
cho phép tôi tay bắt mặt mừng đối với
kẻ thù vừa tàn phá quê hương tôi”. Để
trả đũa lại Thọ, Kissinger cho rằng đó
chỉ v́ quyết tâm của Mỹ muốn chấm
dứt chấm tranh và sự đáp ứng kịp
thời của BV “nếu không th́ một sớm
một chiều Hà Nội có thể trở thành b́nh
địa”. Thọ trả lời “Với sức
mạnh của không lực Mỹ, chúng tôi không
chịu nổi một khắc, huống chi đến
một sớm, một chiều…Nhưng quyết tâm
chống Mỹ của nhân dân VN, nó cao hơn tầm cao
của hỏa tiễn đă bắn rơi B.52 của
Mỹ”. Sau hai ngày
thảo luận, Thọ chấp nhận những đề
nghị sửa đổi của Mỹ dựa theo
bản dự thảo hồi tháng 10/1972. Kissinger tức
tốc gởi điện báo cho Nixon: bản văn
hiệp định đă hoàn thành gồm cả
những dự liệu việc kư kết. Trong khi đó
TT Thiệu vẫn cương quyết không chấp
nhận bản dự thảo hiệp định. Ngày
14/1 một lần nữa tướng Haig lại sang Sài
G̣n với lá thư hăm dọa của Nixon gởi
Thiệu: “Tôi nhất quyết cho phê chuẩn
hiệp định dù phải làm một ḿnh. Trong trường
hợp đó tôi sẽ công khai tố cáo chính phủ
của Ngài làm cản trở cho công cuộc văn hồi
ḥa b́nh ở VN. Kết quả không tránh khỏi sẽ
là việc cúp viện trợ quân sự và kinh tế
ngay lập tức…Tuy nhiên tôi hy vọng rằng sau
tất cả những ǵ cả hai quốc gia chúng ta
đă cùng nhau chia xẻ và chịu đựng trong
cuộc chiến này, chúng ta sẽ cùng đứng chung
lại với nhau để tạo dựng và gặt hái
kết quả của ḥa b́nh”. Dù Nixon dùng
những lời lẽ cứng rắn để áp
lực, song Thiệu vẫn khăng khăng đ̣i
phải sửa đổi một số điểm trong
bản hiệp định sắp kư. Haig đă
chuyển những yêu sách của Thiệu về
Bạch Cung bằng đường vô tuyến. Nixon
tức tốc hồi đáp “Tự do và độc
lập của nước VNCH vẫn luôn luôn là mục
tiêu trong đại trong chính sách ngoại giao của HK.
Tôi đă đeo đuổi mục tiêu này trong suốt
cuộc đời chính trị của tôi và trong
bốn năm trời nay, tôi đă lănh nhiều hậu
quả trầm trọng trong nước cũng như
ngoài nước v́ theo đuổi những mục tiêu
này. Tôi cả quyết rằng việc từ chối kư
bản hiệp định này sẽ đưa đến
việc cắt mọi viện trợ cho VNCH…Kết thúc
bức thư, Nixon viết rằng “Tôi cho rằng Ngài
có hai lựa chọn: một là tiếp tục cản
trở việc kư kết, đó là hành động có
vẻ lẫm liệt nhưng thiễn cận. Hai là dùng
bản hiệp định như một phương
tiện để xây dựng một căn bản
mới cho nền bang giao VNCH với HK. Tôi không phải
nói Ngài cũng biết rơ đây là con đường
duy nhất để bảo vệ mục tiêu chung
của chúng ta”. Buổi
trưa ngày 23/1/1973, sau gần 5 năm đàm phán
với 204 phiên họp công khai và 24 cuộc mật đàm,
Lê Đức Thọ - Đại diện chính phủ
VNDC với sự thỏa thuận của Chính phủ Cách
mạng Lâm thời Cộng ḥa MNVN và Kissinger đại
diện chính phủ HK với sự thỏa thuận
của Chính phủ VNCH đă kư tắt phê chuẩn
Hiệp định chấm dứt chiến tranh và
lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam và 4 nghị
định thư đính kèm bằng tiếng Việt và
tiếng Anh. Ngày
27/1/1973 bản hiệp định được chính
thức kư kết tại Paris. Ngoại trưởng HK
William Rogers và ngoại trưởng VNDCCH Nguyễn Duy
Trinh kư hàng trên. Nguyễn Thị B́nh và Trần Văn
Lắm, ngoại trưởng hai chính phủ MNVN kư hàng
dưới. Hiệp định gồm có 9 chương
và 23 điều. Quan trọng nhất là Chương IV
Việc thực hiện quyền tự quyết của
nhân dân miền NVN có 6 đ́ều, từ điều 9
đến 14 và Chương V Vấn đề thống
nhất nước VN và vấn đề quan hệ
giữa miền Bắc và miền Nam, chỉ có
một điều 15. -Điều
9: Chính phủ HK và chính phủ VNDCCH cam kết tôn
trọng những nguyên tắc thực hiện quyền
tự quyết của nhân dân MNVN: (a) Quyền tự
quyết của nhân dân MNVN là thiêng liêng bất khả
xâm phạm và phải được tất cả các
nước tôn trọng. (b) Nhân dân MNVN tự quyết
định tương lai chính trị MN thông qua
tổng tuyển cử thực sự tự do và dân
chủ có giám sát quốc tế. (c) Các nước ngoài
sẽ không được áp đặt bất cứ
xu hướng chính trị hoặc cá nhân nào đối
với nhân dân MNVN. -Điều
10: Hai bên MN cam kết tôn trọng ngưng bắn và
giữ ḥa b́nh ở MNVN, giải quyết các vấn
đề tranh chấp bằng thương lượng
và tránh mọi xung đột bằng vũ lực. -Điều
11: Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên MNVN sẽ: (a)
Thực hiện ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, xóa
bỏ hận thù, cấm mọi hành động trả
thù và phân biệt đối xử với những cá
nhân hoặc tổ chức đă hợp tác với bên
này hoặc bên kia. (b) Bảo đảm các quyền
tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân,
tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội
họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động
chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi
lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh
sống, quyền tư hữu tài sản và quyền
tự do kinh doanh. -Điều
12: (a) Sau ngày ngưng bắn, hai bên MNVN sẽ hiệp thương
trên tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, tôn
trọng lẫn nhau và không thôn tính nhau để thành
lập Hội đồng Quốc gia ḥa giải và ḥa
hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau…(b)
Hội đồng Quốc gia ḥa giải và ḥa hợp
dân tộc có nhiệm và đôn đốc hai bên MNVN
thi hành hiệp định này, thực hiện ḥa
giải và ḥa hợp dân tộc, bảo đảm
tự do dân chủ. Hội đồng Quốc gia ḥa
hợp và ḥa giải dân tộc sẽ tổ chức
tổng tuyển cử tự do và dân chủ như
đă nói trong Điều 9b và qui định thủ
tục và thể thức của cuộc tổng
tuyển cử này. Các cơ quan quyền lực mà
cuộc tổng tuyển cử đó sẽ bầu ra
sẽ do hai bên MNVN thông qua hiệp thương mà
thỏa thuận. Hội đồng Quốc gia…cũng
sẽ qui định thủ tục và thể thức
tuyển cử địa phương theo như hai bên
MNVN thỏa thuận. -Điều
13: Vấn đề lực lượng vũ trang MNVN
sẽ do hai bên MNVN giải quyết trên tinh thần ḥa
giải và ḥa hợp dân tộc, b́nh đẳng và tôn
trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước
ngoài, phù hợp với t́nh h́nh sau chiến tranh. Trong
số những vấn đề hai bên MNVN thảo
luận có các biện pháp giảm quân số của
họ và phục viên số quân đă giảm. Hai bên
MNVN sẽ hoàn thành việc đó càng sớm càng
tốt. -Điều
14: MNVN sẽ thực hiện chính sách ngoại giao ḥa b́nh
độc lập. MNVN sẳn sàng thiết lập quan
hệ với tất cả các nước không phân
biệt chế độ chính trị và xă hội trên
cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền của nhau và nhận viện trợ kinh
tế, kỹ thuật của bất cứ nước
nào không kèm theo điều kiện chính trị. Vấn
đề nhận viện trợ quân sự sau này cho
MNVN sẽ thuộc thẩm quyền của chính phủ
được thành lập sau tổng tuyển cử
ở MNVN nói trong Điều 9b. -Điều
15: Việc thống nhất nước VN sẽ
được thực hiện từng bước
bằng phương pháp ḥa b́nh trên cơ sở bàn
bạc và thỏa thuận giữa miền Bắc và Nam
VN, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và
không có sực can thiệp của nước ngoài.
