Đằng
Sau Cuộc Chiến
Phạm Tín An Ninh |
Cuộc
chiến ba mươi năm kết thúc, nhưng chỉ
làm cho đất nước điêu linh, dân tộc
khốn cùng, kéo theo bao chia ly tan tác. Trước tháng
4/1975 hầu hết những người trai trẻ
miền Nam là lính chiến. Nếu may mắn sống c̣n
qua thời lửa đạn, cũng từng phải
khốn cùng trong ngục tù cộng sản sau ngày
bại trận oan khiên. Ra tù, tứ tán trôi dạt muôn
phương, ngỡ không bao giờ c̣n gặp lại
bạn bè đồng đội cũ. Vậy mà dường
như đất trời thương xót, hồn thiêng
sông núi chở che, run rủi bao cuộc trùng phùng
bất ngờ, cảm động, như họ vừa
cùng tái sinh ở một thế giới nào khác. Tôi
gặp lại Hà văn Kỳ trong t́nh huống ấy.
Anh trung sĩ trẻ từng làm trung đội phó cho tôi
khi vừa mới ra trường. Người Bắc di
cư, nhỏ hơn tôi ba tuổi. Có lẽ nhờ
lớn lên ở thành phố Đà Lạt sương mù
thơ mộng và bên những vườn hoa, sản
nghiệp của bố mẹ, nên Kỳ được
hun đúc bao nét đẹp thánh thiện. Chân thật
hiền lành, lễ phép, sống theo mẫu mực
của một người Ki- tô hữu ngoan đạo.
Học hành chăm chỉ nhưng chẳng may bị
bệnh kéo dài, phải bỏ cả hai kỳ thi tú tài,
nên bị động viên vào trường Hạ Sĩ
Quan Đồng Đế. Ra đơn vị đă hơn
một năm, nhưng đời sống quân ngũ và
khói lửa chiến trường chưa làm thay đổi
được tính nết quá mềm yếu, hiền lành.
Đôi lúc tôi phải quát tháo, bởi Kỳ quá dễ
dăi với lính, ngay cả những lúc cần phải
cứng rắn, quyết liệt trước họng súng
của kẻ thù. Nhưng
rồi sau đó tôi lại thấy tội nghiệp, nên
thường khuyên lơn, vỗ về an ủi. Kỳ
cũng rất quí tôi, dành cho tôi không những t́nh
đồng đội mà cả ḷng yêu thương
của t́nh huynh đệ. Kỳ làm đám cưới
trước khi ra đơn vị. Bà xă là con gái
một ông bà bạn vong niên của bố mẹ Kỳ
từ ngày c̣n ngoài Bắc, cùng di cư vào Nam và
chọn thành phố Đà Lạt làm quê hương
mới. Biết vậy, nên thời gian nghỉ quân
ở Di Linh, tôi thường lén cho Kỳ “dù” về
Đà Lạt thăm vợ một vài hôm. Trước
đó, tôi cũng thường khuyến khích và giúp
đỡ Kỳ tiếp tục tự học thêm khi
thời gian thuận tiện. Chịu khó và chăm
chỉ. Gần
đến kỳ thi, Kỳ nhờ tôi năn nỉ xin
ông tiểu đoàn trưởng cho nghỉ phép đặc
biệt một tháng để chuẩn bị bài
vở. Trở lại đơn vị, với một
tin mừng: đỗ tú tài hạng b́nh thứ. Kỳ
làm đơn xin theo học khóa sĩ quan. Chưa
nhận được lệnh gọi th́ đă bị
thương trong một cuộc hành quân. Khi đưa
Kỳ ra một chiến thuyền của Hải Quân
để tản thương, tôi nắm chặt tay
Kỳ, ḷng nhói đau, khi thấy Kỳ nh́n tôi với
ḍng nước mắt lăn trên g̣ má c̣n bám đầy
bụi đất. Theo
đơn vị rày đây mai đó, tôi không có
dịp gặp lại Kỳ. Đến khi nhận
được lá thư gởi từ quân trường
Thủ Đức, tôi mới biết là khi sau được
chữa trị tại QYV Nguyễn Huệ Nha Trang,
Kỳ được nhận theo học Khóa 23 SQ
Thủ Đức. Tôi có nhận thêm vài lá thư
của Kỳ, từ hậu cứ chuyển ra. Những
bức thư đă viết từ 4, 5 tháng trước.
