Cuộc tấn công Ṭa Đại Sứ Mỹ-Saigon 1968 Don North- |
Toàn Như (chuyển ngữ) LTS.–
Năm nay, tưởng niệm 50 năm biến cố
Tết Mậu Thân ở Huế, các tổ chức trong
cộng đồng người Việt ở Nam
California sẽ tổ chức một buổi Tưởng
Niệm chung tại Tượng Đài Chiến Sĩ
Việt Mỹ và một cuộc biểu t́nh tuần hành
tố cáo và lên án tội ác diệt chủng của quân
CS khi giết chết và chôn sống hơn 3 ngàn người
dân Huế, dịch giả Toàn Như đă gửi
đến Trang Cựu Chiến Binh /Người Việt
một bài dịch về cuộc tấn công liều
chết của cộng sản vào Ṭa Đại Sứ
Mỹ. Bài viết của phóng viên Don North của hăng
thông tấn ABC News làm việc tại Saigon.
Là một phóng viên làm việc cho hăng thông tấn ABC
News tại Việt Nam, tôi (phóng viên Don North – ghi
chú của người dịch) đă ở đó
chứng kiến cuộc Tấn Công Tết 1968 và
hầu hết các trận đánh lớn, kể từ
ngày 30 Tháng Giêng tại Khe Sanh cho đến ngày 25 Tháng
Hai tại Huế khi TQLC Mỹ sau cùng đă giải
tỏa cổng Đông Nam của Thành Nội chấm
dứt một trận đánh đẫm máu nơi
đây. Tuy nhiên, tại thủ đô Sài G̣n, bên trong ṭa
nhà có tường bao bọc của Ṭa Đại
Sứ Hoa Kỳ vào lúc rạng sáng ngày 31 Tháng Giêng,
đă nổ ra một trong những trận đánh
chủ chốt và quan trọng của cuộc chiến. Trước cuộc tấn công vào Sài G̣n,
tại một tiệm sửa xe hơi đầy
dầu mỡ tại số 59 đường Phan Thanh
Giản (nay là đường Điện Biên
Phủ), 19 tên đặc công Việt Cộng (VC)
đă leo lên một chiếc xe tải nhỏ hiệu
Peugeot và một chiếc taxi để lái đến
mục tiêu của chúng là ṭa Đại Sứ Mỹ.
Mặc những bộ đồ bà ba đen và những
băng đỏ trên cánh tay, họ là những thành viên
của Tiểu Đoàn Đặc Công C-10 khá nổi
tiếng. Hầu hết họ được sinh ra
tại Sài G̣n nên khá quen thuộc với các đường
phố của thành phố đông đúc này. Trước đó hai ngày, những cái
cần xế nặng ngụy trang như đang chứa
cà chua, cùng với những thúng gạo, đă
được chở tới căn nhà bên cạnh
tiệm sửa xe. Chúng cũng đă chất chứa
những khẩu súng AK-47, đạn B-40 và
những túi thuốc nổ cho 19 đặc công thi hành
sứ mạng. Ngay sau nửa đêm, những tên lính này
lần đầu tiên mới được thuyết
tŕnh hướng dẫn về kế hoạch tấn công.
