Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến đầu
tiên mà Liên Hiệp Quốc (LHQ), một tổ chức
quốc tế, đă đóng vai tṛ quân sự. Tổ
chức này mới được thành lập 5 năm
trước đó.
Chiến Tranh Triều Tiên bùng
nổ vào ngày 25/6/1950, khi quân đội Bắc
Triều Tiên theo chế độ Cộng Sản đă
tràn qua biên giới, xâm lăng Nam Triều Tiên. LHQ đă
gọi cuộc xâm lăng này là một vi phạm
nền ḥa b́nh thế giới và đă đ̣i hỏi
quân đội Cộng Sản phải rút ra khỏi Nam
Triều Tiên. Nhưng sau khi quân đội Cộng
Sản Bắc Triều Tiên tiếp tục tấn công,
Hoa Kỳ phải kêu gọi các quốc gia hội viên
LHQ giúp đỡ quân sự cho Nam Triều Tiên. Đă có
16 quốc gia gửi quân tham chiến tới đây và
41 nước khác cũng đă chuyển tới các
dụng cụ, thực phẩm và các tiếp liệu khác,
trong khi đó Hoa Kỳ cung cấp 90 phần trăm binh
lính, dụng cụ quân sự và các tiếp tế khác
cho Nam Triều Tiên. Phía Cộng Sản, ngoài Bắc
Triều Tiên c̣n có Trung Cộng, trong khi Liên Xô trợ
giúp Bắc Triều Tiên bằng các dụng cụ quân
sự.
1/ Các nguyên nhân của cuộc
chiến.
Vào năm 1895, Nhật
Bản chiếm đóng Triều Tiên và từ năm
1910 biến miền đất này thành một phần
đất của Nhật Bản. Sau khi lực lượng
Đồng Minh đánh thắng
Nhật Bản trong Thế Chiến Thứ Hai (1939-45), các
lực lượng quân sự Hoa Kỳ và Liên Xô đă
tiến vào bán đảo Triều Tiên và quân đội
Nhật Bản đă đầu hàng, mạn bắc trước
quân đội Liên Xô c̣n phía nam trước quân đội
Hoa Kỳ. Hai cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ
đă thiết lập trên bán đảo này hai chế
độ chính trị tương phản nhau, miền
Bắc theo Cộng Sản c̣n miền Nam theo nền dân
chủ. Đất nước Triều Tiên từ
đó bị chia đôi, dọc theo biên giới tạm
thời gần vĩ
tuyến 38.
Vào năm 1947, Đại Hội Đồng LHQ tuyên
bố rằng cuộc tổng tuyển cử sẽ
được tổ chức trên khắp đất nước
Triều Tiên để chọn ra một chính quyền
cho cả nước. Liên Xô đă phản đối
đề nghị này và không cho phép bầu cử
tại miền bắc. Vào ngày
10/5/1948, dân chúng Nam Triều Tiên đă bầu ra một
quốc hội rồi từ đây có chính phủ
của nước Cộng Ḥa Triều Tiên (the Republic of
Korea), với Lư Thừa Văn (Syngman Rhee) làm Tổng
Thống và nền cai trị dân chủ này bị
lũng đoạn bởi tham nhũng và không hữu
hiệu. Tới ngày 9/9, các người Cộng Sản
tại miền bắc Triều Tiên cũng lập nên nước
Dân Chủ Cộng Ḥa Nhân Dân Triều Tiên (the Democratic
People’s Republic of Korea) bị cai trị dưới
sự độc tài của Kim Nhật Thành (Kim Il Sung).
Cả hai miền này đều coi là ḿnh hợp pháp trên
toàn lănh thổ và quân đội của hai phía đă
từng nhiều lần đụng độ với
nhau dọc theo miền biên giới trong thời gian
từ 1948 tới 1950. Trong năm
1949, Hoa Kỳ đă di chuyển quân lực khỏi Nam
Triều Tiên và cho biết rằng từ đầu
năm 1950, Triều Tiên nằm bên ngoài ảnh hưởng
của lực lượng pḥng thủ của Hoa Kỳ
tại châu Á. V́ thế các người Cộng Sản
tin rằng đây là lúc phải hành động quân
sự.
2/ Cuộc chiến bùng nổ.
Khi xâm lăng Nam Triều Tiên, quân
đội Miền Bắc có vào khoảng 135,000 lính.