Thời gian thống nhất sẽ do miền Bắc và
Nam VN thỏa thuận. Trong chờ đợi thống
nhất: (a) Giới tuyến quân sự tại vĩ
tuyến 17 chỉ là tạm thời và không phải là
một ranh giới về chính trị hoặc lănh
thổ, như qui định trong đoạn 6 của
Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève
1954. (b) Miền Bắc và miền Nam VN sẽ tôn
trọng khu phi quân sự ở hai biên giới khu phi quân
sự tạm thời. (c) Miền Bắc và miền Nam
VN sẽ sớm bắt đầu thương lượng
nhằm lập lại quan hệ b́nh thường
về nhiều mặt. (d) Miền Bắc và miền Nam
VN sẽ không tham gia bất cứ liên minh quân sự
hoặc khối quân sự nào và không phép nước
ngoài có căn cứ quân sự, quân đội, cố
vấn quân sự và nhân viên quân sự trên đất
ḿnh, như HĐ Genève năm 1954 về VN. Ngày
28/2/1973 Hội nghị Quốc tế về VN được
triệu tập tại Paris gồm 5 nước thành viên
thường trực HĐBA, 4 nước thuộc
Ủy hội Quốc tế kiểm soát và giám sát
việc ngưng bắn và 4 bên trong cuộc chiến VN.
Sau 3 ngày thảo luận, bộ trưởng 12 nước
tham gia hội nghị đă long trọng kư Bản Định
ước của hội nghị quốc tế về
VN trước sự chứng kiến của ông TTK/LHQ
Kurt Waldhém. Bản văn gồm 9 điều. Các bên kư
kết Định ước tuyên bố tán thành và
ủng hộ hiệp định Paris và việc
chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh
ở VN. Ngày
29/3/1973 tại Bộ Tư lịnh MAC-V ở Tân Sơn
Nhứt, 42 quân nhân HK đại diện 4 binh chủng làm
lễ cuốn cờ. Buổi chiều cùng ngày,
những quân nhân Mỹ cuối cùng lên phi cơ rời
VN trước sự chứng kiến của Ủy
hội Quốc tế kiểm soát và giám sát ngưng
bắn và đại diện Quân đội NDVN. Vai tṛ
quân sự của HK coi như đă chấm dứt. Ngay
từ những ngày đầu của cuộc ngưng
bắn tại chỗ, hai bên MNVN đều không giữ
đúng những cam kết qui định trong điều
10 của hiệp định. Hai bên vẫn tiếp
tục những hành động lấn chiếm và
mở rộng ảnh hưởng tại nhiều khu
vực, tạo ra t́nh thế “phi chiến phi ḥa”.
Trong khi đó tại hội nghị La Celle Saint Cloud,
cuộc thương thảo giữa VNCH và Cộng ḥa
MNVN để sớm kư kết một thỏa hiệp
về những vấn đề nội bộ của MN
cũng không tiến triển tốt đẹp. Chính
phủ VNCH vẫn khăng khăng đ̣i CSBV phải rút
quân về Bắc và nhất định không liên
hiệp với chính phủ lâm thời Cộng ḥa MNVN.
TT Thiệu đề nghị tổ chức một
cuộc tổng tuyển cử trong ṿng hai hoặc ba tháng
sau khi khi quân BV rút khỏi MN, để nhân dân MN
bầu tổng thống và Hội đồng Quốc
gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc. Tổng
thống và Hội đồng sẽ quyết định
thể chế cho MNVN. Chính phủ CHMNVN bác bỏ đề
nghị này, họ không chịu thảo luận
những vấn đề nào không được ghi
trong văn bản kư kết. Họ đ̣i VNCH
thả tất cả những người cộng
sản c̣n bị giam giữ và hai bên chọn người
tham gia Hội đồng Quốc gia ḥa giải ḥa hơp
dân tộc, chớ không bầu. Sau đó Hội đồng
đứng ra tổ chức bầu cử Quốc
hội Lập hiến, và Quốc hội này sẽ
soạn thảo Hiến pháp cho MNVN. Đề nghị
của MTGP bị VNCH bác bỏ v́ TT Thiệu không
chấp nhận thành phần thứ ba. Về
phần HK, trong tuần lễ đầu sau khi hiệp
định ḥa b́nh được kư kết, để
thực hiện điều 21 giúp BV hàn gắn vết
thương chiến tranh, TT Nixon đă chuyển đến
TT Phạm Văm Đồng hai bức thư đề
nghị thành lập Ủy ban hỗn hợp kinh tế và
đóng góp vào chương tŕnh tái thiết nước
VNDCCH với số tiền 3250 triệu đô la trong
thời gian 5 năm. Ngoài ngân khoản trên, chính
quyền Nixon c̣n dự trù viện trợ thêm cho Hà
Nội từ 1 tỷ đến 1,5 tỷ đô la
thực phẩm và những nhu cầu khác. Hà
Nội đă làm ngơ trước đề nghị này,
họ chỉ chú tâm vào việc gởi người và
vũ khí vào MN. Trung b́nh mỗi ngày có trên 800 xe vận
tăi quân sự di chuyển an toàn về hướng Nam
trên đường ṃn HCM, mà không c̣n sợ bị phi
cơ Mỹ oanh tạc. Những không ảnh do SĐ 7
Không quân Mỹ trú đóng ở Nakorn Phanom (Thái Lan)
chụp được cho thấy BVđang tăng cường
xâm nhập, chuẩn bị mở những trận đánh
lớn ở MNVN. Những sự kiện này được
tướng Vogt tư lịnh SĐ7 KQ Mỹ tŕnh báo
bằng công điện khẩn về Hoa Thạnh Đốn.
TT Nixon đă gởi nhiều khuyến cáo lưu ư BV vi
phạm hiệp định và đ̣i Hà Nội phải
đ́nh chỉ ngay việc vận chuyển chiến
cụ vào MN. Ông đe dọa “hậu quả sẽ vô
cùng trầm trọng” nếu Hà Nội cứ tiếp
tục những hành động quân sự ấy. Tuy
biết rơ ư đồ của BV quyết tâm thôn tính MN
dù có hiệp định Paris, song Nixon vẫn khuyên TT
Thiệu thi hành hiệp định , thành lập
Hội đồng Quốc gia ḥa giải ḥa hợp dân
tộc nhân dịp TT Thiệu đến thăm HK
hồi tháng 4/1973. Để
chứng tỏ quyết tâm của HK sẽ thi hành nghiêm
chỉnh hiệp định, cuối tháng 2/1973 Kissinger
đến Hà Nội gặp Lê Đức Thọ để
thảo luận việc thực hiện HĐ Paris. Ông yêu
cầu BV rút quân khỏi Lào và Cam Bốt, đồng
thời thảo luận với Thọ việc HK
viện trợ kinh tế giúp VNDCCH hàn gắn vết thương
chiến tranh. Trong hồi kư, Kissinger tiết lộ
mục đích chuyến đi BV của ông là để
nhắc nhở giới lănh đạo Hà Nội
phải chọn lấy một trong hai con đường:
Một là thi hành nghiêm chỉnh hiệp định
để nhận viện trợ. Hai là không thi hành
hiệp định, khước từ sự viện
trợ của Mỹ. Ba tháng
sau, từ ngày 17/5 đến 13/6/1973, theo đề
nghị của HK, Kissinger và Lê Đức Thọ
trở lại bàn họp ở Paris để t́m cách
cải thiện việc thi hành HĐ Paris. Trong thời
gian này TT Nixon đă gởi nhiều thư khuyến cáo
TT Thiệu không nên vi phạm những thỏa ước
đă kư và phàn nàn thái độ cứng rắn
của phái đoàn VNCH ở hội nghị La Celle Saint
Cloud. Dù cả hai bên MNVN đều vi phạm hiệp
định, nhưng Nixon chỉ yêu cầu VNCH nghiêm
chỉnh thi hành. Ông muốn TT Thiệu cũng bày
tỏ ư định như Mỹ sẽ thi hành nghiêm
chỉnh hiệp định. Như thế nếu BV vi
phạm Mỹ mới có lư do để có những hành
động quyết liệt như Nixon nhiều lần
cam kết với Thiệu. Quốc hội Mỹ do đảng
Dân chủ nắm đa số không có cảm t́nh
với TT Nguyễn Văn Thiệu. Cuối tháng 8/1968, ông
Thiệu đă khước từ gởi phái đoàn
VNCH sang Paris tham dự hội nghị bốn bên theo yêu
cầu của TT Jonhson. Hành động này làm cho kế
hoạch ḥa b́nh của Đảng Dân chủ thất
bại, ứng cử viên đảng DC, Phó TT Humphrey
thất cử. Từ đó các lănh tụ Đảng
DC trong Quốc hội Mỹ không bao giờ tiếp xúc
với Đại sứ VNCH ở Hoa Thạnh Đốn.