Không có mô h́nh của địa điểm, không có
sự hướng dẫn phải làm ǵ sau khi vào bên
trong ṭa nhà, không nói ǵ đến việc tăng cường
hay con đường rút lui và cũng không xác định
đây có thể là một nhiệm vụ cảm
tử. Cuộc
tấn công ṭa đại sứ có thể chỉ là
một phần nhiệm vụ của tiểu đoàn
đặc công để tạo thành mũi nhọn
trong cuộc tấn công vào Sài G̣n, được
hỗ trợ bởi 11 tiểu đoàn với tổng
cộng khoảng 4,000 quân. Có lẽ rằng, cái mà họ thiếu
trong kế hoạch có thể đă được
cố t́nh vạch ra trong cái viễn ảnh to lớn táo
bạo của những cuộc tấn công. Sứ
mạng của chúng tại Sài G̣n vào sáng ngày hôm đó
là chiếm cứ 6 mục tiêu gồm có: Ṭa
Đại Sứ Mỹ, Dinh Tổng Thống, Đài Phát
Thanh Quốc Gia, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Bộ
Tổng Tham Mưu tại căn cứ không quân Tân
Sơn Nhứt và Ṭa Đại Sứ Phi Luật Tân. Chúng phải chiếm các mục tiêu này
trong ṿng 48 giờ cho đến khi các tiểu đoàn
VC khác vào thành phố tiếp cứu họ. Những người
sống sót sau cuộc tấn công sẽ được
tuyên dương ngay lập tức… Trên đường tới ṭa đại
sứ, các đặc công đă được chỉ
điểm lái xe không có đèn bởi một cảnh
sát thường phục Nam Việt Nam. Viên cảnh sát
này thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia
Miền Nam VN, vẫn được gọi là
“Chuột Bạch,” để tránh rắc rối
đă lẩn vào trong bóng tối khi chiếc xe tải và
taxi chạy qua. Các đặc công đă gần như
may mắn đến đối diện trước
tuyến pḥng thủ đầu tiên của ṭa đại
sứ. Rẽ vào Đại Lộ Thống Nhất,
họ chạm trán thêm bốn sĩ quan cảnh sát,
đă hầu như bỏ đi không nổ một phát
súng. Vào lúc 2
giờ 45 sáng, các đặc công lái tới cửa
trước ṭa đại sứ và khai hỏa với
AK-47 và hỏa tiễn B-40. Bên ngoài lối vào ṭa đại
sứ, hai Quân Cảnh (QC) Mỹ thuộc Tiểu Đoàn
716 – hạ sĩ Charles Daniel, 23 tuổi, ở
Durham, N.C., và binh nh́ Bill Sebast, 20 tuổi, ở
Albany, N.Y. – bắn trả lại trong khi lùi vào bên
trong chiếc cổng sắt nặng nề và khóa nó
lại. Vào lúc 2 giờ 47, họ đánh điện “Signal
300” – mă số ngụy danh của Quân Cảnh có
nghĩa là bị địch tấn công. Một
tiếng nổ vô cùng to lớn đă làm rung chuyển
ṭa nhà khi các đặc công làm thủng một lỗ
rộng khoảng 3 feet trên bức tường bằng
thuốc nổ. Daniel la vào trong máy, “Chúng
nó đang đến – cứu tôi với!” và chiếc máy cũng im bặt. Hai tên lính đầu tiên của
Tiểu Đoàn C-10 (đặc công) đi qua cái lỗ
là hai thành viên cao cấp, Bảy Tuyên và Út Nhỏ.
Họ và hai quân cảnh Mỹ đều chết trong
trận nổ súng cận chiến. Các đặc công c̣n
lại có khoảng hơn 40 cân Anh thuốc nổ
loại plastic C-4, quá đủ để mở
đường đi vào ṭa nhà. Không có mệnh
lệnh rơ ràng sau khi những người chỉ huy
của chúng đă chết, chúng núp sau những bồn
hoa lớn h́nh tṛn trong vườn hoa ṭa đại
sứ và bắn trả vào lực lượng Mỹ
đang bắn lại chúng từ những mái nhà bên ngoài
ṭa đại sứ. Chỉ ít phút sau, khoảng 3 giờ sáng,
phát ngôn viên Ṭa Đại Sứ Mỹ Barry Zorthian
từ nhà ông cách đó mấy block đường
đă gọi điện thoại cho văn pḥng các hăng
thông tấn báo động cho họ. Zorthian có rất
ít chi tiết, nhưng ông nói cho chúng tôi biết: Ṭa
đại sứ đang bị tấn công và đang
bị dưới hỏa lực (địch) rất
mạnh. Dick Rosenbaum, trưởng văn pḥng ABC
News, đă gọi cho tôi sau khi nhận được
điện thoại của Zorthian. Văn pḥng lúc đó
đặt tại khách sạn Caravelle, chỉ bốn
block đường cách ṭa đại sứ. Vào lúc
xảy ra, anh quay phim Peter Leydon của ABC và tôi đang
ở Sài G̣n chỉ v́ cái việc mà chúng tôi nghĩ là
đă bị xui xẻo ở Khe Sanh ngày trước
đó. Đă hàng tháng trường bất
cứ phóng viên nào có những nguồn tin đúng đắn
cũng đang mong đợi có một chuyện ǵ to
lớn xảy ra vào dịp Tết. Văn pḥng ABC và
hầu hết văn pḥng các hăng thông tấn khác đều
trong t́nh trạng báo động, mọi sự nghỉ
phép đều bị hủy bỏ và tôi đă đón
mừng Giáng Sinh với gia đ́nh tôi ở thành
phố gần đó là Kuala Lumpur, Mă Lai, vào ngày 1 Tháng
Mười Hai để tôi có thể vẫn ở
tại Việt Nam, để sẵn sàng cho một
sự kiện lớn do phía địch mang lại
một lúc nào đó trước, trong hay sau Tết.
