HQ 14 VÀ NHỮNG
THÁNG CUỐI CỦA CUỘC CHIẾN 1975 Phạm Thành |
Chuyện
buồn tháng 3 : Để thương tiếc một
Hạm trưởng Thân chuyển bài viết của người bạn thân nhất trong đời tôi : Phạm Thành vừa mới vĩnh viễn giả từ chúng ta để ra khơi sáng nay, 25 tháng 3 năm 2019. Anh là một người bạn cùng khóa SQHQ Nha Trang, một Thủy thủ, một vị Hạm trưởng đúng nghĩa. Mời các Huynh Đệ , nhất là các Huynh Đệ HQ14 đọc dưới đây. Cựu SQHQNT K13 1.
Lời Tựa Sau khi
chuyển giao Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp II (HQ
14) cho Hải Quân Hoa Kỳ tại Subic Bay năm 1975, gia
đ́nh chúng tôi nhập trại tỵ nạn tại
Goam và sau đó được đưa qua lục
địa Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1975 để
nhập trại tỵ nạn Indian Town Gap, Pennsylvania.
Đến tháng mười 1975, chúng tôi được
xuất trại, về định cư tại thành
phố nhỏ Wilkes Barre thuộc tiểu bang Pennsylvania.
Sau đó, theo công việc làm, chúng tôi dời lên Long
Island, New York; và cuối cùng, chuyển về Annapolis,
Maryland. Tôi đă về hưu cách đây ba năm lúc
71 tuổi, hiện sống với vợ tại Annapolis.
Hai con gái của chúng tôi đă lập gia đ́nh. Chúng
tôi có 2 cháu ngoại. Từ khi
đến Hoa Kỳ, nhiều lần nhớ đến
anh em cùng chiến hạm, tôi muốn viết lại vài
ḍng để làm mối dây liên lạc và cùng ôn
lại quá khứ. Nhưng v́ bận bịu với gia
đ́nh, học hành, và việc làm, nên tôi cứ
hẹn rày hẹn mai măi, nay tôi mới quyết định
viết bài này , để chia sẻ với các
chiến hữu , các Huynh Đệ Hải Quân VNCH, mong
ước được ôn lại kỷ niệm cũ
và liên lạc với anh em thuộc HQ 14, những
chiến hữu đă cùng tôi chiến đấu
bảo vệ tự do, chia sẻ vui buồn, hiểm
nguy, nhọc nhằn gian khổ, nhất là trong những
tháng cuối của cuộc chiến tháng 3 và tháng tư,
1975. Tôi xin cầu mong cho anh em và gia đ́nh ở
ngoại quốc và trong nước luôn được
mọi sự b́nh an. V́ tôi c̣n
giữ được quyển nhật kư riêng tôi
viết trong thời gian ấy, nên ngày tháng và các chi
tiết quan trọng trong bài này đều chính xác.
Ngoại trừ một số ít chi tiết dựa trên
trí nhớ, có thể sai lạc chút ít. Mong anh em HQ 14
đính chính giùm.
Sau
chuyến công tác dài trên ba tháng đầy sóng gió, HQ
14 trở về Saigon ngày 13 tháng 3 để vào Tiểu
Kỳ, Thủy thủ đoàn ai cũng vui mừng v́
được gần nhà hơn một tháng. Riêng tôi,
đây cũng là dịp được gần vợ
con. Chúng tôi cưới nhau đầu nằm 1973. Đến
nay, con gái đầu ḷng của chúng tôi đă sắp
tṛn một năm. Tôi cần thời gian để làm
quen với nó. Hồi nó mới sanh ra, tôi c̣n làm
hạm trưởng HQ 404, sau đó được thuyên
chuyển qua HQ 14. Từ đó đến nay, chiến
hạm tôi đă hải hành dài hạn liên miên, cứ
mỗi lân về bến, nó lại đứng xa xa nh́n
tôi như người xa lạ. Tôi cảm thấy
thấm thía với cuộc đời Hải Quân và cũng
thông cảm hơn với nhân viên của tôi. Theo
thường lệ, khi chiến hạm về Saigon, tôi
cho nhân viên làm việc đến 12 giờ trưa th́
hai phần ba được đi bờ cho đến sáng
hôm sau. Nhưng trong thời gian Tiểu Kỳ, mọi người
phải làm việc đến bốn giờ chiều.
Ngoài công việc liên lạc Hải Quân Công Xưởng liên
quan đến viêc sửa chữa máy chánh, máy điện,
hệ thống pḥng tai, điện tử, truyền
tin… thủy thủ đoàn c̣n phải lo lănh đạn
hải pháo tại Thành Tuy Hạ, lănh tiếp liệu
tồn kho, bảo tŕ chiến hạm hằng ngày,
huấn luyện các nhiệm sở Pḥng Tai, Tác
chiến… Sau khi
sửa chữa Tiểu Kỳ hoàn tất vào ngày 24 tháng
2, Trường Chiến Hạm bắt đầu chương
tŕnh Huấn Luyện HQ 14 tại bến, và sau đó,
tại Vũng Tàu, cho đến ngày 8 tháng 3. 3.
Chuyến Công Tác Vùng I Duyên Hải Sáng ngày
21 tháng 3, chỉ vài ngày sau khi Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh Triệt Thoái Quân
Đội khỏi Vùng Cao Nguyên, tôi lên BTL/HQ/P3 nhận
lệnh công tác đi bảo vệ dàn khoan Ocean
Prospector, cách Côn Sơn 188 hải lư về phía đông
nam. Nhưng sau đó, trên đường đi, vào lúc
3 giờ 30 chiều, tôi lại nhận được
lệnh đổi hướng đi công tác V1ZH.
Biển tương đối êm và chúng tôi có một
chuyến hải hành thoải mái. Ngồi trên đài
chỉ huy, ngắm sao trời và những ngọn đèn
le lói từ các ghe đánh cá nhấp nhô trên sóng nước,
tôi lại suy nghĩ miên man đến cuộc
chiến, không biết mai đây số phận của
Miền Nam sẽ đi về đâu. Tôi tự nhủ,
dù sao tôi và thủy thủ đoàn vẫn phải
giữ vững tinh thần chiến đấu cho đến
phút cuối cùng. Chúng tôi vẫn c̣n hy vọng! Măi đến
6 giờ chiều ngày 23, HQ 14 mới đến BTL/V1ZH. Tôi
cặp cầu Tiên Sa và lên tŕnh diện TL/V1ZH, Phó Đề
Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại. Tôi được
lệnh khởi hành ngay trong đêm đến khu
vực hành quân 1B1, ngoài cửa Thuận An, để
yểm trợ Bộ Binh rút quân về nam, qua đường
biển. Đô Đốc Thoại có hỏi tôi:
“Hạm Phó của anh có đủ khả năng
chỉ huy chiến hạm khi có bất trắc ǵ
xảy ra cho anh không?”. Tôi mạnh dạn trả
lời: “Thưa Đô Đốc, tôi đă huấn
luyện Hạm Phó đầy đủ”. Đô Đốc
Thoại nói thêm: “Khi ra đến vùng hoạt động,
anh chờ khi có lệnh của tôi th́ tách ra, thành
lập một phân đội riêng, và tiến ra gần
vĩ tuyến 17. Phân đội của anh có nhiệm
vụ ngăn chặn và tiêu diệt các chiến
hạm, chiến đỉnh Bắc Việt khi chúng
tiến vào Nam”. Tôi chào Đô Đốc Thoại và
về chiến hạm ngay. Biết rằng t́nh thế
đă đến giai đoạn nguy ngập. 3.1.
