Cộng
sản tấn công Huế
Trần Gia Phụng |
1. Toàn cảnh Cuộc
tấn công diễn ra sớm nhứt tại Nha Trang
đúng 0 giờ đêm Giao thừa rạng mồng
Một Tết Mậu Thân theo lịch NVN, tức đêm
29 rạng 30-1-1968. Sau đó nửa giờ xảy ra tại
Quảng Nam, B́nh Định... Tại Quảng Nam, CS pháo
kích vào trại định cư Trà Kiệu, ở phía
Nam thành phố Đà Nẵng khoảng 30 cây số.
Cộng sản rút lui trễ nhất tại Huế vào
ngày 25-2-1968. Như
vậy cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân
của CS diễn ra trong gần một tháng. Trong suốt tháng nầy, CS tấn công 44
địa điểm tại các thị trấn,
tỉnh lỵ và thành phố sau đây: - Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam,
Quảng Tín (Tam Kỳ), Quảng Ngăi. (Vùng I Chiến
thuật) - B́nh Định, B́nh Thuận, Tuyên Đức
(Đà Lạt). (Vùng II Chiến thuật) - Sài G̣n-Chợ Lớn-Gia Định, Biên Ḥa,
Long B́nh, B́nh Dương, Bà Rịa. (Vùng III Chiến
thuật) - Phong Dinh (Cần Thơ), Vĩnh Long, Kiến Ḥa,
Định Tường, Kiên Giang, Vĩnh B́nh (Trà Vinh),
G̣ Công, Bạc Liêu. (Vùng IV Chiến thuật) Trong số những nơi bị CS tấn công,
hai địa điểm quan trọng nhứt mà CS
nhắm tới là hai thành phố Sài G̣n và Huế. Sài G̣n là thủ đô của VNCH. Bộ
máy chính quyền trung ương đóng tại đây.
Sài G̣n c̣n là nơi tập trung trụ sở các ṭa
đại sứ, các cơ quan truyền thông trong và ngoài
nước. Cộng sản quyết tấn công Sài G̣n
mạnh mẽ để gây tiếng vang lớn trên
thế giới. V́ tầm quan trọng của mặt trận Sài
G̣n, CS tung vào đây bộ chỉ huy cao cấp nhứt
như Nguyễn Văn Linh (bí thư mặt
trận Sài G̣n), Vơ Văn Kiệt (phó bí thư), Trần
Văn Trà (chỉ huy phó Lực lượng vơ trang
Mặt trận Dân tộc Giải phóng (MTDTGP), Mai Chí
Thọ, Lê Đức Anh... (Chính Đạo, Mậu
Thân 68: thắng hay bại, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1998, tr.
173). Cộng sản mở cuộc tấn công Sài G̣n
vào lúc 2 giờ sáng mồng 2 Tết, tức rạng ngày
31-1-1968, đánh vào Dinh Độc Lập, ṭa đại
sứ Hoa Kỳ, đài Phát thanh Quốc gia, Bộ Tư
lệnh Hải quân, Bộ Tổng tham mưu, Trung tâm
Huấn luyện Quang Trung, và nhiều vị trí vùng
phụ cận. Lúc đó, tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu về Mỹ Tho nghỉ Tết tại quê
vợ. Phó
tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đă nhạy bén
chỉ huy chận đứng được mũi
đánh chiếm đài Phát thanh Quốc gia của CS (Chính Đạo, Mậu Thân, sđd. tr. 183), v́
nếu CS chiếm được đài nầy, phát
thanh trên toàn quốc lời kêu gọi tổng khởi
nghĩa, th́ tai hại về ngoại giao và nội
trị không thể nào lường được. Tuy
bị bối rối lúc đầu, nhưng quân đội
VNCH phản ứng kịp thời, làm chủ t́nh h́nh
ngay trong ngày mồng 3 Tết. Các đơn vị CS
thất bại, phải lần lượt rút ra
khỏi ṿng đai thành phố Sài G̣n trong ṿng một
tuần lễ. 2. Huế trước Mậu Thân Thành phố bị CS chiếm lâu nhứt và
bị thiệt hại nặng nhứt về nhân
mạng cũng như tài sản là thành phố Huế.