Rất nhiều tài liệu của địch bắt
được nhiều tháng trước Tết đă
cho biết một điều ǵ đó lớn lao
sắp xảy ra. Một trong những nguồn tin quân
sự đáng tin cậy và đáng chú ư nhất vào lúc
đó là từ Trung Tướng Fred C. Weyand, tư
lệnh các lực lượng Mỹ tại Vùng III, khu
vực xung quanh Sài G̣n. Trong những tuần lễ trước
Tết, Tướng Weyand đă nói với nhiều phóng
viên điều mà ông đă nói với Tướng
William C. Westmoreland rằng: “Việt Cộng đang huy
động những đơn vị lớn được
tăng cường cùng với quân Bắc Việt và
những vũ khí mới. Qua những tù binh và tài
liệu của địch chứng tỏ rằng
sắp có một cuộc tấn công lớn xảy ra, có
thể nhắm vào Sài G̣n.” Dù đă có sự hạn
chế nghiêm ngặt cấm đưa tin về
những việc chuyển quân của quân đội
Mỹ, tuy nhiên Weyand đă nói với chúng tôi ra ngoài thông
lệ rằng, ông đă chuyển 30 tiểu đoàn
Mỹ vào những vị trí tốt hơn xung quanh Sài G̣n. Vào những tuần lễ trước
Tết, những cơ quan t́nh báo quân sự và dân
sự khác nhau, cả Hoa Kỳ và Việt Nam, đều
biết những tin tức về những hoạt động
của địch nhưng không hiểu tầm quan
trọng của chúng. Bởi những sự đối
nghịch và tranh chấp giữa các cơ quan, họ
rất ít khi trao đổi hay so sánh các tin t́nh báo
với nhau và không bao giờ sắp xếp nó thành
một nguồn tin đáng tin cậy. Họ đă
biết cái ư định của địch trong năm
1968 qua hàng núi tài liệu thu lượm được,
nhưng họ không rơ sẽ đối đầu
với cái ư định này ở nơi nào… Tuần lễ trước Tết đă
yên lặng một cách lạ kỳ. V́ không có việc
ǵ làm, tôi dẫn toán nhiếp ảnh đến trường
đua Phú Thọ ở Chợ Lớn để lấy
một ít h́nh ảnh về cái đường đua
ngựa có đường đua cong nhất trên
thế giới. Việc sử dụng bừa băi
thuốc (kích thích) trên những con ngựa đă
đưa đến những kết quả quái đản,
và thường một con ngựa què vẫn có thể
đi vào ṿng đua của kẻ thắng nếu nó
chịu đựng được đến cuối
cuộc đua. Một tuần sau đó, trường
đua Phú Thọ đă là một trung tâm yểm
trợ và là căn cứ hậu cần cho cuộc
tấn công của VC. Tuy nhiên vào buổi chiều
Chủ Nhật yên lặng đó, dường như VC
đang xâm nhập vào Sài G̣n qua ngả trường
đua ngựa – có thể biết đâu người
đánh cá lớn xếp hàng với tôi tại quầy
lănh tiền cá cược chiều hôm đó lại là
một đại tá quân đội Bắc Việt không
chừng. Trở về lại văn pḥng ABC, tôi
được gởi ngay ra phi trường để
bay đi Khe Sanh, nơi mà Tướng Westmoreland đang
mong chờ một trận đụng độ lớn
với kẻ địch trong dịp Tết ở đó. Tại Khe Sanh vào ngày 30 Tháng Giêng, Leydon
và tôi đă bị quân Bắc Việt pháo kích nặng
nề. Trong lúc nhảy xuống giao thông hào, cái ống
kính của chiếc máy ảnh 16 ly của chúng tôi
đă bị vỡ, buộc chúng tôi phải rút
ngắn thời gian ở Khe Sanh. V́ vậy, chúng tôi
đă phải bay trở lại Sài G̣n trên chiếc
C-130 ngay chiều hôm đó. Chính v́ chiếc máy ảnh bị
bể, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ bị
lỡ trận đánh của quân Bắc Việt vào Khe
Sanh. Nhưng khi bay suốt chiều dài của Việt