Nhiều binh lính này đă từng chiến đấu
cho Trung Hoa và Liên Xô trong thời Thế Chiến Thứ
Hai. Bắc Triều Tiên cũng có máy bay, súng đại
bác và xe bọc thép. Quân lực Nam
Triều Tiên khi đó vào khoảng 95,000 người,
với một số máy bay và súng hạng nặng nhưng
thiếu xe thiết giáp v́ vậy vào thời gian đầu,
quân lực Nam Triều Tiên không chống nổi sức
tấn công của quân địch.
Khi cuộc chiến lên tới cao độ mạnh
nhất, quân Bắc Triều Tiên lên tới 260,000
lính và Trung Cộng phái qua giúp 780,000
lính trong khi đó, Nam Triều Tiên và các lực
lượng LHQ gồm 1,110,000 binh sĩ, với 590,000
thuộc Nam Triều Tiên, 480,000
của Hoa Kỳ, và 39,000
binh lính từ các nước Úc,
Bỉ, Canada, Colombia, Ethiopia, Pháp, Anh, Hy Lạp, Luxembourg,
Ḥa Lan, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Nam Phi, Thái Lan và
Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào ngày chiến tranh bùng nổ, Hội
Đồng Bảo An LHQ đă ra một nghị
quyết đ̣i hỏi các toán quân Cộng Sản
phải ngưng chiến và rút về vĩ tuyến 38.
Khi đó Liên Xô là một trong 11 quốc gia thành viên của Hội Đồng
Bảo An, đă có thể phủ quyết nghị
quyết kể trên, nhưng Liên Xô đă tẩy chay các
buổi họp của Hội Đồng Bảo An v́
phản đối thành viên Trung Hoa Quốc Gia trong
Hội Đồng này và các đại biểu của
Liên Xô đă vắng mặt khi cuộc bỏ phiếu
diễn ra.
Bắc Triều Tiên đă không quan
tâm đến đ̣i hỏi của Liên Hiệp
Quốc, vẫn tiến quân, và vào ngày 27/6, đă
tiến đến gần ngoại ô của thủ
đô Hán Thành (Seoul) của Nam Triều Tiên. Vào
thời điểm này, chính quyền Hoa Kỳ sẵn sàng
đối phó với t́nh thế v́ sau đó 24 giờ,
Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S. Truman xác nhận
lại chủ thuyết ngăn chặn làn sóng Cộng
Sản của ông, áp dụng tại cả châu Á
lẫn châu Âu, đă đ̣i hỏi quân Cộng Sản
phải ngưng tiến quân.
Tổng Thống Truman đă ra
lệnh cho Hạm Đội thứ 7 đi tuần trong
vùng biển ngăn cách lục địa Trung Hoa và ḥn
đảo Đài Loan, tăng thêm viện trợ
cho binh lực Pháp chống lại lực lượng
Việt Minh tại Đông Dương, ra lệnh cho Tướng
Douglas MacArthur gửi các tiếp liệu cho miền
nam Triều Tiên và gửi đi một nghị quyết
phản đối tới Hội Đồng Bảo An
Liên Hiệp Quốc. Không quân và hải quân Mỹ
tới bán đảo Triều Tiên, lực lượng
bộ binh Hoa Kỳ bắt đầu hành động
từ ngày 30 tháng 6 và các máy bay Hoa Kỳ đă oanh
tạc để làm chậm lại đà tiến
của các đạo quân cộng sản. Liên
Hiệp Quốc kêu gọi các quốc gia thành viên giúp
đỡ xứ Nam Triều Tiên. Quốc Hội
Hoa Kỳ cũng yểm trợ các hành động
của Tổng Thống Truman và các chính sách của LHQ
nhưng không chính thức tuyên chiến với Bắc
Triều Tiên.
Vào ngày 1 tháng 7, một phần của Sư Đoàn 24
Bộ Binh Hoa Kỳ được không vận tới Pusan
là thành phố tại mỏm phía nam của Triều
Tiên. Ngày hôm sau, các toán quân bắt đầu di
chuyển tới các vị trí chiến đấu
gần Taejon,
vào khoảng 121 cây số (75 dặm) phía nam của Hán
Thành, c̣n các đạo quân của các quốc gia thành
viên LHQ khác tới Nam Triều Tiên sau đó. Vào ngày 5/7, do quân Cộng Sản đă chiếm xong
Hán Thành, các toán quân Mỹ đầu tiên đụng
trận với quân Bắc Triều Tiên tại Osan, 48 cây số (30 dặm) phía nam của Hán Thành.