HQ14 bị bắn tại vùng hỏa tuyến HQ 14 đến
vùng hành quân ngoài cửa Thuận An lúc 2 giờ sáng ngày
24. Đến 9 giờ sáng, tôi bắt đầu cho
chiến hạm đi theo đội h́nh với HQ
07. HQ 08 cũng đă đến vùng và nhập đội
h́nh. Khoảng trưa, tôi quan sát thấy Bộ Binh hành
quân bên trong, chắc cũng để yểm trợ rút
quân. Tôi không có tần số để liên lạc
với Bộ Binh. Lúc này HQ 709 đă được
lịnh rời vùng hành quân, trở về Tiên Sa. Như
vậy, trong vùng chỉ c̣n HQ 07, HQ 8, HQ 609, và HQ 14. Vào
khoảng sau 4 giờ chiều, tôi được
lệnh tách ra khỏi đội h́nh để thành
lập phân đội riêng, và tiến ra vĩ tuyến
17. Tôi lên đài chỉ huy để đích thân điều
khiển chiến hạm. Nhưng trước khi tôi có
th́ giờ thành lập phân đội gồm HQ 14 và HQ
609, tôi nghe hai tiếng nổ thật chát chúa như
tiếng bom. Nước tung tóe gần trước mũi
chiến hạm. Nh́n lên bầu trời trắng đục,
đầy mây trắng bao phủ, tôi thấy hai
chiếc máy bay lợi dụng thời tiết, bay
cao trên mây để tránh bị phát giác và bất
thần nhào xuống, thả 2 quả bom, nhắm
chiến hạm tôi nhưng trật. Chúng bay vút đi.
Chiến hạm không hư hại. Nhưng bất
thần, chỉ vài phút sau, một lần nữa, hai
chiếc máy bay này ṿng trở lại, ném thêm 2 quả
bom nữa. Lần này, các quả bom cũng không trúng
chiến hạm, chỉ rơi trên biển, bên hữu
hạm gần pḥng ăn của đoàn viên. Nhưng các
mảnh bom bay tung tóe, đâm thủng rất nhiểu
lỗ bên hữu hạm. Rủi thay, đúng lúc này, nhân
viên đang chạy lên nhiệm sở tác chiến, ngang
pḥng ăn, v́ vậy tổng số nhân viên bị thương
lên thật cao. Thêm vào đó, 4 nhân viên ở các
nhiệm sở 40 ly, 20 ly, và hầm máy bị tử
trận. Sau đây là tổng kết tổn thất
của chiến hạm: Tử
trận (5): TSI/VC Bùi Đức Hùng (40 ly), TS/CK Trần Văn
Trung (hầm máy), HSI/VC Đặng Hữu Thành (20 ly),
TT/TS Lưu Chảy (40 ly), HIS/QK Lê Văn Quí. Theo nhật
kư, tôi ghi 4 tử trận, nhưng lại liệt kê tên
5 người. Điều này cần kiểm chứng. Bị thương
nặng (10): TT/TS Nguyễn Hữu Trí, TT/TS Nguyễn Văn
Hinh, HS/QK Nguyễn Xuân Quí, HS1/KT Nguyễn Văn Ḥa,
HS1/GL Cao Ngọc Bé, HS1/PT Hồ Thanh Siêng, TS/VC Nguyễn
Văn Hùng, TS/GL Nguyễn Văn Vỉnh, TT1/TX Hồ Văn
Sáu. Bị thương
nhẹ (10): ThS/VC Nguyễn Văn Thủ, TS1/VC Phạm Văn
Túc, TS1/TP Trần Thiểu, TS/TV Nguyễn Văn B́nh,
HS1/CK Lê Văn Hùng, HS1/TP Đoàn Văn Ba, TT/TS Nguyễn
Hữu Phúc, TT/TS Trần Văn Minh, TT/TS Hoàng Thanh Long,
ThS/KT Trần Đ́nh Phương. Tổn
thất vật thể: Cơ khí, Điện khí, Vỏ
tàu, Pḥng tai, Vũ khí, Vô tuyến, và vật dụng
linh tinh. Máy điện hư. Hệ thống tay lái
điện bất khiển dụng. Hệ thống vô
tuyến bất khiển dụng, không liên lạc
được với BTL/HQ/V1ZH, phải dùng máy
truyền tin cầm tay để cố gắng liên
lạc với các chiến hạm trong vùng hành quân. Y Tá
và thủy thủ đoàn đă nỗ lực tối
đa để săn sóc và cứu chữa các nhân viên
bị thương, sửa chữa máy điện,
hệ thống truyền tin… Cuối cùng HQ 07 đă
nghe được và đến phụ giúp tải thương,
nhưng v́ biển động, phải tách ra và chỉ
có một số nhân viên tử thương và bị thương
được đưa qua HQ 07 để chuyển
về Bệnh Viện Duy Tân Nẵng. Sau khi máy
điện và hệ thống truyền thanh được
sửa chữa xong, HQ 14 liên lạc được
với BTL/HQ/V1ZH để báo cáo và xin về cặp
cầu Tiên Sa để tải thương và sửa
chữa. HQ 14 về cặp cầu sáng sớm ngày 25. Các
nhân viên bị thương được chở qua
bệnh viện quân đội Duy Tân bên Đà Nẵng
để điều trị. CCYTTV/HQ bắt đầu
cấp tốc sửa chữa để chiến hạm
có thể chạy về Saigon. Tối ngày 26, tôi
được lệnh chở gia đ́nh Hài Quân về
Saigon. Ngay sau đó, chiến hạm bắt đầu
tiếp nhận gia đ́nh quân nhân cho đến sáng hôm
sau. Nghĩ
rằng Đà Nẵng sẽ thất thủ trong một
ngày rất gần, tôi mượn xe của CCYTTV/HQ,
chạy qua bệnh viện Duy Tân xin cho tất cả nhân
viên của tôi được xuất viện và
cuối cùng, tất cả đều được
chuyển về bệnh xá CCYTTV/HQ, ngoại trừ
một nhân viên giám lộ bị gẫy mất một
cánh tay, phải ở lai thêm để điều
trị. Tôi rất buồn v́ tôi muốn, khi chiến
hạm khởi hành, tôi sẽ đem tất cả các
nhân viên của tôi về Bệnh Xá HQ Bạch Đằng
(Saigon). Đi ngang qua thành phố Đà Nẵng, tôi
thấy người đi lố nhố đầy
đường. Không biết họ đi đâu, đi
t́m đường về Saigon? Hay là Việt Cộng
đă trà trộn vào dân? Tuy không có bạo động,
t́nh thế có vẻ hỗn loạn. Tôi biết
chắc Đà Nẵng sẽ thất thủ nay mai.
3.2 Di
Tản Gia Đ́nh HQ từ Đà Nẵng về Vũng
Tàu Sáng ngày
30 tháng 3, một số gia đ́nh Hài Quân đă lên tàu
nhưng chưa đầy đủ. Tôi được
lệnh đem chiến hạm ra neo trong vũng Tiên Sa,
chờ tiếp nhận thêm cho đủ khoảng 600 người.
Sau khi thả neo, tôi đi quanh chiến hạm vài ṿng
để biết t́nh trạng của các gia đ́nh quá
giang, rồi lên đài chỉ huy ngồi quan sát. Dăy núi
Tiên Sa sừng sững trước mặt. Trong nhiều
năm qua, tôi đă ra vảo hải căng này nhiều
lần, đă thưởng thức vẽ đẹp thiên
nhiên thơ mộng, ḥa lẫn với mây trời sóng nước,
mà tâm hồn thấy thoải mái, dù chỉ trong
chốc lát, trước khi con tàu ra khơi, lướt
sóng đại dương! Nhưng hôm nay, tôi cảm
thấy buồn thấm thía, linh cảm một mất mát
lớn sắp xảy ra. Tôi sẽ không bao giờ có
dịp đem con tàu trở lại vùng biển này
nữa! Một
số ghe nhỏ đang chèo đến gần lái
của chiến hạm và nhân viên canh gác ra hiệu cho
họ ngưng lại, chờ lệnh của tôi. Tôi
đi ra sân sau chiến hạm, nh́n những khuôn
mặt hốt hoảng của người lớn
lẫn trẻ con, tôi không cầm ḷng được!