Nay TT Thiệu lại phá hoại kế hoạch ḥa b́nh
của Đảng Cộng ḥa, nên Nixon khó có thể
vận động lưỡng đảng ủng
hộ, trừng phạt BV trong khi VNCH cũng vi phạm
thỏa hiệp. Để
thuyết phục VNCH đến Paris ủng hộ
bản Tuyên cáo chung Mỹ/Bắc Việt trong đó xác
định quyết tâm của hai bên sẽ thi hành nghiêm
chỉnh hiệp định. Ngày 21/5/1973 Nixon cử
Thứ trưởng Ngoại trương William Sullivan
sang Sài G̣n mang theo bức thư gởi Thiệu “Tôi
xin lập lại rằng ước mơ duy nhất
của chúng tôi là muốn thấy bản hiệp định
được thi hành nghiêm chỉnh và thắt chặt
t́nh liên đới với VNCH. Tôi không tin rằng Ngài
muốn tôi phải ra trước dân chúng HK để
giải thích sự bế tắc của cuộc thương
thuyết hiện nay ở Paris. Điều này chắc
chắn sẽ đưa tới sự cắt đứt
ngân khoản viện trợ cho Lào và Cam Bốt và
cuối cùng là VNCH”. Lần này
sự chống đối của Thiệu c̣n mănh
liệt hơn hồi đầu năm 1973 khi HĐ Paris
chưa kư. Trong 3 tuần lễ từ cuối tháng 5
đến đầu tháng 6/1973 Nixon đă gởi cho
Thiệu 9 lá thư. Lúc đầu Nixon c̣n dùng lời
lẽ nhẹ nhàng để khuyến dụ Thiệu:
“Bản tuyên cáo đó không có điều khoản
nào đi ngược lại nguyện vọng của chính
phủ VNCH. Một bản tuyên cáo có chữ kư của
đại diện VNCH bên cạnh chữ kư của
tiến sĩ Kissinger sẽ giúp ích tôi vô cùng. Chúng tôi
cần một cử chỉ như vậy để
Quốc hội thông qua những chương tŕnh tái
lập ḥa b́nh và ổn định t́nh thế như
chúng ta đă bàn ở San Clemente”. Nhưng trước
sự cứng rắn của VNCH qua lời phát ngôn viên
chính phủ: “VNCH sẽ không nhượng bộ
một ly nào nữa”. Nixon bắt đầu dọa
ngưng viện trợ cho đến khi nào VNCH chịu
kư. Thiệu phản ứng trong lá thư gởi Nixon ngày
12/6/1973, ông phàn nàn Kissinger điều đ́nh để
chia hai MNVN ra thành “hai lănh thổ dưới hai chính
phủ”. Ông Thiệu nhắc lại trong thư
đề ngày 17/1/1973 Nixon đă cam kết là chỉ công
nhận chính phủ VNCH là chính phủ duy nhất
hợp pháp tại MNVN, hàm ư sự bất tín, tráo
trở của Nixon. Nixon
hồi đáp ngay trong lá thư gởi Thiệu đề
ngày 13/6/1973. Đây là lá thư cuối cùng của Nixon
trong gần 30 bức thư và điện tín gởi
Thiệu, lời lẽ cay đắng, chua chát: “Kính
thưa Tổng thống, Lá
thư của Ngài đề ngày 12 tháng 6 là một
đ̣n giáng mạnh vào t́nh bằng hữu, sự tương
kính và quyền lợi chung của hai chúng ta. Căn
cứ vào những hy sinh và rủi ro của HK phải gánh
chịu v́ Ngài, tôi không ngờ Ngài có thể trả
lời một cách tiêu cực như vậy. Tôi
chẳng cần dấu diếm sự căng thẳng
trong mối bang giao giữa chúng ta v́ Ngài đă hoàn toàn
phủ nhận những cam kết của tôi trong
việc kư kết bản Tuyên cáo này.…Nếu
Ngài tiếp tục từ chối th́ coi như Ngài
từ khước toàn bộ chính sách của tôi
vẫn hằng ủng hộ Ngài, quư chính phủ và quư
quốc. Nếu Ngài chọn lựa đường
lối tiêu cực này, th́ chính Ngài đă vạch ra chính
sách tương lai của HK đối với VN. Tôi
sẽ bắt buộc chiều ư Quốc hội và công
luận HK chỉ viện trợ vừa đủ
những nhu cầu có tính cách nhân đạo cho nhân dân
MNVN và bỏ qua những quyết định và
nhiệmvụ khó khăn để viện trợ kinh
tế và quân sự cho VNCH như chúng ta đă thảo
luận ở San Clémente. Chẳng cần phải nói dông
dài, nổ lực của chúng tôi trên toàn cỏi Đông
Dương sẽ chấm dứt. Đây không c̣n là
vấn đề của người đi thương
thuyết hay của luật sư và chuyên viên. Đây là
vấn đề giữa tôi và Ngài. Sựa chọn là
do Ngài. Xin Ngài hiểu cho rằng tôi sẽ coi
tất cả những hành động của Ngài
tỉ như đề nghị giải thích, sửa
đổi bản văn này nọ, tŕ hoăn, hay những
xoay sở khác của Ngài là một quyết định
của Ngài cố t́nh chấm dứt mối bang giao
hiện hữu giữa hai chính phủ Hoa Kỳ và
VNCH”. Trân trọng (kư tên) Richard M. Nixon Nixon
đă áp lực được Thiệu gởi phái
đoàn VNCH sang Paris. Bản Tuyên cáo chung Lê Đức
Thọ và Kissinger đă được đại
diện bốn bên kư kết tại Paris ngày 13/6/1973
gồm 14 điều khoản mà Mỹ và Bắc
Việt đă thỏa thuận để thi hành đúng
đắn 21 điều khoản của HĐ Paris.
Sở dĩ ông Thiệu luôn có thái độ quyết
liệt, v́ nghĩ rằng Nixon mang một món “nợ
chính trị” đối với ông. Trong cuộc
vận động bầu cử tổng thống Mỹ
hồi năm 1968. Bà Anna Chennault đă tiếp xúc
với Đại sứ Bùi Diễm, làm trung gian
chuyển đến Sài G̣n lời yêu cầu của
đảng Cộng ḥa khuyến cáo VNCH từ chối
tham gia đàm phán ở Paris. Do đó kế hoạch ḥa
b́nh của đảng DC thất bại, Richard Nixon
thắng cử. Từ đó, ông Thiệu mang trong đầu
ư nghĩ: Nixon nợ ông một món nợ chính trị,
Nixon phải đáp ứng những đ̣i hỏi
của ông. Nay mối thân t́nh giữa Nixon và
Thiệu đă găy đổ, mối bang giao VNCH và HK cũng
sẽ chấm dứt. Buổi hoàng hôn của Miền
Tự do đă bắt đầu. Từ
giữa năm 1973, tin tức t́nh báo và không ảnh cho
thấy BV đang tăng cường lực lượng
ở dọc hành lang biên giới ba nước Đông
Dương. Hà Nội cũng vừa hoàn thành hệ
thống dẫn dầu chạy dọc theo đường
ṃn HCM kéo dài đến gần Lộc Ninh để
tiếp tế cho chiến xa và xe vận tăi để
chuyển quân tham chiến. Trước những bằng
chứng đó, thái độ của Thiệu càng thêm
quyết liệt. Ông cho thành lập hàng chục
tiểu đoàn BĐQ biên pḥng để ngăn
chận sự xâm nhập của CS. Đồng thời
ra lịnh quân đội mở nhiều cuộc hành quân
chống các hoạt động lấn đất giành
dân của CS với chỉ thị “Chúng dùng súng
ngắn ta dùng súng dài, chúng dùng súng dài, ta dùng đại
liên, chúng dùng đại bác ta dùng phi cơ dội bom lên
đầu chúng”. Để
trả đũa, ngày 15/10/1973 Bộ Chỉ Huy Cộng
quân MNVN tức Cục R, chấp hành Chỉ thị 21
của TƯ Đảng ở Hà Nội, ra lịnh cho các
lực lượng vũ trang phản công khắp nơi,
đồng thời tăng cường pháo kích vào Sài
G̣n. Trong khi QLVNCH cần hỏa lực để
giải tỏa áp lực Cộng quân th́ Pḥng Tùy viên
Quân lực Mỹ tại VN (DAO) nhận được
công điện của Ngũ Giác Đại cho biết
Quốc hội sẽ cắt giảm nhiều viện
trợ cho Đông Dương trong 6 tháng c̣n lại
của tài khóa 1974. Trước đó, ngày 15/11/1973
Hạ Viện đă ấn định mức viện
trợ quân sự tối đa cho VNCH là 1126 triệu
đô la so với tài khóa trước là 2270 triệu.