Qua ngày 8 tháng 7, với sự chấp thuận của
Hội Đồng Bảo An LHQ, Tổng Thống Hoa
Kỳ Truman đă bổ nhiệm Tướng Douglas
MacArthur làm Tổng Tư Lệnh của LHQ gồm các
lực lượng quân sự của Nam Triều Tiên,
Hoa Kỳ và các đoàn quân từ các nước khác. Tướng
MacArthur đă chỉ huy mọi cuộc hành quân từ
tổng hành dinh của ông tại Tokyo, Nhật Bản.
Ngày 13/7, Trung Tướng Walton H. Walker, chỉ huy trưởng
của Lộ Quân thứ 8 của Hoa Kỳ, trở nên
Tư Lệnh Chiến Trường của các lực
Đồng Minh trên bộ tại Triều Tiên.
Các đơn vị của Sư Đoàn 1 Kỵ Binh và
Sư Đoàn 25 Bộ Binh đă đổ bộ lên
đất Triều Tiên vào ngày 19/7 để trợ giúp
các binh lính của Sư Đoàn 24 đang bị áp
đảo nhưng rồi thành phố Taejon
rơi vào tay quân cộng sản vào ngày 21/7.
3/ Ṿng Đai Fusan.
Trung Đoàn Thủy Quân Lục Chiến thứ nhất
và Sư Đoàn Bộ Binh thứ hai của Lục Quân
Hoa Kỳ tới Nam Triều Tiên trễ vào cuối tháng
7 rồi các lực lượng Đồng Minh bị
đẩy lui về Ṿng Đai Pusan vào ngày 2 tháng 8. Ṿng
đai này là chiến tuyến ở góc đông nam
của Nam Triều Tiên, được kéo dài từ thành
phố Pohang nằm trên bờ biển đông nam, phía tây
tới Taegu và phía nam và đông nam tới Pusan.
Con sông Naktong là biên giới của vùng chiến
địa này.
Các trận đánh nhau tại Ṿng Đai Pusan đă là
một khúc quanh của cuộc chiến.
Phe Bắc Triều Tiên thiệt hại vào khoảng
58,000 quân và rất nhiều quân dụng khi tiến
tới vùng này. Việc tăng nhanh lực lượng
quân sự Hoa Kỳ đă giúp cho Tướng
Walker cách dùng quân uyển chuyển. Quân Bắc
Triều Tiên đă cố gắng chọc thủng ṿng
đai trong khi Tướng Walker đă dùng các lực lượng
trừ bị duy tŕ tuyến pḥng thủ chính. Trên không,
các máy bay Mỹ đă oanh tạc các đường
tiếp tế của địch quân. Các chiến xa và
đại bác Hoa Kỳ tới Pusan càng nhiều,
khiến cho việc pḥng thủ Pusan được
củng cố.
Quân Bắc Triều Tiên thấy lực lượng
Đồng Minh đạt được ưu thế
về hỏa lực, nên đă mở cuộc tấn công
chính, vượt qua được con sông Naktong vào ngày
6/8 nhưng lực lượng Mỹ đă phản công
và tránh cho pḥng tuyến không bị chọc thủng khi
quân Bắc Triều Tiên tới gần thành phố Taegu
và rồi các tổn thất nặng nề khiến cho
đạo quân Cộng Sản miền Bắc này
phải rút ra vào ngày 25/8. Quân Cộng Sản c̣n
tấn công Ṿng Đai Pusan một lần nữa vào ngày
3 tháng 9, chiếm được Pohang 3 ngày sau rồi
lực lượng Đồng Minh ngăn chặn
được họ vào ngày 8/9.
4/ Cuộc đổ bộ Inchon.
|
Đổ bộ ở Inchon
|
Cuộc
đổ bộ Inchon là một chiến thuật làm
thay đổi cục diện của chiến trường.
Vào giữa tháng 9 năm
1950, binh lính Hoa Kỳ thuộc Quân
Đoàn 10 (the 10th Corps) có Thủy Quân Lục Chiến cùng
đi, được chuyển vận từ Nhật
Bản, đă đổ bộ lên Inchon, một địa
điểm trên bờ biển tây bắc của Nam
Triều Tiên. Tướng
MacArthur đă chỉ huy cuộc hành quân này.