Họ chỉ là những người dân, không thuộc
gia đ́nh Hải Quân, đang hớt hăi t́m đường
chạy trốn Cộng Sản. Trên tàu không ai quen
biết với họ. Tôi ra chỉ thị cho sĩ quan
và nhân viên áp dụng các tiêu lệnh an ninh trước
khi cho họ lên tàu. Gia đ́nh
Hải Quân tiếp tục lên tàu. Đến chiều,
HQ 14 khởi hành về Saigon. Chiến hạm về
đến Vũng Tàu chiều 31, tháng 3. Theo lịnh chuyên
chở, tôi cho các gia đ́nh HQ và khách quá giang lên Vũng
Tàu, trước khi chiến hạm tiếp tục
về Saigon. HQ 14 về đến Bến Bạch Đằng
ngày 1 tháng 4 và cặp tai cầu E trong HQCX để
tải thương và sửa chữa. Chiếu theo
tập hồi kư “Can Trường Trong Chiến
Bại” của Phó Đề Đốc Hồ Văn
Kỳ Thoại, cũng trong ngày này, Đà Nẵng đă
bỏ ngỏ. Đô Đốc Thoại và tất
cả lực lượng yểm trợ V1ZH đă
rời vùng này, trực chỉ Qui Nhơn dưới
sự điều động của BTL/HQ. Sau đó, Phó
Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
được chỉ định làm Chỉ Huy Trưởng
Chiến Thuât (OTC) để yểm trợ chiến trường
Qui Nhơn . ( Lời
của người chuyển : mời các Huynh Đệ
nhớ đón coi Youtube " Tự sát khi không
giữ được thành Qui Nhơn Bài do tôi
viết , Saigon Tube vừa phổ biến, sẽ email ngày
2 tháng tư ) Trong thời gian này, tôi có dịp
gần nhà. Con gái tôi vừa được một năm
và đă nhận ra tôi. Chiều chiều, tôi bế nó
đi quanh chung cư Phạm Thế Hiển. Nó mở
mắt lớn, ṭ ṃ nh́n khung cảnh chung quanh. Tôi
thấy thương nó quá và, trong chốc lát, tạm
quên thế sự đang biến chuyển từng giây
phút. Sinh hoạt quanh chợ Phạm Thế Hiển
vẫn b́nh thường, nhưng nh́n ánh mắt của
phần lớn các bà, các cô bán hàng, tôi thấy
những nét ưu tư thật khó tả. Tôi nghe đồn,
nhiều gia đ́nh đang t́m đường chạy. Có một đêm, sau bữa ăn
tối, hai vợ chồng tôi ngồi, bàn bạc
với nhau về t́nh h́nh cuộc chiến. Tôi cũng
không biết quyết định của các “ông
lớn” trong Hải Quân như thế nào. Vợ tôi
hỏi: “Em và con có thể lên tàu đi công tác
với anh không?” Tôi ngần ngừ một lúc rồi
lấy hết can đảm đáp: “Chắc không
được đâu em. Tàu anh là tàu chiến. Vă
lại, nếu anh cho em và con đi th́ anh phải cho gia
đ́nh tất cả thủy thủ đoàn đi.
Điều này chắc không được”. Vợ tôi
buồn buồn nói: “Thôi, anh cứ yên ḷng mà đi.
Ở lại nhà, em sẽ lo săn sóc con. May ra Cậu
(bố của vợ tôi) có thể t́m phương
tiện máy bay cho gia đ́nh đi, v́ Cậu làm cho cơ
quan Mỹ ở Saigon. Nếu khi mất nước, anh
thấy an toàn để về đón gia đ́nh, th́
anh về. Nếu không, anh cứ đi ra ngoại
quốc và t́m cách liên lạc với em sau”. Tôi
thấy cảm động quá, nghẹn ngào thương
cho sự hy sinh và phục cho ḷng can đảm của
vợ tôi. Tôi muốn ôm vợ tôi vào ḷng để an
ủi. Nhưng biết nói ǵ đây trong hoàn cảnh
bất định này? Tôi chỉ khẻ gật đầu,
ngồi yên lặng, cố nén hai ḍng lệ muốn trào
ra…, rồi quay qua nh́n con gái chúng tôi đang ngủ
say. Nhiều lần trước, khi nh́n nó ngủ, tôi
thường mơ đến cảnh thanh b́nh sau
chiến tranh, và Miền Nam chiến thắng. Vợ
chồng tôi sẽ nắm tay nó, dẫn đi Sở Thú,
đi về Huế, về Hải Pḥng thăm quê
nội ngoại… Nhưng bây giờ, giấc mơ
đó hầu như đă tiêu tan, chỉ c̣n cầu
mong có một phép mầu xảy ra để quân nhân
VNCH đâp tan được âm mưu xâm lược
của CSBV. Nếu không, xin cho tất cả sẽ
được an toàn và có dịp đoàn tụ ở
một nơi nào đó, trên một xứ tự do. Nơi
ấy có thanh b́nh, công lư, và dân chủ. 4. Công Tác Vùng III Duyên Hải Trong lúc HQCX tiến hành việc sửa
chữa vỏ tàu, và các hệ thống đă hư
hỏng trong biến cố vừa qua tại V1ZH, nhân viên
chiến hạm lo bảo tŕ súng pḥng không, hệ
thống máy chánh, hải pháo, radar, truyền tin, pḥng
tai, vận chuyển… và xin tiếp tế nhiên
liệu, nước ngọt… để chuẩn bị
cho chuyến công tác sắp đến. Tôi chỉ định
Thiếu Úy T lo hồ sơ tử tuất cho các nhân viên
đă tử trận, lo chuyển giao di sản, và đón
tiếp thân nhân. Tôi cho gởi TT/TS Nguyễn Văn Hùng
nhập TYV Cộng Ḥa. Ngày 2 tháng 4, tôi
chỉ định Hạm Phó, SQ/CTCT, và Y Tá lên Bệnh
viện HQ Bạch Đằng đón bà Trần Nguơn
Phiêu đến thăm thương binh. Tôi định
sẽ đến nếu không bận. Nếu bận, tôi
sẽ đến thăm anh em ngày hôm sau. Tôi cho thao
dợt Nhiệm Sở Pḥng Không mỗi ngày lúc 3
giờ chiều. Ngày 8 tháng 4, lúc 8:30 sáng, một
chiếc F5 của Không Quân bắn Dinh Độc
Lập. Hải Quân chỉ định các chiến
hạm sau ứng chiến pḥng không: HQ 5, HQ 17, HQ 5, HQ
229, HQ 329, HQ 606, và HQ 231. Lúc này Cộng Sản Bắc Việt
(CSBV) đă tràn vào B́nh Định, Qui Nhơn, và Phú Yên.