Nhưng khi chung quyết, Quốc hội lại cắt
giảm thêm chỉ c̣n 900 triệu đô la. Trong khi
đó, Quốc hội Mỹ bác bỏ sự phủ
quyết của Nixon, thông qua Đạo luật về
Quyền Chiến tranh vào ngày 7/11/1973: “Cấm
tổng thống Hoa Kỳ đưa Quân lực Mỹ
đi chiến đấu ở nước ngoài hơn
60 ngày, nếu không được Quốc hội cho phép”.
Thượng nghị sĩ Franck Church c̣n giải thích rơ
“Oanh tạc trở lại hay lấy bất cứ hành
động gây chiến nào khác tại Đông Dương
mà không được sự chấp thuận trước
của Quốc hội sẽ là vi phạm luật pháp và
tạo ra một hoàn cảnh có thể đưa
tới sự truy tố”. Đạo luật này,
theo Nixon và Ford “đă đóng góp vào sự sụp
đổ của các quốc gia được HK
yểm trợ trên bán đảo Đông Dương”. Trước
t́nh thế bất lợi đó, chính quyền Nixon
vẫn c̣n cố gắng giải quyết vấn đề
VN bằng con đường ḥa b́nh. Ngày 20/2/1974 Kissinger lại sang Paris
gặp gỡ Lê Đức Thọ. Trong cuộc mật
đàmlần này có sự hiện diện của Đại
sứ Mỹ ở Sài G̣n, Kissinger yêu cầu Hà Nội
hợp tác với Mỹ để thúc đẩy hai bên
MNVN ngồi lại với nhau. Ông đề nghị bước
đầu VC hăy ngưng bắn ở Vùng 3 và 4, VNCH
sẽ công nhận ranh giới VC kiểm soát ở Vùng
1 và 2. Hai vùng này, VC kiểm soát được
nhiều đất th́ sẽ nhường cho VC chỉ
trừ Huế và Đà Nẵng. Sau đó HK sẽ áp
lực chính quyền Sài G̣n thành lập Hội đồng
Quốc gia Ḥa giải hoà hợp dân tộc để
tổ chức tổng tuyển cử. Trở lại Sài G̣n, Đs Martin thúc
hối Thiệu thành lập Hội đồng Quốc
gia ḥa giải ḥa họp dân tộc và thừa nhận
việc phân chia lănh thổ mà Kissinger đă đề
nghị với Lê Đức Thọ. Ngoài ra, được
sự đồng ư của Ṭa Bạch Ốc, Martin
nhờ Đại sứ Ba Lan trong Ủy ban Quốc
tế kiểm soát và giám sát việc ngưng bắn
chuyển đến Hà Nội một điệp văn,
kêu gọi giới lănh đạo BV hưởng ứng
đề nghị của Kissinger để chấm
dứt cuộc chiến ở MNVN. Martin cũng đánh
điện về Hoa Thạnh Đốn tŕnh bày nhu
cầu và sự hợp lư của việc cắt đất
nhường cho VC, khi tiền viện trợ đă
bị cắt. Ngày 6/5/1974 Thượng viện Mỹ
bỏ phiếu chấp nhận Tu chính án Kennedy và
dự luật phủ định ngân sách quốc pḥng.
Tu chính án này cấm xử dụng ngân khoản để
chi dùng cho các quốc gia Đông Dương. TNS Edward
Kennedy, người lănh đạo phong trào cắt
viện trợ cho VN đă quan niệm “Nếu không
đặt trọng tâm vào việc thi hành những
mục tiêu chính trị của thỏa ước ngưng
bắn (thành lập Hội đồng Quốc gia ḥa
giải và ḥa hợp dân tộc, tổ chức tổng
tuyển cử) th́ mục đích của những món
tiền chi tiêu khổng lồ ở VN không phải là
để cứu nạn nhân chiến tranh hay kiến
thiết xứ sở mà cho chính phủ Thiệu kéo dài
chiến tranh”. Trước t́nh thế đó, những
người đối lập không cộng sản suy
luận sở dĩ HK cắt giảm viện trợ là
nhằm áp lực Thiệu phải thỏa hiệp
với CS. Một số linh mục gởi kiến
nghị yêu cầu Thiệu chấm dứt nạn tham nhũng,
thành lập chính phủ mới gồm những nhân
vật trong sạch có thiện chí để kiện toàn
MN đấu tranh chính trị với CS. Với xu hướng
mới của Vatican, người Thiên chúa giáo ở MN
không c̣n ủng hộ chính sách chống Cộng
quyết liệt của Thiệu mà nghiêng về một
giải pháp thỏa hiệp với CS. Họ khuyến
khích những linh mục thiên tả hợp tác chặt
chẽ với Dương Văn Minh -tự nhận là
thành phần thứ ba được khối Phật giáo
Ấn Quang ủng hộ mạnh mẽ. Thiệu vẫn tin tưởng HK không
bao giờ bỏ rơi MNVN -tiền đồn của
Thế giới Tự do. Ông nghĩ rằng hơn 55 ngàn
binh sĩ Mỹ đă chết, hàng trăm tỷ đô
la đă đổ vào cuộc chiến này. Ngoài ra căn
cứ Cam Ranh mà Mỹ tốn kém trên 2 tỷ đô la
để xây dựng các cơ sở hải và không quân
tân tiến, được coi như mơ neo chiến lược
gh́m chặt HK với VNCH. Đối với nhân dân VN,
Thiệu nghĩ rằng họ thà chấp nhận
sự độc tài của ông c̣n hơn là chịu
sống dưới chế độ CS. Từ đó ông
bám chặt quyền lực, tu chính Hiến pháp kéo dài
nhiệm kỳ tổng thống và tái ứng cử
nhiệm kỳ 3 kể từ tháng 10/1975. Đồng
thời tập trung vào trong tay mọi quyền lực,
hạn chế những quyền tự do căn bản
được ghi trong Hiến pháp và Điều 11
của HĐ Paris 1973. Ngày 10/8/1974 sau khi Nixon từ nhiệm v́
vụ Watergate, Quốc hội Mỹ lại cắt
giảm quân viện tài khóa 1975 cho VNCH chỉ c̣n 700
triệu thay v́ 1 tỷ như Nixon đă kư 4 ngày trước
Theo dơi t́nh h́nh lúc bấy giờ, nhiều người
đă thấy rơ “c̣n Thiệu sẽ mất nước”.
Tại Quốc hội Mỹ, các TNS kêu gọi VNCH
phải thích nghi với Việt Cộng, Adlai Stevenson c̣n
nói rơ hơn là “Thiệu phải từ chức và
sau đó nếu BV gây hấn th́ HK sẽ can
thiệp”. V́ sự sống c̣n của MN, “Phong
trào nhân dân chống tham nhũng” do nhóm Linh mục
Trần Hữu Thanh chủ trương được
phát triển rầm rộ từ tháng 9/1974. Phong trào
vận động trưng cầu dân ư bất tín
nhiệm Thiệu. Song song với phong trào chống tham nhũng
là việc thành lập “Lực lượng ḥa
giải dân tộc” bao gồm các chính khách
thuộc khối Phật giáo Ấn Quang do Gs Vũ Văn
Mẫu cầm đầu được sư ủng
hộ của Dương Văn Minh (thành phần
thứ ba) và một số nhân sĩ công giáo và linh
mục thiên tả. Bản cáo trạng số 1 của Phong
trào nhân dân chống tham nhũng cho rằng “chiến
tranh hiện nay đang tiếp tục giết hại quân
dân ta là tại ḷng tham của ông Nguyễn Văn
Thiệu đă coi ngôi vị tổng thống của ông
nặng hơn vận mạng dân tộc. Đây là
thứ tham nhũng tệ hại hơn hết v́ là tham
nhũng trên sự sống c̣n của dân tộc hay nói
đúng hơn là sự phản bội dân tộc”.
Đầu tháng 2/1975, Phong trào nhân dân chống tham nhũng
lại công bố bản cáo trạng số 2 tố cáo
Thiệu nhiều tội trạng trong đó có tội
cấu kết với CIA bán MN cho CS và Mỹ. Ngoài ra các đảng phái, tôn giáo c̣n
thành lập “Trận tuyến nhân dân cách mạng
tranh thủ ḥa b́nh” gồm nhiều nhân vật tên
tuổi của Phật giáo, Công giáo, Ḥa
Hảo…Mặt trận lên tiếng yêu cầu Thiệu
và các phe phái liên hệ chấm dứt chiến tranh,
giải quyết vấn đề bằng con đường
ḥa b́nh. Riêng Cao Đài, do đường lối trung
lập mà Hộ Pháp Phạm Công Tắc đề ra sau
HĐ Genève 1954, nên muốn đứng ngoài cuộc
tranh chấp Quốc Cộng. Họ yêu cầu các phe liên
hệ tôn trọng HĐ Paris và tuyên bố biến khu
vực Toà thánh Tây Ninh thành khu phi chiến, để dân
tị nạn chiến tranh tạm trú được yên
ổn. Thượng tọa Thích Tâm Châu
thuộc khối Việt Nam Quốc Tự từ trước
nay vẫn ủng hộ chính phủ, nay cũng lên
tiếng yêu cầu Thiệu hăy v́ quyền lợi
quốc gia mà từ chức. Đó cũng là yêu
cầu của Tổng Giám mục Nguyễn Văn B́nh.