Tôi hồi âm, nhưng không thấy trả lời. Tôi
đoán là Kỳ đă ra trường và thuyên
chuyển đến một đơn vị tác
chiến nào đó. Mất liên lạc nhau kể từ
dạo ấy. Mùa
hè 2010, trong tiệc cưới cậu con trai lớn
của một người bạn cùng lớp thời
trung học, tổ chức tại thành phố Cologne
của Đức, tôi bất ngờ gặp lại
Kỳ. Nếu hôm ấy người MC không giới
thiệu những người khách đến từ phương
xa, và với cái tên khá đặc biệt của tôi,
th́ có lẽ Kỳ và tôi đă không nhận ra nhau. Sau
khi chào hỏi, Kỳ dắt tay tôi đến bàn bên
cạnh, giới thiệu vợ Kỳ và vợ
chồng cậu con trai. Th́
ra Kỳ là sui gia với anh chị bạn của tôi. Cô
con dâu của Kỳ là chị của chú rể trong
tiệc cưới hôm nay. Vui mừng như gặp
lại người thân trong nhà bao năm bặt tin nhau,
nhưng chương tŕnh tiệc cưới đang
tiếp tục giới thiệu gia đ́nh hai họ, nên
Kỳ hẹn ngày mai sẽ đón vợ chồng tôi
đến nhà dùng bữa cơm mừng cho cuộc trùng
phùng và sẽ có rất nhiều chuyện để tâm
t́nh. **** Cho
đoàn xe chở đại đội dừng lại bên
ngoài, tôi vào Tiểu Khu nhận lệnh. Người
đón tôi là Trung úy Đinh Viết Hạp, Trưởng
Pḥng 3 (Hành Quân) Tiểu khu. Gặp anh bất ngờ,
thật là vui, v́ anh là huynh trưởng thời c̣n
đi học ở trường Vơ Tánh Nha Trang, phu nhân
của anh lại là người bạn cùng lớp
với tôi. Anh cũng là bào đệ của ông
tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng: Trung tá
Đinh Viết Lăng. Sau khi nói qua cuộc hành quân, anh
Hạp đưa tôi đến tŕnh diện Trung tá Lăng
để trực tiếp nhận lệnh và nghe
những dặn ḍ đặc biệt. Tôi biết đây
là một cuộc hành quân khá quan trọng. Đại
Đội tôi có nhiệm vụ tùng thiết một Chi
Đoàn TQV, phối hợp với Hải Quân, đổ
bộ đột kích bất ngờ vào Sơn Hải,
ngôi làng hẻo lánh nằm ven biển, bị địch
chiếm đóng từ ba tháng trước và đang
tổ chức thành một sào huyệt kiên cố.
Lực lượng địch gồm một đại
đội địa phương và các toán du kích. Có
thể có cả ban chỉ huy tỉnh đội. Đại
đôi tiếp tục di chuyển đến Ninh
Chữ, quê hương của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu. Khu vực vừa tương
đối an ninh vừa có bờ biển đẹp. Sau
khi bố trí quân xong, cho anh em binh sĩ luân phiên ra
biển tắm rửa, nghỉ ngơi, tôi vào Duyên
Đoàn 27 họp hành quân. Điều bất ngờ lư
thú là anh Duyên đoàn trưởng, trung úy Hoàng Đ́nh
Thanh, lại là bạn cùng Khóa 16 VBĐL với anh đại
đội trưởng của tôi, nên đám sĩ quan
bọn tôi được Duyên Đoàn thết đăi và
chăm sóc chu đáo. “Commandant” Thanh xem bọn tôi như
em út của chính anh. Sau khi họp hành, nhận bản
đồ và đặc lệnh truyền tin xong, anh xách
xe jeep chở bọn tôi lên thành phố Phan Rang chơi
xả láng một đêm và cả một buổi sáng hôm
sau. Ông duyên đoàn trưởng gốc Vơ Bị Đà
Lạt này chịu chơi c̣n hơn cả đám
bộ binh đánh đấm nhà nghề bọn tôi.