Bộ Binh từ Tuyên Đức rút về Đà
Lạt, sau đó Đà Lạt mất. Quân đội
ta vẫn c̣n trấn giữ các tỉnh từ Nha Trang
trở xuống. Tôi không nghe đồn có một
mật ước nào cả giữa Mỹ và Trung
Cộng. Trong lúc này, Miền Nam vẫn giữ lập trường
“Không cắt đất, không chấp nhận liên
hiệp”. Hải Quân vẫn c̣n giữ vững V3ZH,
V4ZH, và V 4 Sông Ng̣i, tuy nhiên tất cả đều
đang trong t́nh trạng báo động. Hiện tại, thủy thủ đoàn
HQ 14 gồm có 17 sĩ quan, 37 hạ sĩ quan, và 54 đoàn
viên hiện diện. Ngoài ra c̣n 12 nhân viên đi phép và
7 nhân viên c̣n nằm bệnh viện. Thêm vào đó, tôi
c̣n tiếp nhận 70 nhân viên tạm trú thuộc HQ 2,
3, 07, 11, 12, 16, 800, và 228. Sáng ngày 8 tháng 4, một F5 thuộc Không
Quân VNCH bắn Dinh Độc Lập. Hải Quân
được lệnh ứng chiến pḥng không. Tôi
chỉ thị Thiếu Úy T và toán ẩm thực đi
chợ thêm để dự trữ cho chuyến công tác
dài hạn sắp đến. Sáng ngày 12 tháng 4 lúc 9 giờ sáng, HQ 14
khởi hành công tác V3ZH. Chiến hạm ra khỏi sông
Ḷng Tảo, đến Vũng Tàu và nhập V3ZH lúc 1
giờ trưa. Sau khi chuyển giao tất cả nhân viên
tạm trú cho HQ 802, tôi cho chiến hạm trực
chỉ phía bắc Vũng tàu, để thay thế HQ
618. Đến ngày 16, lúc 10 giờ 45 sáng, tôi khởi hành
đi Phan Thiết. Nhưng đến 12 giờ 30 sáng
lại được lệnh đổi đường
đi Phan Rang. Lúc này Phan Rang đă bị Cộng
Sản tràn ngập. Chuẩn Tướng Nhật và
TKT/TK Khánh Ḥa đă lên được HQ 3. Không có tin
tức ǵ về Tướng Nghi. Ban đêm HQ 14 tuần
tiễu từ Ḥn Lao đến Lagran. Tôi cho báo cáo
về Trung Tâm Kiểm Soát Cam Ranh (?) t́nh trạng kỹ
thuật và đạn dược trên HQ 14 như sau: máy
điện số 2, bơm cứu hỏa số 2, và
motor số 2 của Frigo bất khiển dụng.
Chiến hạm hiện tồn trữ 110 ngàn lít
dầu, trên 5 ngàn lít nhớt, 20 tấn nước
ngọt, 441 viên đạn đại bác 76 ly, trên 3 ngàn
đạn 40 ly, trên 13 ngàn đạn 20 ly, một
số đạn đại liên và chiếu sáng.
Với khả năng này, và nếu máy điện
số 1 (máy điện duy nhất c̣n khiển dụng)
vẫn chạy tốt th́ chiến hạm c̣n khả năng
hoạt động vài tháng nữa, không cần
tiếp tế. Chỉ c̣n vấn đề thực
phẩm, chỉ c̣n khoảng 2 tuần, ngoại trừ
gạo c̣n rất nhiều. Tôi cho cắt bớt
khẩu phần thịt và rau v́ không biết bao giờ
mới được ghé bến tiếp tế, và không
tiên liệu được chiến tranh c̣n kéo dài bao lâu
nữa. Đồng thời tôi giới hạn việc dùng
nước ngot, v́ máy chế tạo nước
ngọt đă hư từ lâu. Tiêu lệnh này
được áp dụng từ Hạm Trưởng
đến đoàn viên. Sau này nghĩ lại, tôi
thấy cảm phục nhân viên của tôi nhiều
về tinh thần kỷ luật, can đảm, và
sức chịu đựng lớn lao của họ. Trưa ngày 18 tháng 4, chiến hạm
đến gần mũi Cà Ná thuộc tỉnh Ninh
Thuận. Nơi đây Quốc Lộ 1 có môt đoạn
ngắn chạy ra tận biển. Sau này,
chiếu theo bài tường thuật “Măt Trận
Phan Rang” ( http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/MatTranPhanRang.htm tôi biết được
bên trong đất liền, tuần trước, hai
Lữ Đoàn Nhảy Dù và Quân Đoàn 3 c̣n hiên ngang
trấn thủ Địa Đầu Giới Tuyến này
mặc đầu đă bị thiệt hại nặng,
nay Phan Rang đă bị Cộng Sản Bắc Việt
(CSBV) tràn ngập. Một người bạn thân
của gia đ́nh bên vợ tôi, Đại Úy Đinh
Quốc Tuấn thuộc Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù
đă anh dũng chiến đấu và đă tử
trận ngày 15. Sau đó, Trung Tướng Nghi cũng
đă bị đich bắt. Tôi cho chiến ham tiến vào cách bờ
khoảng 9 ngàn yards để quan sát. Nh́n qua
ống nḥm, trên Quốc Lộ 1, tôi thấy xe tăng,
xe chuyển vận, đại pháo của CSBV đang kéo
nhau đi sờ sờ trên quốc lô, hướng
về nam. Tôi nóng máu. Suốt thời gian làm Duyên Đoàn
Phó ZD 13 ở Cửa Tư Hiền, nhiều lần tôi
đă dẫn quân đi phục kích và chạm trán
với CSBV khi chúng chuyển quân từ Phú Thứ, qua
Quốc Lộ 1 để vào dăy Trường Sơn.
Anh em chúng tôi đă hạ chúng sát ván. Nay thấy
tận mắt đoàn xe của chúng đang đi
lừ lừ giữa thanh thiên bạch nhật, tôi không
chịu nổi. Tôi quyết dùng hết hỏa lực
để làm chậm bước tiến của chúng,
để quân ta có thêm thời giờ rút lui. Tôi
vận chuyển chiến hạm vào gần bờ thêm
chút nữa và đích thân hướng dẫn hải pháo
76 ly bắn ṿng cầu vào toán quân xa này. Viên đầu
tiên rơi gần quốc lộ. Qua ống nḥm, tôi
thấy chúng dừng lại. Tôi điều chỉnh và
cho bắn tiếp, nhưng vô hiệu. Sóng biển
chỉ lắc một tí là đạn rơi sai đi vài
chục yards! Bắn một hồi, thấy bụi mù
bay tung tóe, nhưng không biết có mảnh đạn nào
trúng chúng nó không, tôi đành cho ngưng để
tiết kiệm đạn, đồng thời vận
chuyển chiến hạm ra xa bờ để tránh
đạn địch, có thể bắn ra từ đại
pháo của chúng. Một lúc sau, qua máy truyền thanh trên
đài chỉ huy, tôi nghe giọng nói của Hạm Trưởng
HQ 11 gọi tiếp viện. Trước đó, HQ 11
đă tiến vào bờ gần Cà Ná để bắn
triệt hạ một cây cầu nhằm tŕ hoăn địch.
Cầu không sập, trái lại CSBV bắn ra tới
tấp, và HQ 11 cần HQ 14 yểm trợ hải pháo
để rút ra xa bờ. Lập tức, tôi gọi
nhiệm sở ứng chiến 100/100 đồng
thời cho HQ 14 tiến hết tốc lực về phía
cầu. Càng lúc càng gần bờ. Tôi leo lên đài quan
sát nhỏ bên trên đài chỉ huy, tay chỉ hướng
bắn cho hải phào 40 ly, miệng la hét để kích
thích nhân viên. Đạn 40 ly nổ ran dọc theo
bờ biển. Một lúc sau, HQ 11 rút ra đến
chỗ an toàn, tôi cho bắn cầm chừng và rút tàu
về vị trí cũ. Tôi gởi công điện
thỉnh cầu thượng cấp kêu gọi Không Quân
ra bắn đoàn quân xa của CSBV nhưng được
trả lời: “Không Quân đang lo yểm trợ
trấn thủ Saigon”. Lúc này, HQ 17 đă đến vùng và
đảm nhận OTC. Đô Đốc Minh, trên HQ 3,
đến điều động tại chỗ.