Huế là tỉnh lỵ của tỉnh Thừa Thiên, cách
sông Bến Hải, ranh giới Bắc và Nam Việt Nam,
khoảng 80 cây số về phía nam. Các khuynh hướng
chính trị của dân chúng Huế lúc đó có thể
sơ lược như sau: Huế là kinh đô của Việt Nam dưới
thời nhà Nguyễn (1802-1945). Vị vua cuối cùng
của nhà Nguyễn, vua Bảo Đại (trị v́
1925-1945), bị Việt Minh áp lực và phải thoái
vị vào tháng 8-1945. Tuy vậy, ảnh hưởng
của triều Nguyễn ở Huế vẫn c̣n khá
mạnh, do con cháu của hoàng gia cũng như con cháu
của những quan lại triều đ́nh cũ c̣n
sống ở Huế khá đông. Hội đồng
Nguyễn Phúc tộc, hậu thân của Tôn nhơn
phủ, dưới sự lănh đạo tinh thần
của cựu hoàng thái hậu, tức Đức bà
Từ Cung, thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại,
vẫn tiếp tục sinh hoạt. Vào thời điểm
năm 1968 (Mậu Thân) những người nầy hy
vọng cựu hoàng Bảo Đại, lúc đó cư
ngụ ở Pháp, có thể đóng một vai tṛ quan
trọng đáp ứng giải pháp ḥa giải giữa
các bên lâm chiến ở Việt Nam. Huế là trung tâm Phật giáo lâu đời
với những ngôi chùa danh tiếng như Báo Quốc,
Từ Đàm, Thiên Mụ, Từ Hiếu, Tường Vân...
Chùa Báo Quốc c̣n là một Phật học viện
lớn nhứt và lâu đời nhứt miền Trung, nơi
đào tạo nhiều tu sĩ Phật giáo sau nầy
đi hoằng pháp và trụ tŕ các chùa trên toàn VNCH. Các
tăng sĩ Phật giáo xuất thân từ các chùa
ở Huế như ḥa thượng Thích Tịnh
Khiết, thượng tọa Thích Trí Quang, Thích
Thiện Minh, Thích Trí Thủ, giữ những
chức vụ cao cấp trong Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất, được thành lập
theo Hiến chương ngày 4-1-1964, và được chính
phủ thừa nhận bằng sắc luật số
14/5 kư ngày 14-3-1964. Một số lănh tụ Phật giáo
tranh đấu thường khuyến khích sinh viên
học sinh biểu t́nh chống chính phủ, đ̣i
hỏi ḥa b́nh, trung lập. Huế cũng là nơi có Ṭa Tổng giám
mục, một địa phận Ky-Tô giáo La Mă
được thành lập vào năm 1850. Đại
chủng viện Kim Long, thường được
gọi là chủng viện Xuân Bích, do các linh mục tu
hội Saint Sulpice (phiên âm là Xuân Bích) giảng dạy,
chuyên đào tạo các linh mục. Tổng thống Ngô
Đ́nh Diệm, gốc người Quảng B́nh nhưng
sinh sống từ nhỏ tại làng Phủ Cam, một
vùng Ky-Tô giáo La Mă nổi tiếng ngoan đạo ở
cố đô. Huế là địa bàn hoạt động
khá mạnh của các đảng Việt Quốc và
Đại Việt. Đại
Việt đă từng tổ chức chiến khu Ba Ḷng
(Quảng Trị), gần Huế để chống
chế độ tổng thống Ngô Đ́nh Diệm vào
các năm 1954-1955. Huế là chốn cựu đô, nên hệ
thống giáo dục ở đây lâu đời và
rộng răi. Ngoài trường Quốc Học
được thành lập từ năm 1898, các trường
trung học khác cũng khá lâu đời và đông
học sinh, kể cả các tư thục. Hơn
nữa, phải kể thêm các trường do các tu sĩ
đảm trách như hệ thống trường
Bồ Đề của Phật giáo, và các trường
Ky Tô giáo La Mă như trường Thiên Hựu
(Providence), trường B́nh Linh (Pellerin), và trường
Jeanne d’Arc (nữ trung học của ḍng Thánh Phaolô thành
Chartres.) Tại Huế, tổng thống Ngô Đ́nh
Diệm thành lập viện đại học năm
1957. Viện đại học nầy là trung tâm văn
hóa thu hút sinh viên khắp các tỉnh miền Trung
về đây theo học. Sinh viên càng ngày càng đông,
và thường tham gia cũng như tổ chức các
cuộc biểu t́nh tại Huế chống chính phủ
từ 1963 đến 1967. Cũng tại Huế, “Hội đồng Nhân
dân Cứu quốc” ra đời năm 1964 trong
đó có một số giáo sư và giảng viên
Viện đại học Huế như Lê Khắc
Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Cao Huy Thuần, Hoàng Văn