Nam vào đêm hôm đó, chúng tôi đă thấy dường
như cả nước đang bị tấn công. Khi chúng
tôi cất cánh khỏi Đà Nẵng, chúng tôi đă nh́n
thấy những hỏa tiễn đang lao tới. Bay qua
Nha Trang ngay sau lúc nửa đêm, chúng tôi có thể nh́n
thấy những ánh lửa lóe lên. Chúng tôi đă nghe
nói về những cuộc tấn công qua máy truyền
tin liên lạc với trạm kiểm soát dưới
đất. Nhưng vào lúc 3 giờ sáng ngày 31 Tháng
Giêng, chúng tôi đă trở về lại Sài G̣n, lái xe
ra khỏi khách sạn Caravelle trên chiếc xe Jeep của
ABC News với chiếc máy ảnh mới. Khi vừa ra
tới đường Tự Do, cách ba dăy phố
tới ṭa đại sứ, một người nào
đó, không biết là VC, lính VNCH, cảnh sát hay QC
Mỹ, đă bắn về phía chúng tôi bằng một
loại súng tự động. Một vài viên đạn
ghim vào mũi xe Jeep. Tôi tắt đèn và trở lại
văn pḥng cho đến gần sáng. Khoảng 6 giờ sáng, chúng tôi đi
bộ tới ṭa đại sứ. Khi đến
gần ṭa nhà, chúng tôi nghe thấy tiếng súng dữ
dội, và chúng tôi nh́n thấy những vệt xanh và
đỏ cắt ngang nền trời màu hồng. Những lằn đạn màu xanh
của VC đến từ ṭa nhà sứ quán và tầng
lầu của những ṭa nhà bên kia đường.
Những lằn đạn màu đỏ bắn ngược
lại phía bên kia đường. Chúng tôi bị
kẹt trong những lằn đạn. Cùng ḅ tới cái cổng với tôi là
Peter Arnett của hăng thông tấn AP. Ông phụ trách
đưa tin về cuộc chiến đă hơn 5 năm
qua và đă từng đoạt giải thưởng
Pulitzer. Nằm bên đường mương bên
cạnh những người lính QC buổi sáng hôm
đó, Arnett và tôi không biết VC đă phá thủng
lỗ ở chỗ nào trên bức tường và
tiếng súng đến từ đâu. Nhưng chúng tôi
biết đây là một sự kiện lớn. Arnett và các nhân viên AP khác là những người
đầu tiên báo tin cho thế giới biết cuộc
tấn công vào Ṭa Đại Sứ Mỹ. Vào lúc 3
giờ 15, bản tin đầu tiên đă được
gởi đi, 40 phút trước cả UPI, như sau:
“Cuộc Tấn Công Đầu Tiên: Saigon (AP) VC đă
pháo kích dữ dội vào Sài G̣n hôm Thứ Tư
tiếp theo những cuộc tấn công của chúng vào
tám thành phố chính trên toàn quốc. Cùng lúc đó,
một tiểu đội cảm tử gồm các
phiến quân đặc công đă xâm nhập vào
thủ đô và đă có ít nhất ba tên đă vào bên
trong ṭa đại sứ mới của Hoa Kỳ
gần trung tâm thành phố. TQLC Hoa Kỳ bảo vệ
ṭa đại sứ, mới khánh thành cuối năm
ngoái, đă nổ súng đối đầu với
những kẻ xâm nhập.” Một vài QC chạy tới, một người
đang d́u một tên đặc công VC bị thương
đang chảy máu. Y mặc một bộ bà ba đen và
thật là lạ, có mang một cái nhẫn ruby màu đỏ
khá lớn. Tôi phỏng vấn các lính QC và thâu âm
cuộc điện đàm của họ với các
đồng sự của họ ở bên trong những cánh
cổng. Các QC tin rằng VC đă ở bên trong ṭa nhà,
nhưng điều này sau đó mới biết là
không đúng sự thật. Arnett đă ḅ đi t́m
một cái điện thoại để báo cáo
cuộc điện đàm của QC về văn pḥng
của ông. Vào lúc 7 giờ 25, căn cứ trên cú điện
thoại của Arnett tại hiện trường, AP
đă đánh đi bản tin đầu tiên nói
rằng VC đă ở bên trong ṭa đại sứ.