Hồi trưa này, nh́n lên trên rặng núi bên trong, tôi
thấy hàng trăm ánh sáng nhỏ nhấp nhánh, tôi
biết quân ta đă tan ră, có lẽ đang t́m
đường rút lên núi. Một số trong
đó thuộc Lữ Đoàn 2 Biệt Động Quân.
Họ đang ra hiệu. Tôi thấy thương cho
họ quá. Cũng như tôi, họ đang căm
hờn nh́n địch tiến về Saigon. Nhưng khác
với tôi, họ là những anh hùng, quả cảm
chiến đấu, nhưng không c̣n đường
triệt thoái. Quân CSBV đă tràn ngập và đang lùng
kiếm khắp nơi. Họ không thể rút ra
biển.Vài cấp chỉ huy của họ đă lên
được HQ 3 và có mật hiệu để liên
lạc với họ, nếu họ rút ra được
gần bờ biển Cà Ná. Một lúc sau, tôi được
lệnh cho tàu vào bờ thi hành công tác rút quân của
Bộ Binh, trong lúc đoàn quân xa, đại pháo
của địch c̣n di chuyển liên tục trên
quốc lộ. V́ HQ 14 thuôc loại tuần dương,
và tôi không có một tin tức t́nh báo nào trên bờ,
đem chiến hạm vào đó không khác ǵ làm mục
tiêu cho chúng bắn, nên tôi đề nghị môt
giải pháp và được chấp thuận: Tôi
sẽ dùng ghe Duyên Đoàn và ghe dân đánh cá để
ban đêm tiến vào bờ chuyển quân. Nh́n ra ngoài khơi, tôi thấy một
đoàn ghe của Duyên Đoàn đang tiến về
nam. Tôi xin thượng cấp cho tôi xử dụng 2
Yabuta, và chỉ định vài nhân viên lên hai chiến
thuyền này để chỉ huy việc đón quân
Bộ Binh trên bờ. Tôi dặn ḍ hai thuyền trưởng
Yabuta và các nhân viên của tôi các việc
phải làm, cho họ mật hiệu đánh đi và
mật hiệu nhận khi đến gần bờ. Các
mật hiệu này do cấp chỉ huy Bộ Binh trên HQ
3 cung cấp. Tôi bảo họ nhớ đem theo vài
khẩu súng, vài cây đèn pin để ra hiệu, hai máy
truyền tin, và cố gắng gom góp một ít ghe đánh
cá để cùng đi vào bờ (tôi định sẽ
trả công cho các ghe đánh cá này sau khi công tác hoàn
tất), chờ đến lúc trời tối th́
khởi hành đi. Tôi c̣n dặn họ, tắt máy
truyền tin để khỏi bị địch phát giác,
chỉ dùng trong trường hợp khẩn cấp. Trời vừa sập tối, tôi
ngồi trên đài chỉ huy chiến hạm, theo dơi
đoàn thuyền của các cảm tử quân đang
tiến vào bờ cho đến khi không c̣n thấy
họ nữa. Trên Quốc Lộ 1, đoàn quân xa
của CSBV vẫn đều đều tiến về
nam. Ḷng tôi nôn nóng, cầu nguyện cho họ được
b́nh an trở về. Nếu tôi được toàn
quyền quyết định, chưa chắc tôi đă
gởi họ đi, v́ sự thành công của công tác này
quá mong manh. Nếu thất bại, bị địch
bắn tiêu diệt, th́ hậu quả thật vô
lường. Suốt đêm tôi thao thức chờ tin
đoàn thuyền vớt Bộ Binh trở về, nhưng
chờ măi vẫn không thấy tăm hơi! Tôi lo
ngại vô cùng. Măi đến rạng đông vẫn không
thấy bóng các thuyền này. Tôi vận chuyển
chiến hạm vào gần bờ hơn, dùng ống nḥm
để quan sát. Bỗng nhiên, tôi nghe một tiếng
nổ lớn, một cột nước trắng tóe lên
cách tàu độ một ngàn yards. Biết đại pháo
của địch vừa bắn ra, tôi cho chiến
hạm chạy ra xa. Đúng lúc này, qua ống nḥm, tôi
thấy xa xa đoàn thuyền bốc quân đang
từ từ tiến ra. Tôi mừng vô kể. Họ
đă xa bờ! Nhưng chỉ có 2 chiếc Yabuta. C̣n các
ghe đánh cá ở đâu, mọi người có an toàn
hay không, tôi tự hỏi. Khi 2 ghe này cặp bên tả
hạm, nhân viên báo cho tôi biết các ghe đánh cá
sợ quá, đă biến đi mất trong đêm, trước
khi vào đến bờ. Họ cho ghe đi dọc theo
bờ suốt đêm mà chỉ liên lạc được
và vớt khoăng 20 người. Tôi khen ngợi anh em
đă can đảm thi hành trách vụ. Tôi tiếp
nhận quân nhân Bộ Binh và cho họ tạm trú trên
chiến hạm, đồng thời cám ơn và chào
từ giă các chiến hữu trên Yabuta trước khi
họ trở về đơn vị. Sau này, cách đây
độ 5 năm, tôi có gặp lại Đại Úy T
mới được biết anh thuộc Duyên Đoàn
này và có hiện diện lúc đó tại Mũi Né. Không
ngờ chúng tôi đă quen nhau nhiều năm tại
Mỹ mà không biết đă có dịp cộng tác
với nhau một khoảnh khắc ngắn trong thời
gian cuối của cuộc chiến. Ngày 19 tháng 4, CSBV tràn ngập Phan
Thiết. Tôi được lệnh V3ZH gọi chiến
hạm về Vũng tàu để nhận tiếp
tế và đi công tác quần đảo Trường
Sa. Trưa ngày 20, HQ 14 về đến gần Ḥn Bà, Vũng
Tàu. Ngày 21, tôi thả neo ngoài Vũng Tàu, nhận thêm
trên 3 ngàn viên đạn 40 ly và 330 viên 76 ly do HQ 08
tiếp tế, và cho ban ẩm thực đi chợ,
đồng thời cho các quân nhân và dân sự tạm
trú lên bờ. Qua các đài truyền thanh, tôi được
biết Tổng Thống Thiệu đă giao quyền lănh
đạo quốc gia cho Phó Tổng Thống Trần Văn
Hương. Nhật lịnh của Đại Tướng
TMT/QLVNCH: “Bảo vệ bờ cơi, đánh bại quân
xâm lăng, bảo vệ Vùng 3 và Vùng 4”. Tuần trước,
tôi mong có một hiệp ước nào đó giữa
Mỹ và Trung Cộng để bắt buộc CSBV ngưng
lại tại Phan Thiết. Nhưng sau khi Phan Thiết
mất. Tôi không c̣n hy vọng nữa. 5. Công Tác Quần Đảo Trường
Sa Lúc 9 giờ 30 tối ngày 21, HQ 14
khởi hành đi Trường Sa theo chỉ thị
của BTL/HQ, thừa lệnh Bộ Tổng Tham Mưu. Cùng
đi, có HQ 17 làm OTC. V́ HQ 17 khởi hành trước và
chạy nhanh hơn nên sẽ đến Trường Sa
trước. Chúng tôi được tiêu lệnh từ
Bộ TTM: “Không được khai hỏa trước
khi đối đầu với đich tại Trường
Sa”. Địch là ai, không biết rơ. Tôi
chỉ được biết trong các ngày vừa qua, có
tin một số máy bay lạ xuất hiện trên đảo.