Giàu... Báo Lập Trường của nhóm nầy
ủng hộ những quan điểm ḥa b́nh và trung
lập của một số lănh tụ Phật giáo tranh
đấu miền Trung. Hội đồng nầy
được xem là đă góp tay vào việc kích động
các cuộc biểu t́nh dữ dội tại Huế
chống Hiến chương Vũng Tàu của
Nguyễn Khánh năm 1964. Những cuộc biểu t́nh ở Huế thường
do Tổng hội sinh viên Huế tổ chức. Sinh
viên luôn luôn hăng hái và bồng bột. Trong giới
sinh viên, có thể có sự trà trộn các phần
tử thân cộng, hay CS trá h́nh, mà sinh viên lúc đó
không nhận chân được. Cao độ của các
cuộc biểu t́nh nầy là cuộc đốt phá Pḥng
Thông tin Hoa Kỳ (U.S.I.S. = United States Information Services)
tại Huế ngày 1-6-1966 trên đường Lư Thường
Kiệt. Trong vụ “biến động miền
Trung” sau đó, một số nhà lănh đạo
Phật giáo ở Huế chống đối chính
phủ bằng cách kêu gọi Phật tử đưa
bàn thờ Phật xuống đường để
cản trở lưu thông trong thành phố. Tuy nhiên, hành
động quá khích nầy không được đồng
thuận trong giới Phật tử, nên it người hưởng
ứng tuy bề ngoài rầm rộ. Trật
tự tại Huế và các tỉnh miền Trung
được văn hồi vào cuối tháng 6-1966 khi chính
phủ trung ương gởi Thủy quân lục
chiến và Cảnh sát dă chiến tăng viện,
thẳng tay dẹp tan các cuộc rối loạn. Sau sự kiện nầy, một số trí
thức, thanh niên, sinh viên lo sợ bị chính quyền
VNCH bắt giam, đă “nhảy núi”, bỏ trốn lên
rừng chạy theo CS. Những người nầy
sẽ có mặt trong đoàn quân CS tấn công Huế vào
dịp Tết Mậu Thân. Cũng sau vụ “biến động miền
Trung”, chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, tư
lệnh Sư đoàn I Bộ binh thuộc Quân đoàn I
tại Vùng I Chiến thuật quân đội Việt
Nam Cộng Ḥa, bị thuyên chuyển. Đại
tá Ngô Quang Trưởng, thuộc Sư đoàn Nhảy
dù, được bổ nhiệm thay thế. Bộ tư lệnh Sư đoàn I BB đóng
ở Mang Cá, phía bắc hoàng thành Huế.
Ngày 4-2-1967, đại tá Trưởng được
vinh thăng chuẩn tướng. Chính trong thời gian chuẩn tướng Trưởng
đang chỉ huy Sư đoàn I BB, th́ CS mở cuộc
tấn công vào thành phố Huế nhân dịp Tết
Mậu Thân (1968). Do t́nh h́nh Huế phức tạp sau vụ
“biến động miền Trung”, phía CS hy vọng
Huế đủ chín mùi cho một cuộc tổng
khởi nghĩa nếu cuộc tổng tấn công
xảy ra. Từ đó, CS chuẩn bị khá kỹ lưỡng
mặt trận Huế không khác ǵ mặt trận Sài G̣n. 3. Cuộc tổng tấn công Trước Tết Mậu Thân, chỉ huy đặc
khu Trị-Thiên-Huế (tức Quảng Trị, Thừa
Thiên và thành phố Huế) của CS là thiếu tướng
Trần Văn Quang. Trần Văn Quang cử Lê Minh,
bí thư tỉnh uỷ đảng Lao Động
(Cộng Sản) tỉnh Thừa Thiên-Huế, phụ trách
mặt trận Trị-Thiên. Minh chia mặt trận Trị-Thiên thành 3 khu
vực: mặt trận Quảng Trị giao cho Hồ Tú
Nam phụ trách; mặt trận Phú Lộc (phía nam
Thừa Thiên) giao cho một cán bộ tên Chi chỉ huy;
c̣n mặt trận Huế, quan trọng nhất, do Lê
Minh đích thân đảm nhận. Minh lại chia
Huế thành hai điểm để tấn công: phía
bắc Huế (tả ngạn sông Hương), và phía
nam Huế (hữu ngạn sông Hương Huế) Cánh quân phía bắc Huế do một người
tên Thu chỉ huy, Trần Anh Liên làm chính uỷ. Lực
lượng gồm có trung đoàn 6 (gọi là E-6,
gồm có 3 tiểu đoàn), thêm 1 tiểu đoàn đặc
công, 1 đại đội pháo và du kích hai quận Hương
Trà và Hương Điền. Cánh quân nầy xuất
phát đúng vào tối Giao thừa (29-1-1968) từ
rừng núi tây Huế, chia làm 4 mũi đánh vào
cửa Chính Tây (nằm về tay trái hoàng thành từ
Kỳ đài nh́n vào), cửa An Ḥa (cửa Tây
Bắc), Kỳ đài (cột cờ trước
Ngọ môn), sân bay Tây Lộc và đồn Mang Cá.