Thượng nghị viện từ trước đến
nay vẫn ủng hộ Thiệu cũng biểu
quyết một quyết nghị lên án TT Thiệu
lạm quyền, tham nhũng, bất công. Thượng
Viện yêu cầu Thiệu từ chức và phải
chịu trách nhiệm về sự thất bại khi ông
chỉ nghĩ đến những biện pháp quân
sự để giải quyết một cuộc
chiến tranh nặng về chính trị. Riêng Ḥa
Hảo, một lực lượng chống Cộng mănh
liệt ở miền Tây Nam Phần, đă ư thức
được sự mất nước nên yêu cầu
Thiệu trang bị vũ trang cho lực lượng
Tổng đoàn Bảo an của họ. Không những không
giúp, Thiệu c̣n ra lịnh cảnh sát tới giải tán,
bắt giữ hơn 4 ngàn người, tịch thu
gần 1000 vũ khí. Lợi dụng bất ổn ở Sài G̣n,
Cộng quân mở một loạt các trận tấn công
có tính cách thăm ḍ chiến luợc trên QL 14, cắt
đứt con đường duy nhất nối liền
tỉnh lỵ Phước Long với BTL/SĐ 5 BB ở
Lai Khê. Sau đó Bộ chỉ huy R huy động 2 sư
đoàn bộ binh, nhiều tiểu đoàn đặc công
được chiến xa và 2 trung đoàn pháo và
pḥng không yểm trợ, đánh chiếm tỉnh
lỵ Phước Long. Mục đích trận này là
để đo lường phản ứng của VNCH và
HK. Đây là lần đầu tiên, nguyên một
tỉnh lọt vào tay CS, TT Thiệu không ra lịnh tái
chiếm v́ thiếu quân trừ bị và phi cơ.
Mặt khác ông muốn thử xem HK phản ứng như
thế nào khi Hà Nội vi phạm hiệp định
một cách trắng trợn nhất. Song TT Gerald Ford
vẫn không có một phản ứng nào, B.52 vẫn không
cất cánh để trả đũa nhự sự e
ngại của Hà Nội. Ford chỉ yêu cầu Quốc
hội khẩn cấp quân viện 300 triệu đô la
cho VNCH. Tỉnh Phước Long lọt vào tay CS
trong khi Bộ Chính trị CS ở Hà Nội mở phiên
họp mở rộng để thông qua kế hoạch
tác chiến cho hai năm 1975 và 1976. Kế hoạch
tiết lộ “Năm 1975 tranh thủ bất ngờ,
tạo điều kiện để năm 1976 tiến
tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa,
giải phóng hoàn toàn MNVN”. Cuối tháng 2/1975
một phái đoàn lưỡng viện Quốc hội
Mỹ được gởi sang Nam VN để
duyệt xét lời yêu cầu của TT Ford xin quân
viện bổ túc cho VNCH. Sau khi thăm các tỉnh, phái
đoàn trở về họp với TT Thiệu để
kiểm điểm t́nh h́nh. Tiến sĩ Nguyễn
Tiến Hưng viết trong quyển Hồ sơ Mật
Dinh Độc Lập, mô tả buổi họp “đă
biến thành một cuộc tra vấn hằn học”.
Các dân biểu, nghị sĩ Mỹ gay gắt hỏi
Thiệu “Ông muốn quân viện măi sao, chừng bao
lâu nữa?” Ai cũng hỏi “Tại sao VNCH vi
phạm ngưng bắn?” Bộ Chính trị đảng CS tin
rằng Quốc hội Mỹ thực sự bỏ rơi
VNCH nên quyết định mở cuộc tổng
tấn công mùa Xuân 1975, trái với dự định
sẽ đánh lớn để dứt điểm MN
trong năm 1976 là năm có cuộc bầu cử
tổng thống ở Mỹ. Lê Duẩn nhận xét “Ngoài
thời cơ này, không có thời cơ nào khác. Nếu
mười, mười lăm năm sau bọn Ngụy
gượng dậy lại được, các thế
lực xâm lược được phục hồi,
bọn bành trướng mạnh lên th́ t́nh h́nh sẽ
phức tạp vô cùng”. Chỉ hơn một tuần sau khi phái
đoàn Quốc hội Mỹ về nước, vào 2
giờ sáng ngày 10/3/1975 Cộng quân tấn công Ban Mê
Thuộc, mở đầu chiến dịch Tây nguyên.
Theo ư đồ của Bộ Chính trị, từ Ban Mê
Thuộc, Cộng quân sẽ tiến thẳng xuống vùng
duyên hải Phú Yên, chia hai MN, giành nửa lănh thổ phía
Bắc. Ngày 13/3 TT Thiệu triệu Trung tướng Ngô
Quang Trưởng Tư lịnh QĐ I về Sài G̣n,
bảo phải rút lực lượng TQLC và ND ra
khỏi Vùng I ngay hôm nay. TT Thiệu lấy viết
vạch một đường từ Ban Mê Thuộc
xuống Tuy Ḥa và nói đó là ranh giới của
miền Nam. TT Thiệu c̣n căn dặn tướng Trưởng
phải giữ kín không tiết lộ cho các tư
lịnh sư đoàn, các tỉnh trưởng cũng
như hải quân và không quân biết việc bỏ
miền Trung”. Hôm sau, TT Thiệu bay ra Cam Ranh gặp
tướng Phạm Văn Phú Tư lịnh QĐ II.
Với sự hiện diện của 3 cố vấn quân
sự thân cận là Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên và
Trung tướng Đặng Văn Quang, ông Thiệu cho
biết QLVNCH không c̣n khả năng bảo vệ toàn
thể lănh thổ, phải rút về những vùng trù
phú, gom lực lượng về cố thủ vùng duyên
hải đồng bằng. Ông chỉ thị tướng
Phú thực hiện kế hoạch di tản lực lượng
khỏi Cao nguyên. Trong quyển Tâm Tư Tổng Thống
Thiệu, tác giả TS Nguyễn Tiến Hưng tiết
lộ: đầu tháng 1 năm1975, tướng Ted Serong
(cựu thiếu tướng Úc, sau làm cố vấn
ở Ngũ Giác Đài) họp với TT Khiêm tại tư
thất tướng Khiêm tại Bến Bạch Đằng,
người liên lạc là Ngô Khắc Tỉnh, cậu
ruột TT Thiệu. Sau khi tŕnh bày về t́nh h́nh
chiến trường khó khăn trước việc HK
cắt giảm viện trợ, Serong kết luận:
“Phải bỏ Quân Đoàn I ngay bây giờ”. TT Khiêm
đáp lại “Tôi đồng ư, vậy ông có thể
nói thẳng với TT Thiệu được không?
Serong đồng ư và ngày hôm sau TT Thiệu đă có trên
bàn một đề nghị với tựa đề
“Đă tới lúc mổ xẻ”. VNCH phải thực
hiện kế hoạch này (rút bỏ QĐ I) nội
trong hai tuần mà hạn chót là giữa tháng 2/1975. Đầu tháng 3, ông Ngô Khắc
Tỉnh đến thăm Serong với tư cách người
trung gian của TT Thiệu để hỏi ư kiến.
Serong trả lời “Xin ông nói với tổng
thống là cuộc chiến đă kết thúc rồi. Nó
đă kết thúc từ ba tuần nay” (Tell him the war is
over. It hs been over for three weeks) Và chỉ “48 giờ
sau, Sư đoàn 320 BV đă chọc thủng pḥng
tuyến Ban Mê Thuộc”. Về việc TT Thiệu ra
lịnh rút quân, Serong b́nh luận: “Chẳng có
kế hoạch. Chẳng chuẩn bị. Chẳng có ǵ
cả. Chỉ bỏ tầu” (No plan. No preparations.