Nhiệm vụ của HQ 14 và HQ 17 là bảo vệ sinh
mạng của lực lượng Địa Phương
Quân đồn trú trên quần đảo này. HQ 14 đến quần đảo Trường
sa lúc 4 giờ chiều ngày 23 tháng 4. Quần đảo
Trường Sa cách Vũng Tàu 305 hải lư
về phía Đông. Các đảo này là những
cồn cát rất thấp, bao quanh bởi nhiều đá
ngầm và san hô. Việc vận chuyển quanh quần
đảo này tương đ̣i khó khăn,
nhất là ban đêm tối, dù chiến hạm có radar.
Cần nhất là máy định vị trí LORAN, nhưng
máy này đặt trên HQ 14 đă hư từ lâu, không
đươc sửa chữa. HQ 17 và HQ 14 chia nhau đi tuần tiễu
trên quần đảo này. HQ 17 quan sát thấy một
ngọn cờ đỏ trên đảo và ra lịnh HQ
14 bắn triệt hạ. Cứ mỗi lần đạn
76 ly nổ, cả ngàn con hải âu trắng lại bay lên
ngập trời, rồi đáp xuống ngay! Ngày đầu
t́nh h́nh tương đối yên lặng. Đến
quá nửa đêm ngày 25, có hai tàu lạ xuất
hiện ở đảo Nam Yết, một ở hướng
đông và một ở hướng tây. HQ 17 và HQ 14
gọi nhiệm sở tác chiến, rượt theo hai tàu
này. Chúng bỏ chạy mất dạng. Đến 7
giờ sáng, 2 echo xuất hiện trên radar, cách HQ 17
gần 4 ngàn yards, nhưng chúng đi xa dần. HQ 17 xin
chỉ thị BTL/HQ Saigon và được đáp:
“Phải báo cáo trước khi hành động”. Tôi
mong được chỉ thị “Tùy nghi hành động”
th́ dễ cho chúng tôi hơn! Ngày 28, HQ 14, HQ 17, và Địa Phương
Quân được lệnh rút khỏi Trường Sa,
về Vũng Tàu. Tôi khởi hành trước. HQ 17
ở lại để tiếp nhận Địa Phương
quân cho xong trong ngày và trực chỉ Vũng Tàu.
Vào lúc 5 giờ chiều, tôi nghe lễ bàn giao chức
Tổng Thống giữa Cụ Trần Văn Hương
và Đại Tướng Dương Văn Minh đă
diễn ra tại Dinh Độc Lập. Trên đường vể gần đến
Vũng Tảu, tôi thấy “rồng hút nước”
(những cột nước cuốn lên trời do
sức xoáy cực mạnh của gió). Suốt 8 năm
trên biển, đây là lần đầu tiên tôi
thấy hiện tượng này. Người xưa tin
rằng đây là một điềm xấu! Xa xa tôi
thấy vài chiến hạm Mỹ. HQ 14 về đến
Vũng tàu trưa ngày 29 tháng 4. Quang cảnh ngoài khơi
Vũng tàu lúc đó thật tấp nập, nào
chiến hạm Mỹ, nào thương thuyền
ngoại quốc đến tiếp nhận dân sự do
lời yêu cầu của chánh phủ Hoa Kỳ, nào ghe
chở dân đến thương thuyền, nào trực
thăng Mỹ bốc quân Mỹ và thường dân di
tản từ Ṭa Đại Sứ Mỹ
tại Saigon, lên chiến hạm. Tôi nghĩ đến
gia đ́nh vợ con, không biết tất cả bây
giờ ở đâu, có an toàn không. Chắc nhân viên
của tôi cũng cùng tâm trạng. Nhưng không ai nói
với ai điều ǵ. CSBV đă tiến đến
gần Saigon và đang pháo kích Tân Sơn Nhất. Tôi
cố thẩm định t́nh thế xem có nên liều
đem chiến hạm về Saigon hay không, tuy nhiên tôi
không có tin tức ǵ chính xác. Ngay cả bên trong Vũng
Tàu, tôi cũng không biết rơ. Trong lúc c̣n phân vân, tôi được
lịnh của V3ZH cho tất cả chiến hạm dưới
sự điều động của vùng này được
tan hàng và các Hạm Trưởng được toàn
quyền quyết định, có nghĩa BTL/HQ không c̣n
ra lịnh nữa. Nghe vậy, tôi lặng người, nghĩ
đến mất nước. Một biến cố
đau ḷng tôi tiên đoán hơn cả tháng qua, nay
đă đến! Nhưng tôi kềm chế được
t́nh cảm của ḿnh ngay. B́nh tỉnh, tôi quyết
định đưa HQ 14 ra ngoại quốc. Tôi nghĩ
đi Philippines rất gần, nhưng không chắc
được tiếp nhận. V́ vậy tôi cho nhân viên
Giám Lộ chuẩn bị các hải đồ từ Vũng
Tàu đến đảo Guam để tôi vẽ
đường đi v́, qua tin trên các đài truyền
thanh, tôi biết tại đó chánh phủ Hoa
Kỳ đang tiếp nhận quân nhân và thường dân
VNCH tị nạn Cộng Sản. Tức tốc, tôi triệu tập
một buổi họp ngắn, gồm có các Sĩ Quan,
Quản Nội Trưởng, một số Hạ Sĩ
Quan, và một số nhỏ đoàn viên. Tôi cho họ
biết ư định của tôi và phân công cho mọi
người trong việc giữ ǵn an ninh cho chiến
hạm và thủy thủ đoàn. Đại khái,
mỗi người giữ một cây súng cá nhân,
tất cả súng cá nhân c̣n lại và lựu đạn
phải giữ trong kho và khóa lại cẩn thận,
quản thủ ch́a khóa kho súng, bảo vệ các súng trên
boong tàu, phản ứng cần thiết và cấp
thời khi một nhân viên có hành động gây
hấn hoặc nội loạn. Thật ra, qua hơn nửa năm trường
cùng sống chết với anh em, tôi đă biết rơ
tinh thần kỷ luật cao độ và t́nh cảm
của anh em đối với tôi. Tôi không tin có môt
sự việc đáng tiếc nào sẽ xảy ra. Tuy
nhiên, theo tôi nghĩ, đây là môt biện pháp mà
bất cứ cấp chỉ huy cẩn trọng và có trách
nhiệm nào, cũng cần áp dụng trong trong trường
hợp đặc biệt này. Tôi cho tập họp anh em để nói
chuyện. Khi tôi đến đứng trước hàng
quân, anh em nghiêm chỉnh chào tôi như thường
lệ. Nhưng thoáng nh́n ánh mắt của họ, tôi
thấy hầu hết đều đượm một
nét buồn sâu xa, hay hơn nữa một thất
vọng. Chắc họ đă biết những ǵ đă
xảy đến. Ngừng một chút, tôi nhẹ nhàng
báo tin cho họ. Tôi nói: “Chúng ta đă cùng nhau
chiến đấu một thời gian dài, hy vọng
sẽ chiến thắng. Nhưng hôm nay, không may, chúng ta
đă bại trận. CSBV đă tiến vào Saigon. Tôi
quyết định đem chiến hạm ra ngoại
quốc, đến môt nước tự do. Anh
nào muốn theo tôi, đứng ra bên này. Anh nào muốn
trở về với gia đ́nh, đứng ra bên kia”.