Tửu lượng của anh cũng thuộc hàng “sư
phụ”. Và đây là lần đầu tiên tôi tham
dự một cuộc hành quân do Hải quân chỉ huy. Một
chiến hạm ủi băi ngay phía trước Duyên
Đoàn. Anh Duyên Đoàn Trưởng đưa tôi và
anh Chi Đoàn Trưởng TQV lên chiến hạm tŕnh
diện Thiếu Tá Hạm Trưởng, người
chỉ huy tổng quát cuộc hành quân đổ
bộ, để họp bàn chi tiết. Chi Đoàn TQV và
đại đội của tôi lên tàu lúc 4 giờ sáng.
Chạy theo hai bên chiến hạm là các chiến
thuyền Yabuta của Duyên Đoàn. Chưa đầy
một tiếng đồng hồ, chúng tôi đă đến
trước mục tiêu. Tàu dừng ngoài khơi để
lính tráng ăn uống trước khi lâm trận. Đúng
giờ G, tàu tiến vào gần bờ. Lính bộ binh
ngồi trên những chiếc M-113, rời chiến
hạm, chia làm ba cánh, lội nước “bơi” vào
bờ. Trong tranh tối tranh sáng, tôi mơ hồ tới
trận đổ bộ Normandie của quân đội
đồng minh trong Đệ Nhị Thế Chiến mà
tôi đă được xem qua phim. V́ mục tiêu
nằm ngoài tầm yểm trợ của pháo binh, nên
hải pháo từ chiến hạm tác xạ vào mục
tiêu và hai ngọn núi trước khi chúng tôi tiến vào
bờ. Tôi bàn với anh Chi Đoàn Trưởng TQV, khi
cách bờ khoảng 50 mét, các đại liên 30 trên
M-113 đồng loạt nổ súng vào mục tiêu, uy
hiếp tinh thần địch, để đại
đội tôi nhanh chóng đổ lên bờ và bung ra trước. Tất
cả lính tráng đều đă cột trên cánh tay
phải một băng vải trắng làm dấu
hiệu nhận nhau, tránh việc bắn nhầm từ
các xạ thủ trên thiết giáp. Lực lượng
Duyên Đoàn nhanh chóng án ngữ mặt biển. Đúng
như kế hoạch tiên liệu. Chúng tôi làm chủ t́nh
h́nh khi trời vừa sáng. Địch quân hoàn toàn
bất ngờ, một số c̣n đang ngái ngủ chưa
kịp hoàn hồn, một số vừa nhảy
xuống giao thông hào cũng chỉ kịp đưa tay
đầu hàng trước họng súng của binh sĩ
đơn vị tôi, một số chạy tán loạn vào
rừng, bị các chiến xa M-113 vây bắt, nhiều tên
chạy ra biển, lọt vào tay của các chiến sĩ
Duyên Đoàn. Hầm hố và công sự của chúng
bị các thiết vận xa M-113 cày nát. Sơn
Hải, ngôi làng nghèo hẻo lánh, cách xa những vùng dân
cư khác, nằm sát biển, dưới thung lũng,
giữa một bên là những động cát mênh mông,
một bên là hai ngọn núi thấp với khu rừng
khá rộng. Không xa về phía Nam là Mũi Dinh với
ngọn hải đăng hoang phế, được xây
dựng từ năm 1904 dưới thời Pháp
thuộc. Chính phủ muốn xây dựng lại và thành
lập một đài kiểm báo, nhưng đơn
vị Bảo An được đưa tới giữ
an ninh, thường bị lực lượng địch
tấn công liên tục, gây thiệt hại không
nhỏ, phải rút bỏ. Người dân ở đây
sống nhờ vào con suối nước ngọt
chảy róc rách trong rừng. Ngôi làng chỉ có
chừng trên 60 nóc gia, đa số dân chúng sống
bằng nghề đánh cá và trồng khoai lang, dưa
hấu, nhưng hầu hết đă bỏ đi từ
khi Cộng quân đến chiếm. Chỉ một
số c̣n ở lại đều là thân nhân của
địch. Dường như đă có các cuộc oanh