Cộng quân làm chủ ngay được cửa Chính Tây,
cửa An Ḥa và Kỳ đài, nhưng
thất bại ở sân bay Tây Lộc và đồn Mang
Cá. Đồn
Mang Cá lúc đó là nơi đặt bộ Tư
lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh do chuẩn tướng
Ngô Quang Trưởng đứng đầu. Đồn Mang Cá là điểm tựa vững
vàng để quân đội VNCH cũng như Đồng
minh tổ chức phản công trở lại. Qua cửa Chính Tây, CS tiến chiếm Đại
nội. Cộng sản dùng bờ thành Đại
nội để bảo vệ Kỳ đài, nơi
đó, ngày 31-1 (mồng 2 Tết), CS treo một lá
cờ lớn của MTDTGPMNVN. (Don Oberdorfer, TET, New York: A Da Capo Paperback,
1971, tr. 230.) Theo tài liệu của CS th́ đây là
cờ của Liên Minh các Lực Lượng Dân
Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh Việt Nam (Chính Đạo
Mậu Thân, sđd. tr. 126). Trong bài tham luận tŕnh bày
tại Huế ngày 15-12-2007, tác giả Nguyễn Đắc
Xuân, theo tài liệu của đảng bộ Huế, cũng
cho rằng đây là cờ Liên minh. Không ai lạ ǵ
việc những người trong nước đều
phải nói theo đảng CS. Tuy
nhiên, cần chú ư rằng ngày 31-1, tức là ngày CS treo
cờ ở Kỳ đài, Liên minh nầy chưa
được thành lập, làm sao có cờ ? Ở
những nơi khác, Sài G̣n hay bất cứ thành
phố nào ở miền Nam, không ai thấy hay biết ǵ
về lá cờ Liên minh. Liên minh nầy chỉ là
một mặt trận chính trị, giống như
Mặt trận Tổ Quốc của Hà Nội, không
thể được quân đội cộng sản
treo cờ. Từ
Kỳ đài, CS tiến quân theo mé bờ tả
ngạn sông Hương (tức bờ phía bắc),
chiếm đồn Cảnh sát chợ Đông Ba,
bắt tay với một cánh quân CS khác cũng của
E-6, làm chủ hoàn toàn khu vực Đông Ba, Gia Hội. Cánh
quân phía nam Huế, hay bên hữu ngạn sông Hương,
tức bên có ṭa tỉnh trưởng, các trường
Đồng Khánh, Quốc Học, do Thân Trọng
Một chỉ huy, Nguyễn Vạn làm chính uỷ.
Lực lượng gồm có trung đoàn E-9 của sư
đoàn 309, trung đoàn 5 (4 tiểu đoàn), 1 tiểu
đoàn pháo, và 4 đội đặc công. (Chính Đăo,
Mậu Thân…,sđd. tr. 108-110. Chính Đạo trích
dẫn từ tài liệu của Thành uỷ CS Huế,
Huế, Xuân 1968.)