Sau một hồi lưỡng lự, anh em đứng ra
hai bên. Tôi cho Hạm Phó và Quản Nội Trưởng
ghi tên các anh em muốn trở về. Số người
trở về tôi không ghi trong nhật kư, chỉ nhớ
thoang thoáng trên 30 người. Trời đă về chiều, tôi
bắt đầu t́m phương tiện cho anh em vào
bờ để về nhà. Hồi trưa nay tôi
thấy hằng trăm chiếc ghe nhỏ đưa dân
sự từ Vũng Tàu ra tàu buôn ngoại quốc. Tôi
định nhờ họ chở anh em vào bờ và
trả bằng dầu. Nhưng bây giờ các ghe này
biến đi đâu mất. Tôi cho tàu chạy ṿng ṿng
để t́m kiếm. Khi trời sụp tối tôi cho rà
trên radar xem có thấy ǵ không, nhưng vô vọng. Tôi
muốn khởi hành đi Guam ngay để ra đến
hải phận quốc tế, và càng xa càng tốt,
sợ máy bay CSBV có thể rượt theo. Chỉ
cẩn thận thôi, vỉ tôi ước đoán
chiến đấu cơ Mig của chúng chưa đến
Saigon. HQ 17 đă khởi hành đi từ lâu. Nhưng tôi
đă hứa với nhân viên là cho họ vào bờ, bây
giờ làm sao đây? Trong lúc đang tấn thối lưỡng
nan, tôi được công điện mật của
Đô Đốc Minh gọi tập trung tại Côn Sơn
để cùng đi. Tuy không biết đi đâu, nhưng
v́ tin Đô Đốc Minh nên tôi cho trực chỉ Côn
Sơn. Trong lúc này Cộng Sản nằm vùng trong BTL/HQ
liên tiếp gọi máy dụ dỗ các hạm trưởng
đưa tàu về Saigon. 6. Chuyến Di Tản Cuối Cùng: Vũng
Tàu – Côn Sơn – Subic Bay, Philippines Sáng hôm sau, ngày 30, trên đường
đi Côn Sơn, tôi gặp vài chiếc LCVP chở toán
sửa chữa lưu động chạy t́m đường
đi. Tôi cho vớt tất cả. Trong lúc họ lên tàu,
một nhân viên giám lộ từ LCVP leo lên, đến
chào tôi. Tôi nhận ra ngay, đó là nhân viên của tôi
đă bị gẫy mất một tay trong lúc Không Quân
bắn HQ 14 ngoài cửa Thuận An. Lúc đó anh đang
đứng cạnh tôi trên đài chỉ huy. Anh nằm
điều trị tại bệnh viên Duy Tân, và khi
chiến hạm rút khỏi Đà Nẵng tôi không can
thiệp cho anh ra được v́ vết thương
của anh vẫn c̣n đang rỉ máu. Anh cho biết,
khi CSBV tràn vào Đà Nẵng, anh đă thoát ra được
và theo một nhóm nhỏ Biệt Kích t́m về Saigon
bằng đường biển. Mọi người
đều mừng cho anh và nhân viên y tá săn sóc cho
anh tận t́nh. Vài ngày sau, khi gặp chiến hạm
Mỹ, tôi xin cho anh được chuyển qua điều
trị. Từ đó, tôi không được tin tức
ǵ về anh nữa. Trên đường đến Côn
Sơn, tôi vớt thêm nhiều dân sự và gia đ́nh
quân nhân, tổng cộng trên 100 người. Vào buổi chiều trên đường
đến Côn Sơn, khi đang ngồi trên đài
chỉ huy, tôi được HQ 3 gọi máy cho biết
có gia đ́nh vợ tôi trên chiến hạm. Tôi vừa
mừng, vừa ngỡ ngàng, tại sao vợ tôi
lại lên được HQ 3, hay là gia đ́nh ai không.
Từ lúc khởi hành đi công tác V3ZH đến nay,
chúng tôi không có tin tức ǵ của nhau cả. Tuy nhiên
tôi vẫn hy vọng là đúng. Tôi yêu cầu
được nói chuyên trực tiếp với vợ tôi
trên máy. Nhưng bị từ chối, bảo tôi
phải chờ v́ máy quá bận rộn. Măi đến
tối HQ 3 mới gọi lại cho tôi nói chuyện
với vợ tôi. Nhưng vợ tôi chẳng nói
được câu nào. Sau này hỏi lại mới
biết vợ tôi không biết phải bấm máy khi nói.
Thay v́, tôi nghe giọng nói của ông cậu ruột nhà
tôi, ông Trần Van L. Ông cho tôi biết vợ con tôi và
gia đ́nh bên vợ, tổng cộng 19 người
đang có mặt trên tàu. Tôi mừng quá, không kịp
hỏi tại sao, chỉ hứa sẽ đón qua tàu tôi
khi được phép. Nhưng cái mừng của tôi không
trọn vẹn. Tôi thấy buồn cho nhân viên của tôi.
Từ Hạm Phó trở xuống, không ai có thân nhân
đi được cả. Sau này, khi gia đ́nh vợ
tôi được chuyển qua HQ 14, tôi được
nghe kể lại chi tiết viêc chạy từ nhà
ở bên Chí Ḥa đến khi lên được HQ 3.
Đoạn đường tuy không xa, nhưng thật
hồi hôp và bất định. Mấy ngày trước
đó, gia đ́nh vợ tôi từ chung cư Phạm
Thế Hiển chạy qua Chí Ḥa cho gần đường
lên phi trụng Tân Sơn Nhất. Nhưng không vào phi trường
được v́ Cộng Sản pháo kích. Đến
chiều 29, trong khi CSBV pháo kích, đạn nổ nghe
rất gần, và cả nhà ngồi chung dưới
đất cầu nguyện, ông anh ruột của nhà tôi,
Trung Úy L, và ông cậu ruột, Thiếu Tá Trần
Quốc B thuộc bộ TTM đă về hưu, dùng xe
Honda 2 bánh chạy đi t́m đường. Ra đến
đầu ngơ, gặp một người bạn. Cô này
cho biết trưc thăng Mỹ đang bốc người
ở bến Bạch Đằng. Hai người
chạy ra bến Bạch Đằng xem t́nh h́nh. Khi
đến nơi, họ không thấy trực thăng
đâu, chỉ thấy những ṿng kẽm gai giăng
ngang cổng vào BTL. Nhiều quân nhân HQ cầm súng
ở thế tác chiến đứng gác. Thỉnh
thoảng, có vài quân nhân HQ đưa gia đ́nh vào. Hai
người bàn bạc “chắc HQ đang di tản”,
hăy về đưa gia đ́nh ra đây rồi tính sau,
may ra vợ tôi có thể xin vào được. Cả
nhà, 19 người gồm cả bà con, chạy ra
bến Bạch Đằng. Dọc đường,
thỉnh thoảng lại thấy nhân dân tự vệ
đang bắn chỉ thiên, chỉ lo bị chúng
chận đường. Một lúc sau, đến
được cổng BTL/HQ. Nhà tôi tiến đến,
đưa ra một tấm h́nh của tôi chụp chung
với cố vấn Mỹ khi tôi c̣n làm hạm trưởng
HQ 612, và xin cho vào, nói tôi là hạm trưởng HQ 14
đang công tác ngoài khơi. Nhân viên gác cổng chỉ
liếc qua rồi gạt đi. Vợ tôi thất
vọng nghĩ thầm: Thế là vô phương
rồi! May thay, đúng lúc đó, một sĩ quan HQ
mang huy hiệu hạm trưởng từ trong đi ra.
Nhận ra đó là Thiếu Tá Nguyễn Thụy Đ, cùng
khóa với tôi mà vợ tôi được gặp
một lần cách đây mấy năm về trước.