Chiến thuật này đ̣i hỏi phải trù liệu
rất tỉ mỉ bởi v́ mực nước
biển tại Inchon thay đổi hơn 9 mét, khi
mực nước thủy triều lên cao, một con
tầu đổ bộ sẽ lên tới gần bờ
nhưng khi mực nước thủy triều xuống,
con tầu sẽ mắc cạn trên lớp bùn dầy.
Đoàn quân đổ bộ từ Inchon này đă
cắt ngang đội quân Cộng Sản tại
miền Bắc và đang vây hăm miền Pusan, khiến
cho quân Cộng Sản hoàn toàn rối loạn, phải
t́m cách sớm rút lui về miền bắc bởi v́
đường tiếp tế đă bị cắt đứt.
Cuộc đổ bộ Inchon là
một trong các cuộc hành quân táo bạo và thành công
nhất trong lịch sử chiến tranh, đă xác
nhận thiên tài quân sự của Tướng MacArthur,
vị tướng 5 sao và 71 tuổi.
|
Đại tướng
MacArthur (ngồi giữa) quan sát
cuộc pháo kích của HQ vào Inchon
|
Sau
đó, Thiếu Tướng
Edward M. Almond thuộc Quân Đoàn
10 đă điều động quân tiến về
thủ đô Hán Thành (Seoul). Sau một trận
đánh ác liệt, Tướng MacArthur công bố Hán Thành
đă được chiếm lại vào ngày 26/9. Đồng
thời, các đạo quân của Tướng
Walter đánh ra ngoài ṿng đai Pusan, gây nên các
tổn thất rất nặng nề cho quân địch.
Vào ngày 28/9, hai đạo quân Đồng Minh đă
tiếp xúc được với nhau gần Hán Thành. Tướng
MacArthur đă thông báo cho Bắc Triều Tiên phải
đầu hàng, nhưng phía quân địch bác bỏ
đề nghị.
5/ Quân Đồng Minh tiến lên
mạn Bắc.
Vào cuối tháng 9/1950,
quân Đồng Minh chuẩn bị tiến vào Bắc
Triều Tiên. Đạo quân Nam Triều Tiên băng
qua biên giới trước vào ngày 01 tháng 10 và đă
chiếm được các thành phố Wonsan,
Hungnam và Hamhung. Lộ Quân thứ 8 của Hoa Kỳ
(the Eight Army troops) tiến qua Bắc Triều Tiên vào ngày
8/10, đă đẩy lui quân Cộng Sản về phía
B́nh Nhưỡng (Pyongyang) rồi chiếm đóng
thủ đô miền bắc này vào ngày 19/10. Từ B́nh
Nhưỡng, Lộ Quân thứ 8 đă tiến về
phía tây bắc, theo hướng sông Yalu
(Áp Lục) là biên giới giữa Bắc Triều Tiên
và Trung Hoa, trong khi một phần của Lộ Quân này
đánh sang phía đông bắc.
Vào thời điểm này, cuộc Chiến Tranh
Lạnh đă đi vào một giai đoạn mới,
nguy hiểm hơn. Cuộc tiến quân sang phần đất
miền bắc của phe Cộng Sản có thể
khiến cho Liên Xô trả đũa tại châu Âu. Ngày
12/9, Bộ Trưởng Ngoại Giao mới của Hoa
Kỳ là ông Dean Acheson, đă đề nghị tăng
cường khối Nato và tái vơ trang Tây Đức.
Qua tháng 12/1950, Tướng
Dwight D. Eisenhower được bổ nhiệm làm Tư
Lệnh Tối Cao của lực lượng Đồng
Minh Nato.
Ngày 10/10, Trung Cộng đă cảnh cáo rằng quân
đội của họ sẽ tham dự vào cuộc
xung đột nếu phe Đồng Minh c̣n tiếp
tục tiến về biên giới, nhưng Tướng
MacArthur muốn chấm dứt chiến tranh sớm trước
khi mùa đông bắt đầu, nên đă ra lệnh tăng
thêm áp lực. Vào cuối tháng 10,
Tổng Thống Truman đă gặp Tướng MacArthur
trên đảo Wake, nằm trong vùng Thái B́nh Dương
và vị tướng này đă làm cho Tổng Thống
Truman tin rằng sẽ không có sự can thiệp trên quy
mô rộng lớn của lực lượng Trung
Cộng. Nhưng Trung Cộng đă cảnh cáo Hoa
Kỳ, coi các vận chuyển của Hải Quân Mỹ
trong eo biển Đài Loan và cách tiến quân gần biên
giới Trung Hoa là các hành động chống lại
Trung Cộng. Quân Mỹ và quân Trung Cộng đụng
độ với nhau vào ngày 25/10 gần đập nước
Changjin (Chosin) và tại Onjong, gần Pukchin. Trận
chiến tiếp diễn cho tới khi quân Trung Cộng
bỗng nhiên rút lui vào ngày 6/11, quân Mỹ cũng lui
về để tổ chức lại vị thế.