Nothing. Just abandon ship) Ngày 30/3/1975 Chính phủ VNCH hoàn toàn
mất quyền kiểm soát ở Vùng 1 và 2. Năm sư
đoàn bộ binh, một số đơn vị không
quân và hải quân và toàn bộ lực lượng
địa phương quân và nghĩa quân và nhiều
đơn vị tổng trừ bị tổng cộng
270 ngàn quân đă tan ră. Một tỉ đô la vũ khí
đạn được, 5 thành phố và 16 tỉnh
lọt vào tay CS chỉ trong ṿng nửa tháng v́ việc
rút quân vô kế hoạch của TT Thiệu. Với
thắng lợi này, Bộ Chính trị CS quyết định
mở tiếp chiến dịch HCM “giải phóng Sài G̣n”. Ngày 14/4/1975 Ủy ban Ngoại giao Thượng
viện đă yêu cầu gặp TT Ford để
thảo luận t́nh h́nh ĐNÁ. Trước sự
hiện diện của Ngoại trưởng Kissinger và
Cố vấn ANQG Scowcroft, các nghị sĩ đă nói
với Ford: “Chúng tôi chấp nhận một ngân
khoản lớn để di tản, nhưng viện
trợ quân sự th́ một cắt cũng không”.
Ba ngày sau Ủy ban Quốc pḥng Thượng viện bác
bỏ việc tăng quân viện cho VNCH, đồng
thời Ủy ban Quốc tế chấp nhận dự
luật cho quyền tổng thống Ford xử dụng
Quân đội HK để di tản người Mỹ
ra khỏi VN. Chiều 21/4/1975 Thiệu từ chức.
Phó TT Hương đă khóc khi đón nhận bàn giao v́
t́nh h́nh lúc bấy giờ không c̣n cách nào hơn là
phải thương thuyết với CS. Ông gởi điện
sang Paris gọi Nguyễn Xuân Phong Trưởng đoàn
VNCH tại hội nghi hai bên ở La Celle Saint Cloud về
nước. Ông Hương yêu cầu Thiệu nên
sớm rời khỏi VN để công việc ḥa
giải của ông được dễ dàng. Do gợi
ư của Thiệu, ông Hương kư sắc lịnh
cử Thiệu đi Đài Bắc để dự tang
lể cố tổng thống Tưởng Giới
Thạch. Một chuyến bay đặc biệt từ
Thái Lan đến Sài G̣n chiều ngày 25/4/1975 để
đưa Thiệu, Khiêm và đoàn tùy tùng đi Đài
Loan. Trùm CIA ở Sài G̣n Thomas Polgar, tướng Charles
Times và Đại sứ Martin đă hộ tống
Thiệu an toàn ra phi trường. Sau khi nhậm chức, TT Hương
mời Dương Văn Minh thành lập nội các
để thương thuyết với CS. Nhưng ông
Minh yêu cầu được trao trọn quyền
tổng thống, ông sẽ thành lập ngay nội các ḥa
giải, kêu gọi CS ngưng bắn, thành lập
Hội đồng Quốc gia ḥa giải ḥa hợp dân
tộc gồm ba thành phần. Thu xếp với DVM không
xong, ông Hương tự ḿnh lo việc điều
đ́nh với CS. Chiều ngày 24/4/1975 ông chỉ
thị QVK Nguyễn Xuân Phong soạn thảo đề
nghị ngưng bắn gồm 3 điểm bằng Pháp
văn để NXP và Đại sứ Pháp Merillon mang
đi Hà Nội thảo luận. Ba đề nghị
đó là: * Thảo luận một cuộc ngưng
bắn tại chỗ. * Mời đại diện Chính
phủ Cách mạng Lâm thời CHMNVN vào Sài G̣n thành lâp
chính phủ liên hiệp. *Thành lập ngay Hội đồng
uốc gia ḥa giải ḥa hợp dân tộc để
đi đến tổ chức tổng tuyển cử
thực hiện quyền tự quyết của nhân dân
MNVN. Hà Nội bác bỏ đề nghị
của ông Hương v́ họ xem chính phủ Hương
chỉ là chính phủ Thiệu không có Thiệu. Ngay
chiều hôm đó, trong bài xă luận đọc trên
Đài phát thanh, Hà Nội cho biết chỉ chấp
nhận nói chuyện với Dương Văn Minh và
đưa ra hai điều kiện là ông Hương và
Mỹ phải ra đi. Ngày 26/4/1975 ông Hương ra trước
lưỡng viện Quốc hội tŕnh bày t́nh
trạng khẩn trương của đất nuớc.
Hai viện Quốc hội biểu quyết giao cho ông
trọn quyền chọn người thay thế, nhưng
ông không chấp nhận v́ đó là quyền của
Quốc hội. Ông Hương không muốn lănh cái trách
nhiệm trao quyền tổng thống cho DVM, nên ông
gởi điện văn khẩn cấp yêu cầu
chủ tịch Thượng viện Trần Văn
Lắm triệu tập Quốc hội lưỡng
viện để chọn người đảm
nhận trách nhiệm lănh đạo quốc gia. Hôm sau
Quốc hội biểu quyết với 134 phiếu
thuận và 2 phiếu chống chấp nhận Dương
Văn Minh thay thế Trần Văn Hương giữ
chúc vụ tổng thống VNCH. Trong diễn văn nhậm chức
chiều ngày 28/4/1975, ông Minh kêu gọi các “anh em phía
bên kia ngưng ngay lập tức những cuộc
tấn công lẫn nhau để chấm dứt
những khổ đau của dân chúng, cùng nhau ngồi
vào bàn hội nghị để t́m những giải pháp
hữu ích cho quốc gia dân tộc”. Nhưng
một giờ sau CS cho phi cơ ném bom phi trường Tân
Sơn Nhứt. Minh cử người đến
tiếp xúc với phái đoàn CS trong trại Davis để
bàn chuyện ngưng bắn và ḥa giải. Họ đ̣i
ông phải thực hiện điều thứ hai: HK
phải rút khỏi MN. Ông Minh gởi thư hỏa tốc yêu
cầu Đại sứ Mỹ ra chỉ thị cho các
nhân viên của Cơ quan Tùy viên Quân Lực DAO rời
khỏi VN trong ṿng 24 giờ. Văn thư trên được
Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, Chủ tịch
Lực lượng ḥa giải dân tộc đọc trên
Đài phát thanh trưa ngày 29/4/1975. HK có lư do chính
thức rời khỏi VN. Ngày 30/4/1975 vào lúc 10 giờ sáng,
hai giờ sau khi Đại sứ Martin và những người
Mỹ cuối cùng rời khỏi VN, Chính phủ CHMNVN báo
cho ông Minh biết rằng thời kỳ thương
thuyết đă qua. Ông lên tiếng trên Đài phát thanh
Sài G̣n kêu gọi toàn thể QLVNCH ngưng bắn,
ở nguyên tại chỗ và mời Đại diện
Chính phủ Cách mạng Lâm thời CHMNVN vào Sài G̣n
để nhận bàn giao chính quyền trong ṿng trật
tự để tránh đổ máu vô ích cho đồng
bào. Một giờ sau, hai xe tăng của
CSBV húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập. Viên
thượng tá chính ủy Trung đoàn 203 xe tăng là
sĩ quan cao cấp nhất của BV có mặt đầu
tiên tại Dinh Độc Lập. Khi y bước vào pḥng
khánh tiết Dinh ĐL, Dương Văn Minh nói với
kẻ chiến thắng “Sáng hôm nay chúng tôi sốt
ruột quá. Chúng tôi chờ các ngài tới để bàn
giao”. Viên chính ủy trả lời “Chính quyền
của các ông từ trung ương đến cơ
sở đă sụp đổ tan tành th́ c̣n cái ǵ
để bàn giao? Có lẽ nào người ta bàn giao
những cái mà người ta không c̣n nữa. Các anh
đă bại trận và chỉ có đầu hàng vô
điều kiện”. Sau đó họ đưa Dương
Văn Minh và Vũ Văn Mẫu đến đài phát
thanh đọc lịnh đầu hàng. Kư giả Pháp nổi tiếng thân
Cộng là Jean Larteguy đă có mặt tại Sài G̣n
trong buổi trưa ngày 30/4/1975. Ông ghi lại ngày VNCH
thất thủ như sau: “Sàig̣n không được
giải phóng. Nó bị một đạo quân xa lạ
từ miền Bắc tới chiếm đóng. Sự
thật là thế. Chúng tôi, 120 nhà báo ngoại quốc
ở đây để chứng thật điều
ấy”. Để giữ vẹn khí tiết
của kẻ cầm quân, các tướng Lê Nguyên
Vỹ -Tư lịnh Sư đoàn 5, Trần Văn Hai
-Tư lịnh Sư đoàn 7, Nguyễn Khoa Nam-Tư
lịnh QĐ IV và Tư lịnh phó là tướng Lê Văn
Hưng đă chọn cho ḿnh cái chết vinh hơn là
chịu đầu hàng nhục nhă. Lời
Kết: Trong
thế kỷ vừa qua, đất nước ta là
đấu trường chính của cuộc xung đột
vừa ư thức hệ vừa bá quyền giữa các cường
lực. Thân phận nhược tiểu, nước ta
lệ thuộc vào các cường lực và chịu
sự chi phối của họ là lẽ tất yếu.