“Bản tin: Vietnam, Saigon (AP) Việt Cộng đă
tấn công Sài G̣n hôm Thứ Tư và đă chiếm
giữ một phần Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ. QC
Hoa Kỳ tại hiện trường nói rằng có
khoảng 20 đặc công cảm tử VC ở bên
trong ṭa đại sứ đă chiếm giữ
một phần của tầng lầu I.” Câu hỏi được đặt ra là
VC đă vào hẳn bên trong ṭa nhà hay chỉ ở trong
ṿng rào có tính cách biểu tượng quan trọng. Tôi
đă nghe lại cái băng của ngày hôm đó, và rơ
ràng các QC đă tin rằng VC đă vào bên trong ṭa nhà. Một chiếc trực thăng đáp
trên nóc ṭa đại sứ, và các binh sĩ bắt
đầu đi xuống các tầng lầu. QC Dave
Lamborn nhận lệnh từ máy hiệu thính từ
một sĩ quan bên trong: “Đây là Waco, roger. Bạn có
thể vào cổng bây giờ được không? Đem
một lực lượng vào đó và dọn dẹp ṭa
đại sứ, ngay bây giờ! Sẽ có trực thăng
đến trên mái và sẽ có lính đi xuống. Hăy
cẩn thận để chúng ta không đụng độ
nhau. Hết.” Khi chúng tôi chuẩn bị cùng QC
chạy tới cái cổng, tôi lại có những âu lo
khác. Tôi la lớn hỏi Leydon: “OK, chúng ta c̣n bao
nhiêu phim?” Anh trả lời: “Tôi c̣n một mag
(khoảng 400 feet). Anh cần bao nhiêu?” “Chúng ta đang có một tin quan
trọng nhất của cuộc chiến với chỉ
một hộp phim. Do đó, phải ráng thu lấy
hết mọi thứ, kể cả chỗ tôi đứng.” Tôi bước lại chỗ cái huy
hiệu Hoa Kỳ đă bị nổ văng ra khỏi
bức tường ṭa đại sứ gần cái
lối vào bên cạnh. Chúng tôi chạy vội qua cái
cổng chính vào bên trong vườn, nơi mà một
trận chiến đẫm máu đă xảy ra. Kư
giả Kate Webb của UPI sau này đă mô tả nó
chẳng khác ǵ cái cửa hàng thịt ở Eden.” *** Trong khi các trực thăng tiếp
tục đổ quân trên mái nhà, chúng tôi ngồi
xổm trên băi cỏ với một nhóm QC. Họ đang
bắn vào một căn biệt thự nhỏ trong sân
ṭa đại sứ nơi mà họ nói VC đă rút vào
làm cứ điểm sau cùng. Lựu đạn cay đă
được ném vào trong cửa sổ, nhưng hơi
cay đă thoát ra ngoài vườn. Đại Tá George
Jacobson, sĩ quan điều phối Hoa Kỳ, cư
ngụ trong biệt thự bất thần xuất
hiện ở cửa sổ tầng lầu hai. Một QC
ném cho ông một cái mặt nạ hơi ngạt và
một khẩu súng lục .45. Có thể có ba VC ở
tầng lầu I và chúng có thể rút lên lầu v́ hơi
cay. Đây đúng là một bi kịch lớn, nhưng
tiếc là cái máy h́nh của ABC News của chúng tôi lúc
đó phải tiết kiệm phim. Tôi tiếp tục diễn tả tất
cả mọi việc tôi thấy vào một cái máy thu băng,
đă bị nghẽn v́ hơi gas. Tôi có thể đọc
được cái thẻ nhân viên ṭa đại sứ
trong cái bóp của Nguyễn Văn Đệ, thân h́nh