Vào lúc này, Tướng MacArthur và các nguồn tin t́nh báo
đă đánh giá thấp sức mạnh của quân
đội Trung Cộng, khả năng chịu thiệt
hại to lớn của đội quân này, khi các máy
bay của lực lượng Đồng Minh bay dễ dàng
trên dải đất Triều Tiên và các tầu
chiến chạy dọc theo bờ biển mà không
bị ngăn chặn, trong khi Tướng MacArthur tưởng
rằng quân số của Hoa Kỳ nhiều hơn quân
Cộng Sản và cho rằng không lực Hoa Kỳ có
thể ngăn cản quân Trung Cộng băng qua biên
giới. Đồng thời, các nhà lănh đạo chính
trị tại Washington cũng đồng ư với Tướng
MacArthur là chiến tranh sẽ chấm dứt vào dịp
Lễ Giáng Sinh 1950. Tướng MacArthur đă ra lệnh
tiến thêm vào ngày 24/12.
6/ Quân Đội Đồng Minh
rút lui.
Các hy vọng chấm dứt nhanh chóng chiến tranh
đă sớm tiêu tan bởi v́ Trung
Cộng đă chuyển qua một lực lượng quân
sự khổng lồ với hơn 300,000 quân chống
lại lực lượng Đồng Minh vào ngày 26 và
27 tháng 11 năm 1950, khiến cho lực lượng
Đồng Minh chịu thiệt hại lớn. Vào
cuối tháng 11, sức mạnh của quân Cộng
Sản đă phóng vào giữa hai đạo quân, Quân
Đoàn 10 ở phía đông và Lộ quân thứ 8
ở phía tây.
Từ ngày 4/12, lực lượng Đồng Minh
bắt đầu rút lui. Bốn ngày hôm sau, 20,000 quân
Mỹ kể cả Thủy Quân Lục Chiến và
Bộ Binh, bị quân Trung Cộng bao vây, đă rút lui
từ đập nước Changjin tới hải
cảng Hungnam. Vào chiều 24, 105,000 binh lính Hoa Kỳ và
Triều Tiên, 91,000 người tỵ nạn và 17,500 xe
quân sự đă được di tản bằng
đường biển từ Hungnam. Tại mặt
trận phía tây, quân Cộng Sản tiến vào Nam
Triều Tiên, chiếm Korangpo, cách Hán Thành 45 cây số
(28 dặm). Trong cuộc rút lui này, Tướng
Walker bị chết v́ tai nạn
xe, Trung Tướng Mathew B. Ridgway lên làm tư lệnh
Lộ Quân thứ 8 vào ngày 27/12.
Tới ngày 01/01/1951, quân Cộng Sản bắt đầu
tấn công dữ dội vào thủ đô Hán Thành,
chiếm thành phố này vào ngày 4/01/1951 trong khi quân
Đồng Minh đào hầm hố chống cự cách
40 cây số (25 dặm) về phía nam và cuộc rút lui
tạm ngưng. Sự can thiệp quân sự của
Trung Cộng vào cuộc chiến Triều Tiên một
phần do tại miền bắc của sông Yalu, có
nhiều đập nước và nhà máy thủy điện
cung cấp điện lực cho cả vùng Măn Châu
lẫn Bắc Triều Tiên. Một phần khác cũng
do sự thiếu cương quyết trong cách giải
quyết của chính quyền Hoa Kỳ khi ra lệnh cho
Tướng MacArthur. Các chiến thắng của quân
đội Trung Cộng khiến cho Hoa Kỳ chịu
thiệt hại nặng nề và phải rút lui về dưới
vĩ tuyến 38 đă gây ra một chấn động
trong thế giới tây phương.