Tuy nhiên nếu biết người biết ta, th́ có
thể nương theo các thế cờ của các
thế lực lớn mà uyển chuyển xoay sở
để sống c̣n. Điều bất hạnh cho dân
tộc là giới lănh đạo Quốc gia cũng như
Cộng sản không cần biết người,
biết ta, mà chỉ biết ḿnh phải dựa vào các
cường lực để đạt được
ư muốn của ḿnh. Trong khi thế chiến lược
của các cường lực biến đổi không
ngừng. Trong
cuộc xung đột giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, đến
giai đoạn vai tṛ VNCH không c̣n cần thiết, nên
phải ra đi để CSVN nối tiếp vai tṛ, giúp
Mỹ hợp tác với Trung Cộng đánh bại Liên
Xô. Chiến tranh lạnh đă chấm dứt. Nay là
chiến tranh giữa HK và Trung Cộng th́ vai tṛ của
CSVN cũng phải thay đổi. Năm 1972, Kissinger
-kiến trúc sư chiến lược của HK, nay c̣n
sống, đă phác họa mối quan hệ giữa
Mỹ và CSVN sẽ trải qua ba giai đoạn:
chấm dứt thù địch, b́nh thường thường
hóa bang giao và hợp tác. Nay là giai đoạn hợp tác
toàn diện trong bối cảnh mới: chiến tranh
giữa HK với TC. Nhắc lại quá khứ để
ôn cố tri tân. Tôi hy vọng những tổ chức chính
trị của Cộng đồng người Việt
ở hải ngoại, các nhân sĩ, tổ chức yêu
nước quốc nội và Đảng CSVN muốn
sống c̣n phải thay đổi thể chế để
phù hợp với bối cảnh lịch sử mới.
Hoàn cảnh mới đ̣i hỏi đội ngũ lănh
đạo mới và đường lối mới.
[9] Kết Luận: Ai Làm Mất
VNCH-MNVN? Lê Quế Lâm Bài viết Ai làm mất VNCH? tŕnh bày
quá dông dài có thể làm bực ḿnh người đọc.
Họ chỉ muốn tác giả cho biết ngắn
gọn ai là thủ phạm? Người viết xin quư
vị cảm thông v́ sự sụp đổ của
Miền Nam tự do là một biến cố đau thương.
Nhiều người chỉ nh́n cái ngọn, thấy
hồi kết cuộc mà không nh́n lại cái gốc,
VNCH, Miền Nam Tự do ra đời trong bối
cảnh nào và sụp đ ổ ra sao? Đă có
nhiều dư luận đổ tội cho bên này, bên
kia, người nầy người nọ trong suốt
44 năm vẫn chưa chấm dứt và chưa
giải quyết được ǵ những hệ
quả của biến cố này. Theo thiển ư th́ biến cố
30/4/1975 là hậu quả của cuộc xung đột
ư thức hệ giữa Thế giới Tự do và
Quốc tế Cộng sản, giữa Hoa Kỳ và Liên
Xô, mà đất nước ta không may là đấu trường
chính của cuộc xung đột này. Đó là định
mạng đă được các cường lực an
bài, không oán trách ai cả, mà chỉ nên nh́n lại quá
khứ để rút tỉa bài học lịch sử
để định hướng tương lai. Nay, trước
mắt là cuộc chiến tranh mới giữa Hoa Kỳ
và Trung Cộng đă manh nha phát khởi, v́ thế người
viết mới dài ḍng ghi lại những biến
cố trong nội bộ VN trong cuộc xung đột
vừa qua, với kỳ vọng giúp quí độc
giả hiểu rơ hơn những t́nh tiết, trước
khi đón nhận những ǵ mà người viết
muốn đạo đạt trong phần Kết
luận đề tài trên. Trong thế kỷ vừa qua, đất
nước ta là đấu trường chính của
cuộc xung đột vừa ư thức hệ vừa bành
trướng, bá quyền giữa các cường
lực. Thân phận nhược tiểu, nước ta
lệ thuộc vào các cường lực và chịu
sự chi phối của họ là lẽ tất yếu.
Tuy nhiên nếu biết người biết ta, th́ có
thể nương theo các thế cờ của các
thế lực lớn mà uyển chuyển xoay sở
để sống c̣n. Điều bất hạnh cho dân
tộc là giới lănh đạo Quốc gia cũng như
Cộng sản không cần “Biết người,
biết ta”, mà chỉ biết cá nhân ḿnh mà thôi. Ḿnh
phải dựa vào các cường lực để
đạt được ư muốn của ḿnh. Trong khi
thế chiến lược của các cường
lực biến đổi không ngừng. V́ quyền
lợi đất nước họ, họ sẳn sàng
hy sinh ḿnh, lợi dụng ḿnh để phục vụ
cho mưu đồ của chúng. Biết người tức biết địch, đối
với Cộng sản Việt Nam, địch là Hoa
Kỳ…Nhưng ông HCM và các người thừa
kế có biết rằng trong Thế chiến II,
tổng thống Mỹ Frankclin Roosevelt là đồng minh
thân thiết với Stalin. Hoa Kỳ đă vận
chuyển vũ khí lương thực xuyên Bắc Băng
Dương để giúp Liên Xô đánh Đức, Ư.
TT Roosevelt cũng đồng minh với Tưởng
Giới Thạch và cả Mao Trạch Đông qua chiêu bài
ủng hộ chính phủ Liên hiệp Quốc Cộng,
để viện trợ Trung Hoa đánh Nhật. Sau đó, khi cuộc xung đột
Nga Mỹ diễn ra, người kế nhiệm Roosevelt
là TT Truman bỏ rơi Trung Hoa Quốc gia, để
Trung Hoa Cộng sản đối đầu với Liên
Xô, v́ họ biết rơ mưu đồ của Mao
muốn tranh quyền lănh đạo Cách mạng thế
giới với Stalin. Thế chiến II chấm dứt,
Mỹ tận t́nh giúp các nước bại trận
Đức, Ư, Nhật tái thiết đất nước
qua kế hoạch Marshall. Nhờ đó, các nước
này trở thành các cường quốc, đứng bên
cạnh Mỹ khi cuộc xung đột xảy ra
giữa Thế giới Tự do và Quốc tế
Cộng sản mà người ta thường gọi là
chiến tranh lạnh. Về phần Trung Cộng, sau
trận đọ sức với Mỹ ở chiến
tranh Triều Tiên (1950-1953) và chiến tranh Đông Dương
(1946-1954) Mao đă thấy rơ sức mạnh của
Mỹ, họ liền chuyển hướng chiến lược,
t́m cách tách dần khỏi quỹ đạo QTCS.
Họ lợi dụng cuộc chiến tranh giải phóng
Miền Nam của ông HCM để thực hiện
chiến lược mới. Trung Cộng ủng hộ
CSVN đánh Mỹ với chiêu bài giúp các nước
đang bị hai siêu cường Nga Mỹ xâm lược,
để bảo vệ nền độc lập dân
tộc của các nước Thế giới Thứ ba mà
Trung Quốc tự nhận là lănh tụ. Để tranh thủ Trung Cộng,
năm 1971 TT Nixon không dùng quyền phủ quyết,
giúp Bắc Kinh gia nhập Liên Hiệp Quốc và
trở thành Ủy viên Thựng trực Hội đồng
Bảo An, ngang hàng với Liên Xô và Hoa Kỳ. Hơn
thế nữa, HK thừa nhận Trung Cộng như là
lănh tụ Thế giới thứ ba. Thông cáo chung Thượng
Hải kết thúc chuyến công du Trung Quốc của
TT Nixon hồi cuối tháng 2/1972, Hoa Kỳ và Trung
Cộng cam kết” không mưu cầu bá quyền và
đều phản đối bất cứ nước
nào hay tập đoàn nào cố gắng thiết lập
bá quyền đó ở khu vực Á châu”. Ngoài việc thỏa thuận trên
với Bắc Kinh về vấn đề bá quyền
thế giới, Hoa Kỳ c̣n thừa nhận Trung
Cộng là lănh tụ Thế giới Thứ ba, tạo
thế “Ba chân vạc” để bảo vệ ḥa
b́nh thế giới. Điển h́nh là tại MNVN, có
Hội đồng Quốc gia ḥa giải ḥa hợp dân
tộc gồm có ba thành phần ngang nhau, khi chiến
tranh Việt Nam chấm dứt. Cuối năm 1978, CSVN kư Hiệp
ước hữu nghị, hợp tác với Liên Xô và
đưa sang Cam Bốt lật đổ chính quyền
Pol Pot. Bắc Kinh liền lên án Hà Nội là “tiểu
bá” dựa vào” đại bá” Liên Xô để
thực hiện mưu đồ bá quyền ở châu
Á. Dựa vào tinh thần Thông cáo chung Thượng
Hải 1972, Trung Cộng mở cuộc tấn công nước
Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam và
hợp tác với Mỹ trong Liên minh chống bá
quyền Liên Xô. C̣n phía VNCH, h́nh như TT Thiệu
chẳng biết ǵ về địch, khi Trung Cộng
từng bước tiến gần đến Mỹ,
khiến Liên Xô lâm vào thế bị động,
phải hợp tác với Mỹ để chấm
dứt chiến tranh VN. Ông Thiệu cũng không cần biết
ta muốn ǵ, qua gần 30 bức thư của TT
Nixon, bày tỏ thiện chí hết ḷng giúp miền Nam
Tự do sống c̣n, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn.