(Vơ
Hương An tŕnh bày.) Cánh quân nầy dự định xuất phát
tối Giao thừa (29-1), nhưng vừa xuất phát th́
bị phi cơ thám thính Mỹ phát hiện và bị pháo
kích, phải lẩn tránh, nên tiến chậm. Sáng
mồng 1 Tết (30-1) cánh quân nầy mới tiếp
tục tiến về phía thị xă Huế. Sau 4 ngày giao tranh, CS chiếm gần hết vùng
hữu ngạn thành phố Huế cho đến lao xá
Thừa Phủ (gần sát ṭa tỉnh trưởng
Thừa Thiên). Cộng
sản thả khoảng 2,000 tù nhân đang bị giam
trong lao xá. Những người nầy liền
được CS vơ trang để tiếp tay cho CS. Quân đội VNCH chỉ c̣n giữ đài Phát
thanh, tiểu khu Thừa Thiên, bản doanh MACV (Hoa
Kỳ) đặt ở khách sạn Thuận Hóa, và
Bến tàu Hải Quân, bên bờ nam sông Hương
(hữu ngạn). Nếu đi từ phía chợ Đông
Ba (tả ngạn), theo cầu Trường Tiền qua
bờ phía hữu ngạn, đi thẳng là đường
Duy Tân dẫn đến An Cựu. Ngay
tại chân cầu, đầu đường Duy Tân, phía
tay mặt là đài Phát thanh, phía tay trái, cách khoảng
trên 500 thước là Bến tàu Hải quân (gần khách
sạn Hương Giang). Đi thẳng từ cầu Trường
Tiền về An Cựu, dọc theo đường Duy Tân
(trước 1975) phía bên trái, cách cầu khoảng 500
thước là Tiểu khu Thừa Thiên và khách sạn
Thuận Hóa, nơi đóng trụ sở của MACV,
viết tắt của chữ Military Assistance Command,
Vietnam, tức Bộ Chỉ huy Hỗ trợ Quân
sự tại Việt Nam. 4. Tổng khởi nghĩa thất bại Về phương diện chính trị, ngay sau
khi chiếm vùng tả ngạn (phía bắc Huế, vùng
Thành nội, chợ Đông Ba...), ngày mồng 2 Tết
(31-1), CS liền tổ chức cầm quyền. Uỷ
Ban Nhân Dân (danh xưng của CS) trong Thành nội
gồm hai quận, do Nguyễn Hữu Vấn (giáo sư
âm nhạc), làm chủ tịch quận 1, và Nguyễn
Thiết (sinh viên Đại học Luật khoa), làm
chủ tịch quận 2. Phía hữu ngạn, CS không
lập kịp các uỷ ban nhân dân, chỉ chú tâm vào
việc lùng bắt và kiểm soát tù hàng binh. Ngày mồng 3 Tết (1-2-1968) ,
đài phát thanh Hà Nội loan báo thành lập tổ
chức Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân
Chủ Và Ḥa B́nh tại Huế do Lê Văn Hảo, giáo
sư Đại học Văn khoa Huế, làm chủ
tịch, và Hoàng Phủ Ngọc Tường làm tổng
thư kư. (Chính Đạo, Mậu Thân...sđd. tr. 131.
Thụy Khê, “Nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc
Tường về biến cố Mậu Thân ở
Huế”, phỏng vấn trên đài RFI, 12-7-1997,
đăng lại trên tạp chí Hợp Lưu,
California, số 36, tháng 8-9-1997, tt. 197-200.) Cần phân biệt ở đây, Lê Văn
Hảo làm chủ tịch Liên Minh Các Lực Lượng
Dân Tộc, Dân Chủ…tại Huế. C̣n trên toàn
miền Nam, Liên Minh nầy do Trịnh Đ́nh Thảo
làm chủ tịch. Đài phát thanh Hà Nội cũng
thông báo ngày 14-2-1968, Lê Văn Hảo được
đưa lên làm chủ tịch chính quyền cách
mạng Huế. Phó chủ tịch là bà Đào Thị
Xuân Yến (c̣n gọi là bà Tuần Chi), và Hoàng Phương
Thảo (Thường vụ Thành uỷ CS). (Chính Đạo,
Mậu Thân,sđd. tr. 131.) Nguyễn Đắc Xuân, khi c̣n là sinh viên
sống tại Huế, đă từng tổ chức
đoàn “Phật Tử Quyết Tử” vào năm 1966
để chống chế độ “Thiệu
Kỳ”, rồi bỏ trốn theo CS, nay trở lại
Huế, phụ trách đội “Công tác Thanh niên”. Xuân
được CS giao nhiệm vụ tổ chức “đoàn
Nghĩa binh”, gồm những quân nhân Cộng Ḥa
bị kẹt trong vùng CS tạm chiếm, gọi là “Quân
nhân Sư đoàn 1 ly khai”. |