Từ cuối tháng 11/1950, Tổng
Thống Truman đă đe dọa rằng ông có thể
dùng các vơ khí nguyên tử để tiêu diệt quân
Trung Cộng, sự việc này đă khiến cho Thủ
Tướng Anh là ông Clement Attlee phải bay qua
Washington. Cuối cùng, Tổng Thống Truman đă
dùng giải pháp chiến tranh giới hạn và cổ
điển, gia tăng chi phí quốc pḥng từ 13.5
tỉ mỹ kim lên 50 tỉ mỹ kim, tăng cường
không lực và tăng gấp hai số quân nhân lên 3.5
triệu binh lính.
7/ Trận Chiến giành các
Ngọn Đồi.
Tướng Ridgway
sớm phục hồi được tinh thần
chiến đấu của binh lính Đồng Minh, đă
gây ra các tổn thất lớn cho địch quân.
Từ ngày 16/01, quân Đồng Minh bắt đầu
tiến lên phía bắc, tới gần và có thể
bắn vào Hán Thành. Quân Đồng Minh lúc này dùng
chiến thuật tiến chậm, quét sạch các
lực lượng địch thay v́ bỏ sót v́
tiến quá nhanh.
Ngày 14/3/1951, quân Đồng
Minh chiếm được Hán Thành mà không gặp
chống cự, sau đó tiến thêm vào một
phần đất của miền bắc Triều Tiên vào
tháng 6. Từ nay, cuộc chiến đă diễn ra
dọc theo trận tuyến phía bắc của vĩ
tuyến 38. Tới giai đoạn này,
chính sách của Tổng Thống Truman là ngăn
chặn làn sóng Cộng Sản tại biên giới
hiện tại, mà không phải là đánh thắng Trung
Cộng. Một trong các biến chuyển quan
trọng nhất xẩy ra là vào ngày
11/4/1951, Tổng Thống Truman
đă cất chức Tướng MacArthur và thay thế
bằng Tướng Ridgway. Sở dĩ có sự
việc này là do sự tranh căi giữa Tướng
MacArthur với các nhà lănh đạo quốc pḥng
tại thủ đô Washington về cách giải
quyết chiến tranh. Tướng
MacArthur đă muốn oanh tạc Măn Châu là một
phần đất của Trung Cộng và dùng “biện
pháp mạnh”. Tổng Thống Truman cùng các
cố vấn khi đó e sợ rằng các hành động
như vậy có thể dẫn tới Thế Chiến
Thứ Ba và không thể chấp nhận việc Tướng
MacArthur không theo đúng chính sách quốc gia. Sau đó, Tướng
Ridgway tới Tokyo để
nhận chức tổng tư lệnh và Trung Tướng
James A. Van Fleet trở nên tư lệnh Lộ Quân
Thứ 8.
Các cuộc đàm phán đ́nh
chiến đă bắt đầu từ tháng 7/1951
nhưng các trận chiến vẫn c̣n tiếp tục
trong hai năm. Cả hai phía không thực hiện
được bước tiến nào quan trọng mà
chỉ giành nhau các vị trí chiến lược quan
trọng. Trong thời gian kéo dài này, cuộc chiến
được gọi là “Trận Chiến Giành các
Ngọn Đồi” (the Battle for the Hills).
8/ Chiến tranh trên không và trên
biển.
Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến đầu
tiên mà các máy bay phản lực xung trận. Ngay từ
khi cuộc chiến bắt đầu, các máy bay thả
bom và chiến đấu của Hoa Kỳ và các nước
Đồng Minh, từ các căn cứ đặt
tại Nhật Bản, Okinawa và Nam Triều Tiên, đă
bay tự do trên miền Bắc Triều Tiên để
yểm trợ các lực lượng bạn dưới
đất, oanh tạc căn cứ và các toán quân địch.
Nhưng sau đó, Liên Xô đă cung cấp cho Bắc
Triều Tiên các phi cơ
Mig-15 và các trận không chiến đă diễn ra
với các phi cơ này của Liên Xô và các máy bay F-86
của Hoa Kỳ trên lănh thổ Bắc Triều Tiên
bởi v́ các máy bay Đồng Minh không được
phép bay qua sông Yalu (Áp Lục) và các phi cơ Mig-15 ít khi
bay xuống phía dưới vĩ tuyến 38.
Về sau, các máy bay oanh tạc
của Đồng Minh được trang bị bộ
phận “shoran” (short
range navigation), một kỹ thuật hàng không mới,
cho phép ném bom chính xác vào ban đêm. Cũng trong
giai đoạn này, các máy bay trực thăng lần
đầu tiên được dùng để chuyên
chở binh lính ra trận tuyến và thực hiện
việc giải cứu các phi công lâm nạn.