hắn đầy máu đang nằm xóng xoài bên bồn
cỏ cạnh tôi. Nguyễn sau này được xác
minh là một tài xế làm việc cho ṭa đại
sứ đă 16 năm, thường lái xe cho đại
sứ Hoa Kỳ. Các QC nói y đă bắn về phía
họ ngay trong lúc giao tranh ban đầu và y có thể là
kẻ nội ứng. Một loạt đạn nổ vang
đưa tôi về với thực tại. Tên VC
cuối cùng chạy lên lầu bắn loạn xạ
về phía Đại Tá Jacobson, nhưng hụt. Viên đại tá sau này nói với tôi:
“Cả hai chúng tôi nh́n thấy nhau cùng một lúc. Y
bắn hụt tôi, và tôi bắn một phát về
hắn bằng khẩu súng .45.” Jacobson sau này thú
nhận rằng lúc đó cô bạn gái dân Sài G̣n đang
ở đó với ông và đă chứng kiến toàn
bộ tấm thảm kịch dưới những
tấm drap trải giường. Con số chết trong trận đánh
tại ṭa đại sứ sau được xác
nhận chính thức là 5 binh sĩ Hoa Kỳ cùng với
17 tên địch trong số 19 đặc công. Hai tên
đặc công sống sót sau đó được
thẩm vấn và trao lại cho QLVNCH. C̣n 30 feet phim cuối cùng, tôi thâu âm
phần kết luận của tôi ở trong vườn
ṭa đại sứ như sau: “Kể từ Năm
Mới âm lịch, VC và Bắc Việt đă chứng
tỏ họ có khả năng tạo ra những
biến chuyển quân sự đáng chú ư và dữ
dội mà người Mỹ ở đây không bao
giờ nghĩ rằng chúng lại có thể thành công.
Không biết họ có thể chịu đựng
cuộc tấn công này lâu dài hay không hăy chờ xem. Nhưng
cái nó xoay chuyển cuộc chiến th́ nay đang
xảy ra, việc chiếm giữ ṭa đại sứ
Hoa Kỳ trong bảy tiếng đồng hồ là
một chiến thắng về mặt tâm lư sẽ
động viên và gây hứng khởi cho Việt
Cộng.” Đó là một sự đánh gía
vội vă trước khi mọi bí ẩn được
đưa ra? Có thể lắm. Nhưng lúc đó không có
thời gian để cho một ủy ban nghiên cứu
vấn đề. Tôi đang bị thúc hối v́
kỳ hạn từng giờ, và ABC mong muốn biết
tin cũng như một vài viễn ảnh sắp
tới ngay trong những giờ phút ban đầu
của cuộc tấn công… Vào lúc 9 giờ 15 sáng ở Sài G̣n, ṭa
đại sứ chính thức tuyên bố đă an toàn.
Khoảng 9 giờ 20, Westmoreland đă bước qua
cổng ṭa đại sứ trong bộ đồ
trận c̣n nguyên nếp hồ, được bảo
vệ bởi những QC và TQLC lem luốc và dính đầy
máu v́ vừa trải qua một trận đánh từ lúc
3 giờ sáng. Đứng bên đống đổ nát,
Westmoreland tuyên bố: “Không có tên địch nào vào bên
trong ṭa nhà. Đây là một biến cố tương
đối nhỏ. Một toán đặc công đă làm
nổ một lỗ hổng bên tường và ḅ vào, và
tất cả chúng đă bị giết. Mười chín
xác địch đă được t́m thấy trong khuôn
viên. Chúng ta đừng để bị đánh lừa
bởi biến cố này.” Tôi không thể tin điều ấy.