Lưỡng đảng trong Quốc hội đều
thiếu thiện cảm với Thiệu v́ ông chống
mục tiêu quốc gia của Mỹ là phải chấm
dứt chiến tranh, mang lại ḥa b́nh cho VN bằng
mọi giá. Trong diễn văn nhậm chức nhiệm
kỳ đầu, Nixon đă cam kết điều này
với nhân dân Mỹ. Tóm lại, trong bang giao quốc
tế, các cường lực đều hành xử phương
châm “không có t́nh bạn muôn đời” và cũng
“không có kẻ thù muôn đời” mà chỉ có
“Quyền lợi quốc gia dân tộc là trên
hết”. Lịch sử là sự tiếp
nối các biến cố theo qui luật nhân quả.
Đối với lịch sử dân tộc mấy ngàn
năm, sự cáo chung của chế độ VNCH
chỉ là một giai đoạn. Trong cuộc xung đột
giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, đến giai đoạn
1975 vai tṛ VNCH không c̣n cần thiết nữa, nên
phải ra đi. Cộng sản VN nối tiếp vai tṛ
để giúp Mỹ hợp tác với Trung Cộng
đánh bại Liên Xô. Chiến tranh lạnh đă chấm
dứt. Nay là chiến tranh giữa HK và Trung Cộng th́
vai tṛ của CSVN cũng phải thay đổi. Năm
1972, Kissinger -kiến trúc sư chiến lược
của HK, nay c̣n sống, là cố vấn được
TT Trump cử sang Bắc Kinh nhiều lần, đă phác
họa mối quan hệ giữa Mỹ và CSVN sẽ
trải qua ba giai đoạn: chấm dứt thù địch,
b́nh thường hóa bang giao và hợp tác. Nay là giai
đoạn hợp tác toàn diện diễn ra đúng vào
thời điểm chiến tranh giữa HK với TC. Phải theo gương tiền nhân
“Gặp thời thế, thế thời phải
thế”. Đó là cách hành xử của cụ Ngô
Thời Nhiệm, giải thích việc cụ pḥ tá Tây
Sơn và hoàng đế Quang Trung (Nguyễn Huệ)
đă để lại lịch sử một chiến tích
oai hùng: Đánh bại quân xâm lược Măn Thanh khi chúng
dựa vào ông vua “cơng rắn cắn gà nhà” Lê Chiêu
Thống. Những người lănh đạo
Đảng CSVN thường tự hào, vị chủ
tịch sáng lập đảng của họ -ông Hồ
Chí Minh, đă vượt qua những giới hạn
của chủ nghĩa yêu nước hẹp ḥi, để
tiến lên kết hợp chủ nghĩa yêu nước
với tinh thần quốc tế vô sản, vừa hoàn
thành nghĩa vụ dân tộc vừa hết ḷng
hết sức, làm tṛn nghĩa vụ quốc tế
của ḿnh, chiến đấu cho sự thắng
lợi của Quốc tế Cộng sản. Đối
với ông “Cách mạng Việt Nam không phải
chỉ hoàn thành tốt nghĩa vụ đối dân
tộc ḿnh là đủ, mà c̣n làm nghĩa vụ
quốc tế cao cả, không chỉ v́ lợi ích
của bản thân ḿnh mà c̣n v́ lợi ích chung của
phong trào cách mạng thế giới” (Lời Trường
Chinh) Để hoàn thành nghĩa vụ
quốc tế, ngay từ khi nắm được
quyền lănh đạo đất nước hồi năm
1945/46, ông HCM đă “biến Việt Nam thành tên lính
xung kích đầu tiên đứng lên chống chủ
nghĩa thực dân đế quốc” sau thế
chiến hai. Đó là trương của Stalin, đă
khiến VN trở thành nơi tranh chấp quốc
tế. Hậu quả là đất nước bị
chia đôi hồi năm 1954. Cũng v́ nghĩa vụ
quốc tế, ông Hồ đă phát động
chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước để tăng cường phe
Xă hội chủ nghĩa. Nghĩa vụ dân tộc hoàn
thành, CSVN tiếp tục làm nghĩa vụ quốc
tế ở Kampuchia. Nghĩa vụ quốc tế đă
hoàn thành. QTCS đă cáo chung. Mong rằng Đảng
CSVN quay về phục vụ nghĩa vụ dân tộc
trong bối cảnh mới của lịch sử. Ngày nay một cuộc xung đột
thế giới mới đă diễn ra. Đây là
cuộc chiến sinh tử: Mỹ bại, Trung Cộng
sẽ thống trị thế giới. So sánh thực
lực đôi bên, th́ điều này khó có thể
xảy ra. Vă lại, đường lối xuyên
suốt của Mỹ trong thế kỷ vừa qua, là tiêu
diệt các chế độ bạo tàn: Quốc xă
Đức, Phát xít Ư, Quân phiệt Nhật và gần
đây là Cộng sản Liên Xô. Họ đánh bại
các thế lực bạo tàn, nhưng sau đó họ giúp
các nước này trở thành cường quốc, phát
triển đất nước trong dân chủ tự do,
tập hợp trong khối G.7 là các nước có
nền kinh tế phát triển nhất thế giới. C̣n đối với Trung Cộng,
năm 1949 Mỹ bỏ rơi Tưởng Giới
Thạch, giúp Mao Trạch Đông độc chiếm Hoa
Lục. Đến đầu thập niên 1980, Mỹ giúp
Đặng Tiểu B́nh thực hiện “Bốn
hiện đại hóa”, Trung Quốc có nền kinh
tế lớn thứ ba trên thế giới chỉ sau
Nhật và Mỹ. Đến đầu thế kỷ
21, Mỹ giúp Trung Quốc gia nhập WTO, mỗi năm
mua mấy trăm tỉ đô la sản phẩm của
TQ. Nhờ đó, kinh tế TQ vượt qua Nhật và
nay Tập Cận B́nh nuôi tham vọng muốn vượt
qua Mỹ để thực giấc mơ Trung Quốc lănh
đạo thế giới. Đó là lư do khiến TT
Donald Trump phản công…Nhưng ông Trump vẫn coi
Tập Cận B́nh là người bạn tốt, sẽ
theo gương Mao và Đặng hợp tác với
Mỹ để Trung Quốc tồn tại và phát
triển. Nếu không, số phận Đại Hán cũng
giống như Liên bang Xô Viết và Liên bang Nam Tư trước
đây. Ông Vũ Tài Lục, tác giả
quyển “Những Quy luật Chính trị trong Sử
Việt” trong chương đầu đă khẳng
định “Không đọc Sử, không đủ tư
cách nói chuyện Chính trị.” Ông viết tiếp:
“Lịch sử là một cuộc đối
thoại bất tận giữa quá khứ và hiện
tại…Nhưng lịch sử đă qua măi măi mang
nhiệm vụ giáo huấn. Những kẻ đang
sống t́m trí thức trong quá văng, không phải
chỉ để thỏa măn ư muốn hiểu biết,
mà cốt là để làm giàu cho trí tuệ đấu
tranh hiện tại, cốt là để rút tỉa
nhiều bài học hữu ích”. Nhắc lại quá khứ để
ôn cố tri tân. Người viết hy vọng những
tổ chức chính trị của Cộng đồng người
Việt Tự do hải ngoại, các nhân sĩ và đoàn
thể yêu nuớc quốc nội và Đảng CSVN
muốn sống c̣n, phải thay đổi thể
chế để phù hợp với bối cảnh
lịch sử mới. Hoàn cảnh mới đ̣i
hỏi đội ngũ lănh đạo mới,
đường lối sách lược mới.
Lê Quế Lâm (19/02/2019) |