kích hoặc hải pháo trước đây, nên một
số nhà bị cháy sập, đổ nát, chỉ c̣n
trơ vài mảng vách bám khói đen xám xịt, loang
lỗ những vết đạn. Địch quân
chọn vị trí này làm sào huyệt v́ các đơn
vị của ta khó tiếp cận, muốn đến
đây phải băng qua một sa mạc cát, vừa
mất sức lại vừa dễ bị phát hiện,
và nếu có biến động, chúng sẽ thoát ra
biển bằng ghe xuồng, hoặc chạy biến vào
khu rừng bên cạnh. Chúng không ngờ cuộc hành quân
phối hợp qui mô lần này, chúng không c̣n con
đường nào khác để thoát thân. Cuộc
hành quân kết thúc. Kiểm điểm đơn
vị, chỉ có một anh trung Thằng
bé bị thương nhẹ do một số mảnh
đạn M-79. Rất may là không nguy hiểm đến
tính mạng. Nhiều vũ khí bị tịch thu, trong
đó có khẩu súng cối 60 ly và hai khẩu thượng
liên Trung Cộng. Giao hết chiến lợi phẩm, tù
binh và cả thương binh lại cho lực lượng
của Duyên Đoàn. Theo kế hoạch hành quân, Chi
Đoàn Thiết Giáp và đơn vị tôi tiếp
tục băng rừng truy kích địch, tiến đến
Mũi Dinh bảo vệ an ninh cho Duyên Đoàn đưa
một đơn vị Địa Phương Quân
đến canh giữ để xây dựng lại đài
kiểm báo. Hai ngày sau, chúng tôi tiếp tục tảo
thanh khu rừng dọc theo hai bên con suối, trên
đường tiến ra Quốc lộ 1. **** Buổi
chiều, Kỳ đến đón chúng tôi. Vợ
chồng người bạn xin từ chối v́ bận
phải giúp đôi tân hôn giải quyết một
số việc sau đám cưới. Nhà Kỳ ở không
xa. Chỉ hơn 20 phút lái xe. Căn nhà nhỏ nằm bên
bờ sông Rhine thơ mộng. Sân sau khá rộng
trồng nhiều hoa và vài cây táo. Chỉ có vợ
chồng Kỳ ở đây, nhà vợ chồng đứa
con trai duy nhất ở gần bệnh viện, nơi làm
việc. Chồng là bác sĩ, vợ là y tá. Kỳ cho
biết như thế và bảo vợ chồng cháu cũng
đang trên đường đến đây để
chào hai bác. Trong
khi vợ Kỳ rủ bà xă tôi ra vườn khoe
mấy cụm hoa hồng nhung, Kỳ đi pha trà, tôi
ngồi nh́n tấm ảnh của một đôi uyên
ương trẻ, treo trên vách, nhớ tới khuôn
mặt khá khôi ngô, xinh xắn của đứa con trai
và cô dâu mà Kỳ đă giới thiệu tôi tối hôm
qua trong tiệc cưới. Bỗng giật ḿnh khi nghe
tiếng Kỳ hỏi: Thay
v́ trả lời tôi, Kỳ chỉ tay vào tấm
ảnh treo trên vách. Tấm ảnh tôi vừa mới xem
qua. Đúng
là tôi quá bất ngờ. Hơn nữa, chuyện
xảy ra đă quá lâu, nếu Kỳ không nhắc, có
lẽ tôi không c̣n nhớ. Sau khi rót nước trà vào
tách mời tôi, Kỳ kể tôi nghe về câu chuyện
ấy. Bé
Ngộ lớn lên trong ṿng tay yêu thương của
vợ chồng Kỳ cùng tấm ḷng nhân hậu
của bố mẹ Kỳ, mà nó cứ ngỡ đó chính
là bố mẹ và ông bà nội của nó. Nó là
một đứa bé có nhiều diễm phúc. Năm
1975, khi bé Ngộ vừa tṛn 9 tuổi, th́ cùng với
số phận của miền Nam, gia đ́nh Kỳ
trở nên khốn đốn. Kỳ bị vào tù.
Cậu em trai của Kỳ đang học Khóa Vơ Bị
đă phải theo trường di tản vào Nam trước
khi thành phố xinh đẹp này lọt vào tay giặc.