“Westy” vẫn c̣n nói mọi chuyện đều
tốt đẹp. Ông nói những cuộc tấn công
Tết trên cả nước chỉ là “một cách
đánh lừa” được tính toán để
tạo ra sự ngạc nhiên tối đa ở Việt
Nam và rằng họ đă “dương đông kích tây”
để dành nỗ lực chính cho trận đánh
tại Khe Sanh. Hầu hết phóng viên tại Việt
Nam vào thời gian đó tôn trọng Westmoreland – ông thường
rộng răi cho những cuộc phỏng vấn dài để
giải thích sự thành công dưới quyền
chỉ huy của ông. Nhưng một biến cố
khoảng sáu tháng trước Tết đă để
lại trong tôi những câu hỏi liên quan đến
sự hiểu biết của vị tướng chỉ
huy về vai tṛ của truyền thông trong thời
chiến… Một bản ghi nhớ (memo) do
Westmoreland kư đă được gởi tới văn
pḥng ABC News và hầu hết các hăng thông tấn khác vào
giữa năm 1967 cho rằng các báo cáo tin tức
về việc bộ binh Nam Việt Nam (QLVNCH) kém
hiệu qủa không giúp ích ǵ cho những nỗ
lực trong cuộc chiến. “Nếu bạn cho một
cái tên xấu cho một con chó, nó sẽ sống
với cái đó măi.” Westmoreland đề nghị
rằng nên có những báo cáo tích cực hơn cho người
bạn đồng minh Việt Nam của chúng ta. Mười năm sau, Westmoreland
vẫn c̣n nói xấu truyền thông về những
biến cố vào buổi sáng ngày hôm đó. Ông nói
với tôi: “Đây là một bước ngoặt
trong chiến tranh. Nó đáng lẽ là một bước
ngoặt cho chiến thắng, nhưng lại là một
bước ngoặt cho thất bại (bởi) cái đạo
đức của những thông tin lúc ban đầu…
đă bị vẩn đục và đen tối nên
đă tạo ra cái ấn tượng là Hoa Kỳ đang
bị thua trên chiến trường. Nó làm cho dư
luận quần chúng áp lực các giới chức
thẩm quyền chính trị phải có quyết định
rút lui.” Trong một bài chỉ trích báo chí dài, Westmoreland
đă cho rằng chúng tôi là những kẻ thù tệ
hại nhất. “Vào lúc chúng ta có 700 phóng viên, tất
cả đều đang hành nghề, t́m kiếm và báo
cáo tin tức như đă quen thuộc tại Hoa
Kỳ, tất cả chỉ t́m kiếm những tin
tức giật gân. Nếu chúng ta tiếp tục
chỉ báo cáo những thất bại, những sự
bất thường hay những sự quái dị trong
bất cứ cuộc chiến nào trong tương lai,
chắc chắn, dư luận Hoa Kỳ sẽ bị
ảnh hưởng như họ đă bị trong
chiến tranh Việt Nam. Tôi nghĩ rằng hậu
quả của vấn đề này là vô cùng tai hại
cho một xă hội công khai, và một nền dân
chủ chính trị của chúng ta.” Westmoreland không chỉ không
hiểu báo chí trong xă hội chúng ta, ông cũng c̣n không
hiểu những bài học lịch sử. Ngay cả
những sự thất bại lớn lao có thể coi như
chiến thắng về mặt tinh thần nếu có các
mục tiêu thật rơ ràng – và cả những sự
thiếu sót – được chia sẻ với công chúng.
Nhưng ở trong nước, có rất ít sự tin tưởng
về lời tuyên bố chiến thắng của
giới quân sự. Ngày 25 Tháng Ba năm 1968, hai tháng sau
(biến cố) Tết, cuộc thăm ḍ dư luận
của Harris đă cho biết có 60% dân chúng Hoa Kỳ
coi cuộc tấn công Tết như là một sự
thất bại cho những mục tiêu của Hoa Kỳ
tại Việt Nam. (Dịch theo www.Historynet.com & Vietnam Magazine – Feb. 2001) |