Trong cuộc chiến này, Không Quân, Hải Quân và
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đă thiệt
mất hơn 2,000 máy bay, phần lớn do các súng pḥng
không của địch. Các phi công
Đồng Minh cũng phá hủy hơn 1,000 máy bay
của phe Cộng Sản, giết hại hơn 284,000
địch quân.
Trên mặt biển, lực lượng
Đồng Minh gồm 80 khu trục hạm, 16 hàng không
mẫu hạm, 8 tuần dương hạm và 4 tầu
chiến. Hải Quân Hoa Kỳ đă giúp các toán
bộ binh đổ bộ, oanh tạc các mục tiêu trên
bờ. Wonsan là thành phố kỹ nghệ và lọc
dầu của Bắc Triều Tiên, đă bị phong
tỏa do hải quân trong hơn hai năm.
9/ Cuộc Chiến chấm
dứt.
Các hy vọng về ḥa binh gia tăng khi đại
biểu của Liên Xô là ông Jacob
Malik đề nghị tại Liên Hiệp Quốc
cuộc ngưng chiến vào ngày 23/6/1951. Tới ngày
30/6, theo chỉ thị của Hoa Thịnh Đốn, Tướng
Ridgway đă cho thi hành các buổi gặp gỡ giữa
các nhân viên quân sự Đồng Minh và Cộng
Sản để thảo luận việc ngưng
chiến.
Cuộc thảo luận ngưng chiến bắt đầu
vào ngày 10/7 tại Kaesong rồi được dời
về Panmumjom (Bàn Môn Điếm)
vào ngày 25/10. Sự ổn định gần kề vào
ngày 27/11 khi cả hai bên đồng ư rằng chiến
tuyến hiện tại là lằn chia đôi giữa hai
miền Bắc và Nam nếu cuộc ngưng chiến
đạt được trong ṿng 30 ngày. Sự
thỏa thuận này cũng khiến cho cuộc chiến
bớt dữ dội.
Nhiều vấn đề đă được đặt
ra, đặc biệt việc các tù binh tự nguyện
hồi hương đă làm cản trở sự
thỏa thuận kể trên. Bộ Chỉ Huy Liên
Hiệp Quốc nhấn mạnh rằng tù binh thuộc
cả hai phía phải được tự do chọn
lựa trở về quê hương hay không, trong khi
nhiều tù binh Trung Cộng đă phản đối
việc bắt họ trở về sống dưới
chế độ Cộng Sản. Một số tù binh
Bắc Triều Tiên cũng từ chối trở về
miền Bắc cũ của họ trong khi các người
Cộng Sản không chấp nhận rằng các binh lính
của họ đă thiếu trung thành.
Vào cuối tháng 4/1952, cuộc thảo luận bị
bế tắc v́ vấn đề tự nguyện
hồi hương. Cuộc chiến lại tiếp
diễn. Qua tháng 5/1952, Tướng
Mark W. Clark thay thế Tướng Ridgway làm Tổng Tư
Lệnh quân đội Đồng Minh rồi vào
tháng 1 năm 1953, ông Dwight D. Eisenhower trở nên Tổng
Thống Hoa Kỳ. Vào ngày 5/3/1953,
lănh tụ của Liên Xô là Joseph
Stalin qua đời. Sau cái tang này, các nhà lănh tụ
Xô Viết bắt đầu nói tới sự cần
thiết phải ổn định trong ḥa b́nh. Vào ngày
28/3, phe Cộng Sản đồng ư trao đổi các tù
binh bị bệnh và bị thương và cho thấy
họ muốn nối tiếp lại cuộc ngưng
chiến. Các thương thảo tiếp tục vào hai
tháng 4 và 5. Phe Đồng Minh nhận lại 684 tù binh
bị thương và bị ốm đau, trong đó có
149 người Mỹ, và đă hoàn trả 6,670 tù binh
Cộng Sản.
Vào ngày 26/4/1953, phe
Cộng Sản chấp nhận việc tự nguyện
hồi hương qua sự kiểm soát của Ủy
Ban Hồi Hương của các quốc gia trung lập,
gồm có các đại diện của Tiệp
Khắc, Ấn Độ, Ba Lan, Thụy Điển và
Thụy Sĩ.