Ông anh của Kỳ là sĩ quan TQLC được
bạn bè cho biết đă chết ở bờ biển
Thuận An ngoài Vùng 1. Bà chị của Kỳ theo
chồng là lính Pháo Binh lên Pleiku không biết sống
chết thế nào. Bố mẹ Kỳ bao năm
sống khá giả bằng nghề trồng hoa bỗng dưng
thất nghiệp. Bao nhiêu thứ hoa đẹp đẽ
ngát hương bây giờ chỉ c̣n là cỏ rác.
Cả mấy khu vườn đều bị chính
quyền trưng thu sáp nhập vào Hợp Tác Xă “Rau
Xanh”. Đà Lạt quí phái thơ mộng bây giờ
trở thành một thành phố chết. Dân t́nh đói
rách, cây cỏ úa tàn. Chỉ c̣n có lớp sương
mù phủ kín một vùng núi đồi ảm đạm.
Cùng với nhiều người khác, bố mẹ
Kỳ cũng muốn cắt ruột bỏ đi để
mong t́m ra một con đường sống, như đă
từng phải bỏ quê hương Hà Nội hơn
21 năm về trước. Nhưng rồi phải
ở lại để chờ đám con cháu trở
về. Sau
hơn năm năm tù, Kỳ được thả
về. Bố mẹ đă mất. Trong ngôi nhà xưa
chỉ c̣n có vợ Kỳ, bé Ngộ và hai mẹ con bà
chị, sống sót trong cuộc di tản trên Tỉnh
Lộ 7 kinh hoàng. Riêng ông anh rể gốc Pháo Binh th́
mất tích, không có chút hy vọng nào c̣n gặp
lại. Người em trai của Kỳ, sau khi di tản
theo trường Vơ Bị, đă ra trường “non”
ở Long Thành. Ở tù gần 2 năm, trốn
trại, thoát và cùng vượt biển với một
người bạn, được tàu Cap Anamur vớt nên
được định cư từ năm 1978 ở
Tây Đức. Nhờ có sẵn tŕnh độ và ư chí
được rèn luyện từ trường Vơ
Bị, anh vừa học đại học vừa đi
làm kiếm tiền giúp gia đ́nh c̣n ở Việt nam.
Cũng nhờ người em này tận t́nh giúp đỡ,
nên gia đ́nh Kỳ tạm vượt qua bao khó khăn,
và sau đó có tiền vượt biển, đến
đảo Palawan, và được bảo lănh sang định
cư tại Tây Đức. Những
năm cực khổ, vợ Kỳ rất vất
vả, có khi phải đi cuốc đất thuê, gánh
rau mướn. Bé Ngộ lúc ấy mới 14 – 15
tuổi đă phải bỏ học để đi làm
phụ mẹ. Trong hoàn cảnh khốn cùng, t́nh mẹ
con càng thêm thắm thiết. Nhiều lúc vợ Kỳ
không c̣n nghĩ bé Ngộ là con nuôi của ḿnh. Sang
Đức, vợ Kỳ được em trai Kỳ xin
vào làm trong hăng Siemens mà anh là kỹ sư sản
xuất. Kỳ cố gắng theo học ngành kế toán
và được nhận vào làm ở Sở Thuế
Vụ thành phố, cùng sở với người
bạn của tôi, và nhờ đó mà sau này hai người
trở thành sui gia. Khi
bà xă tôi phụ giúp vợ Kỳ làm món ăn trong
bếp th́ vợ chồng Ngộ dắt theo đứa
con gái nhỏ cũng vừa đến. Nghe bao điều
bất ngờ Kỳ kể lại, nên tôi ṭ ṃ chăm
chú nh́n Ngộ kỹ hơn, muốn t́m ở cậu
con trai này một điều ǵ không mấy thiện
cảm, hoặc không giống vợ chồng Kỳ. Nhưng
rồi tôi ngạc nhiên, khi nhận ra ở Ngộ là
một thanh niên có giáo dục, lễ phép, nhân hậu và
thông minh. Cả trong cái cười, cũng rất
giống Kỳ ngày xưa, lúc c̣n là lính với tôi.
Một chút ǵ đó gần như là ác cảm vô
cớ trong tôi biến mất. Tôi thoáng một chút ngượng
ngùng. Một
bữa cơm đoàn tụ thật vui. Bà xă tôi cũng
dễ thân thiện gần gũi và rất quư mến
vợ chồng Kỳ cùng vợ chồng cháu Ngộ và
đứa cháu nội của Kỳ, ba tuổi, bập
bẹ nói tiếng Việt nam. Chia tay, tôi chúc mừng
Kỳ có một gia đ́nh hạnh phúc. Khi đưa chúng
tôi ra xe, cháu Ngộ lễ phép mời vợ chồng tôi
và ba má cháu đến nhà dùng một bữa tiệc cá,
do vợ chồng cháu đi câu được, trước
khi chúng tôi trở về lại Na-uy. Cháu c̣n bảo là
hôm ấy sẽ mời cả ông bà bố mẹ
vợ, là bạn thân của tôi, để được
đầy đủ một nhà, Tôi nắm tay cháu,
nhận lời và nói cám ơn. Hai
hôm sau, Kỳ gọi phôn bảo sẽ đến đón
vợ chồng tôi đi thăm trại chăn nuôi do
vợ chồng người em trai làm chủ. Cách thành
phố hơn một giờ lái xe. Ở đó cũng có
một vườn hoa và nhiều cảnh đẹp.
Trại có hơn 500 con heo, 20.000 gà vịt, và có cả
ḷ ấp hột vịt lộn nữa. Nghe nói tới
trại chăn nuôi bà xă tôi rất thích, nhất là món
hột vịt lộn, lúc ấy ở Na-uy chưa có.
Vợ chồng người em của Kỳ đón
tiếp chúng tôi thật nồng hậu. Người sĩ
quan tốt nghiệp “non” của trường Vơ
Bị này trông rất c̣n phong độ. Tóc cắt
ngắn, đôi mắt sáng, giọng nói cứng cỏi
như vẫn c̣n là chàng SVSQ đứng trên đỉnh
Lâm Viên thuở trước. Cùng gốc lính với nhau
nên rất dễ thân t́nh. Vợ chồng tôi rất
phục anh. Vừa là kỷ sư trưởng trong hăng
Siemens nổi tiếng lại vừa là ông chủ
của một trại chăn nuôi rộng lớn,
với gần 20 người làm. Chúng tôi được
đăi món cơm gà thật tuyệt vời do chính tay
anh nấu, và anh cũng không quên gói một thùng
hột vịt lộn làm quà cho bà xă tôi (riêng tôi không
hảo món này lắm). Cơm
nước xong, chúng tôi cáo từ và theo vợ
chồng Kỳ đi thăm một vài thắng cảnh
quanh đây. Kỳ đưa chúng tôi đến một
vườn hoa. Đang đúng mùa hoa nở. Mênh mông các
sắc màu. Ngát hương trong gió. Nhưng khi vừa
đến nơi, Kỳ bảo vợ đưa bà xă tôi
đi ngắm hoa, c̣n “hai anh em tôi th́ đă có sẵn
hoa trong nhà rồi, nên không cần ngắm hoa ngoài vườn
nữa”. Kỳ nói đùa rồi dắt tay tôi đến
ngồi trên chiếc ghế đá đặt dưới
một tàn cây khá lớn. Phía trước là một con
suối nhỏ chảy qua chiếc cầu làm bằng
gỗ. Vừa ngồi xuống, Kỳ mở lời tâm
sự: Tôi
ngạc nhiên, không biết có điều ǵ quan
trọng mà trông Kỳ có vẻ bối rối. Chưa
kịp hỏi, th́ Kỳ lại lên tiếng: Tôi
khá bất ngờ, không t́m được ư kiến nào
để nói với Kỳ. Lại thấy áy náy khi
Kỳ vẫn c̣n kỳ vọng vào ḿnh. Nhưng
chuyện này không phải đơn giản như
chuyện đánh đấm, hay chỉ huy một
tiểu đội lính ngày xưa. Bỗng tôi nghĩ
đến bản thân tôi, cũng mất mẹ năm
mới lên ba tuổi và ba tôi một đời đă dành
trọn t́nh thương bao la cho tôi như thế nào. Có