Cuối cùng, Chiến Tranh Triều
Tiên chấm dứt vào ngày 27/7/1953 khi Hoa Kỳ và
Bắc Triều Tiên kư tên vào bản đ́nh chiến
trong khi đó Bắc và Nam Triều Tiên không hề kư
một bản văn ḥa b́nh vĩnh viễn nào và quân
lực Hoa Kỳ vẫn c̣n đóng tại Nam Triều
Tiên để ngăn cản các thù nghịch giữa
hai phía. Một vùng trái
độn, được
gọi là vùng phi quân sự, đă chia cách hai miền.
Vùng này rộng 4 cây số (2.5 dặm) dọc theo
chiến tuyến cuối cùng. Nam Triều Tiên được
lợi 3,880 cây số vuông (1,500 dặm vuông). Một
ủy ban đ́nh chiến quân sự gồm các đại
diện thuộc cả hai phía, đă theo dơi việc
đ́nh chiến.
Sau khi đ́nh chiến, cả hai phe đều tố cáo
phe bên kia là đă hành hạ các tù binh và là các
tội phạm chiến tranh. Bắc Triều Tiên và
Trung Cộng c̣n bị tố cáo là đă “tẩy năo”
các tù binh. Đại Hội Đồng Liên Hiệp
Quốc đă ra nghị quyết kết án tất
cả các hành động vô nhân đạo.
Chiến Tranh Triều Tiên là
một trong các cuộc chiến đẫm máu nhất
trong lịch sử. Vào khoảng một triệu người
dân thường của Nam Triều Tiên bị giết
hại, nhiều triệu người trở thành không
nhà cửa. Hơn 560,000 quân lính LHQ
và Nam Triều Tiên bị giết trong khi đó vào
khoảng 1,600,000 binh lính Cộng
Sản bị giết, bị thương hay bị
mất tích.
Hoa Kỳ đă chi phí 67
tỉ mỹ kim vào cuộc chiến này. Hầu như
tất cả các miền của Nam Triều Tiên đều
bị thiệt hại nặng nề. Vào khoảng 1
triệu người dân thường bị giết
tại Nam Triều Tiên và thiệt hại về tài
sản vào khoảng 1 tỉ mỹ kim. Các thống kê không
ghi số thiệt hại về dân sự của
Bắc Triều Tiên.
Vào tháng 9/1953, phe Đồng Minh và Cộng Sản đă
hoàn thành việc trao đổi 88,559
tù binh. Các tù binh không chịu hồi hương
đều do Ủy Ban Hồi Hương của các nước
trung lập cai quản và cuối cùng, đă có số tù
binh từ chối về nước như sau:
- 14,227
người Trung Hoa,
- 7,582
người Bắc Triều Tiên,
- 325
người Nam Triều Tiên,
- 21
người Mỹ và
- 1
người Anh.
Vào năm 1954, các viên chức Liên Xô và đại
diện các nước tham chiếm tại Triều Tiên
đă hội họp tại Geneva, Thụy Sĩ, nhưng
các nhà thương thuyết đă thất bại khi t́m
ra một kế hoạch ḥa b́nh vĩnh viễn cho
xứ Triều Tiên.
Sau Chiến Tranh Triều Tiên,
thế giới bị chia thành ba khối: tư bản,
cộng sản và thế giới thứ ba (the Third
World), gồm các nước nhỏ, trung lập, dễ
dàng bị lôi cuốn vào một trong hai khối trên.
Chiến Tranh Triều Tiên đă không giải quyết
được vấn đề thống nhất đất
nước, là giấc mơ của dân tộc Triều
Tiên. Sau chiến tranh, miền Nam Triều Tiên đă
phục hồi và trở nên thịnh vượng,
được coi là một trong bốn con Hổ
của châu Á, trong khi miền Bắc vẫn sinh sống
trong cảnh nghèo đói, lạc hậu, bị đàn
áp khổ cực v́ chính sách tàn bạo của chế
độ Cộng Sản do nhà độc tài Kim
Nhật Thành (Kim Il Sung) rồi sau này do người con là
Kim Chính Nhật (Kim Jong-Il), và hiện nay là Kim Chính
Ân (Kim Jong-un).
Phạm
Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica
Encyclopedia; A History of the World in the Twentieth Century by J. A. S.
Grenville, The Belknap Press of Harvard Univ. Press,
Cambridge, Massachusetts, 2000.
https://en.wikipedia.org/wiki/Korean_War
|