điều Ngộ không hề biết là ngoài vợ
chồng Kỳ ra, nó lại c̣n có một ông cha
ruột trên thế gian này. Oái ăm thay, ông cha ấy
lại chính là kẻ thù của bố Kỳ, của ông
chú, bà cô và cả ông bà nội nữa. Chẳng
phải tất cả những người này đă gánh
chịu bao nhiêu mất mát đau buồn khốn
khổ v́ những người Cộng Sản như ông
bố ruột của Ngộ? Tôi nói ra ư nghĩ này
với Kỳ, như muốn gợi ư là Kỳ hăy quên
chuyện ấy đi. Ít nhất sẽ không gây
những khó khăn, xáo trộn tâm lư cho vợ
chồng cháu Ngộ. Kỳ
lắng nghe. Suy nghĩ một lúc rồi nói nhỏ như
chỉ tự nói với chính ḿnh: Có
một điều ǵ đó chặn ngang ḍng suy nghĩ
của tôi. Một lúc sau, tôi nắm tay kéo Kỳ đứng
lên đến bên cây cầu gỗ trên ḍng suối
nhỏ. Nh́n ḍng suối chảy mang theo một cánh hoa
tulip, có lẽ người nào đó vừa ném
xuống trên đầu ḍng. Tôi cúi xuống, với tay
nhặt lấy cánh hoa. Một ư nghĩ vừa lóe lên
trong đầu, tôi buộc miệng thốt ra với
Kỳ: Lời
nói mơ hồ, không đâu vào đâu ấy như
chỉ để bào chữa cho cái bế tắc
của tôi và tất nhiên Kỳ không thể nào
hiểu được. Sự thất vọng hiện rơ
trên mặt. Kỳ chau mày: Ngày
họp mặt ở nhà vợ chồng cháu Ngộ
thật vui và cảm động, v́ mọi người
ai cũng có ràng buộc ân t́nh. Riêng tôi đă gặp
lại hai người bạn cũ. Nhất là Kỳ,
một đứa em nhà binh kết nghĩa, đă
gợi lại trong tôi bao kỷ niệm của một
thời chinh chiến. Chúng tôi rời Cologne trở
về lại Na-uy ngày hôm sau. Vợ chồng Kỳ và
vợ chồng người bạn đưa tôi ra phi trường.
Suốt hai giờ ngồi trên máy bay, đầu óc tôi
nặng nề với h́nh ảnh của Ngộ và câu
chuyện về người cha ruột mà Kỳ đă
kể cho tôi nghe. Tôi biết, cũng như tôi, Kỳ
bảo là sẽ quên “phứt” đi, nhưng chắc
chắn là sẽ không thể nào quên được. Mấy
tháng sau, như thường lệ, cứ đến mùa
đông là vợ chồng tôi bay sang Cali (Mỹ) để
trốn cái lạnh Bắc Âu và thăm mấy cô con gái.
Ở Cali nắng ấm, chúng tôi lại có bao nhiêu
bạn bè, thời gian gặp gỡ, chuyện tṛ không
c̣n trống cho đầu óc suy nghĩ vẩn vơ.
Bỗng một hôm tôi nhận được điện
thư của Kỳ. Thư viết khá dài: Bận
bịu với bao bạn bè từ vài tiểu bang xa
tới thăm, chưa kịp hồi âm, th́ vài hôm sau tôi
lại nhận thêm một email mới của Kỳ, có
kèm theo vài tấm ảnh. Nh́n
tấm ảnh của ông, Kỳ gởi kèm theo điện
thư (tấm ảnh đặt trước quan tài, có
lẽ chụp đă lâu, lúc ông ta c̣n đang quyền
lực), tôi thấy thấp thoáng khuôn mặt của
Ngộ. Không biết vợ chồng Ngộ có nhận
ra điều này không, hay có thể đó chỉ là
ảo ảnh được ráp nối từ những
mảng liên tưởng mơ hồ của tôi. Nhưng
điều này bây giờ đâu c̣n có ư nghĩa ǵ khi
Ngộ đă thực sự bước ra khỏi đám
mây mù quá khứ. Tất cả như đă cuốn
theo ḍng nước chảy qua cầu. |