Vợ tôi nhờ giúp đỡ và cả nhà được
vào. Nhưng vào trong cổng rồi cũng không biết
đi đâu. Bỗng nhiên, lúc đó một đoàn người
trong một cơ sở bên trong đi ra và lên tàu.
Cả nhà cứ theo họ và cuối cùng lên được
HQ 3. Đến Côn Sơn, sau khi chuyển các
nhân viên muốn về nhà qua một hỏa vận
hạm được chỉ định về Việt
Nam, tôi cho chiến hạm ra khơi chạy ṿng ṿng
đến sáng mới vào cặp với các chiến
hạm khác. Khoảng 9 giờ sáng, tất cả
chiến hạm cùng nhau khởi hành qua Subic Bay, cách Côn
Sơn 900 hải lư, với vận tốc trung binh 6
hải lư/giờ, v́ có nhiều chiến hạm hư
hỏng phải chạy chậm. Vào lúc 3 giờ chiều ngày 2 tháng năm,
HQ bắn ch́m HQ 474 v́ chiến hạm này hầu như
bất khiển dụng. Đến sáng ngày 3 tháng 5, HQ 14 cặp
HQ 3 nhận thực phẩm và một số gia đ́nh,
trong đó có gia đ́nh vợ tôi. T́nh trạng
biển trong các ngày qua thật êm, nhờ vậy không
ai ói mửa. Suốt buổi sáng ngày 5, chiến
hạm Kirk (USS Kirk, DE 1087) tiếp tế thực phẩm
cho đoàn tàu VNCH. Trung úy Don Swain và Trung Sĩ Richardson
thuộc USS Kirk lên HQ 14 để chuẩn bị bàn giao
chiến hạm cho HQ Hoa Kỳ. Sau này, khi đọc
hồi kư của Đại Tá Kiểm và video “The Lucky
Few” của HQ Hoa Kỳ tôi mới biết rơ v́ sao
phải bàn giao ngoài khơi thay v́ trong hải cảng.
Hồi đó Philippine đă công nhận ngụy
quyền CSBV mà chúng đă tự đặt cho ḿnh cái
tên thật trái ngược với bản chất
của nó, “VN Dân Chủ Cộng Ḥa”. V́ vậy,
Philippines nhất quyết từ chối việc nhập
hải cảng Subic Bay của các chiến hạm VNCH.
Cuối cùng, các cấp lănh đạo của HQVN trên
soái hạm HQ 3 và chánh phủ Hoa Kỳ đă t́m ra
một giải pháp hợp lư: Chuyển giao các chiến
hạm HQVN cho HQHK ngoài khơi Subic Bay, theo thỏa ước
“Khi nào VNCH không c̣n dùng các chiến hạm này
nữa, th́ phải trả lại cho Hoa Kỳ”. Ngoài
ra, để giữ thể diện cho HQ/VNCH, một
lễ bàn giao cần được cử hành trên
tất cả chiến hạm VNCH hiện diện ngoài
khơi Subic Bay, gồm có: HQ 3, 11, 12, 14, 228, 229, 231, 401,
470, 505, 618, 800, 607, 17, 08, 1, 404, 16, 502, 471, 5, và 801. Ngày 6 tháng 5, HQ 14 c̣n cách Subic Bay 87
hải lư, thủy thủ đoàn được
lệnh ném tất cả đạn dược, lựu
đạn và súng cá nhân xuống biển, đồng
thời vô hiệu hóa tất cả hải pháo và
chuẩn bị kế toán nhiên liệu, nước
ngọt, t́nh trạng chiến hạm để bàn giao
ngày hôm sau. Sáng ngày 7 tháng 5, các chiến hạm VNCH
đă tập trung ngoài khơi Subic Bay. Đến trưa,
lễ bàn giao chiến hạm bắt đầu trong
bầu không khí trang nghiêm và cảm động. Trên HQ
14, tất cả thủy thủ đoàn và nhân viên quá
giang đều tham dự. Trung Úy Don Swain, đại
diện HQHK, tiếp nhận chiến hạm. Cảm
động nhất là nghi thức hạ kỳ VNCH. Sau
đó là lễ thượng quốc kỳ Hiệp
Chủng Quốc Hoa Kỳ. Lể Hạ Quốc Kỳ VNCH trên HQ
14 Sau khi lễ bàn giao chấm dứt,
thủy thủ đoàn gở lon ném xuống biển,
một số giữ lại để kỷ niệm. Không
ai nói vói ai, rơm rớm nước mắt. Lá
quốc kỳ VNCH vừa hạ xuống, đươc
trao cho tôi. Tôi vẫn giữ ǵn, trân quí nó cho đến
ngày hôm nay. Lá quốc kỳ nhuộm màu phong sương
này đă phất phới tung bay trên HQ 14 suốt
mấy tháng cuối cùng của cuộc chiến.
Phần tôi, ngoài mặt tôi vẫn giữ nét nghiêm
trang, nhưng trong ḷng, tôi đang khóc. Một cuộc
chiến dài đăng đẵng đă chấm
dứt trong đau thương, thất vọng! Bao nhiêu
quân sĩ, tướng tá anh dũng của Quân Lực
VNCH đă thương vong. Bao nhiêu gia đ́nh đau
khổ, mẹ mất con, vợ mất chồng, con
mất bố. Tất cả hy sinh đó chỉ nhắm
một mục đích: Bảo vệ Miền Nam Tự
Do. Nay, tất cả hy vọng đă trở thành mây khói! Lễ Thượng Quốc
Kỳ Hoa Kỳ. Tuy đă
nhận bàn giao, Trung Úy Don Swain vẫn yêu cầu tôi
tiếp tục điều khiển nhân viên và
đưa chiến hạm vào trong Subic Bay. Lần lượt,
các chiến hạm vào hải cảng. HQ Hoa Kỳ không
cho phép các hạm trưởng VNCH tự cặp cầu
và HQ Hoa Kỳ cũng không đủ phương
tiện để chuyên chở tất cả thủy
thủ đoàn và người quá giang vào bờ. V́
vậy, tôi phải vận chuyển HQ 14 chờ trong
hải cảng đến khi tàu kéo của HQ Hoa Kỳ
ḍng chiến hạm vào cặp cầu. Sau đó, tôi có
vài lời từ giă nhân viên quá giang và thủy thủ
đoàn trước khi họ rời chiến hạm. Theo
lời yêu cầu của HQ Hoa Kỳ, tôi cho Trung Úy Dân
và vài nhân viên cơ khí cùng vô tuyến Tuấn
tiếp tục ở lại chiến hạm để
lo máy móc cho đến khi tôi rời chiến ham và tàu
ḍng của HQ Hoa Kỳ hoàn tất việc đưa HQ
14 ra buộc phao trong hải cảng th́ tắt hết máy
móc và theo tàu ḍng vào bờ. Khi tôi vào
pḥng ăn sĩ quan, các sĩ quan an ninh của HQ Hoa
kỳ đă có mặt ở đó, chờ tôi cho
biết t́nh h́nh trên quần đảo Trường Sa
trong thời gian HQ 14 hoạt động quanh quần
đảo này. Sau
khi thuyết tŕnh cho họ, tôi cùng gia đ́nh rời
chiến hạm. Tuy tôi không c̣n mang cấp bậc, anh quân
nhân TQLC Hoa kỳ đang đứng gác hạm kiều
vẫn nhận ra tôi và nghiêm chỉnh đưa tay chào.
Tôi chào lại anh, và quay lại chào lá quốc kỳ
Mỹ, chào HQ 14 thân yêu của HQVNCH một lần chót,
và vĩnh viễn rời chiến hạm, một
chiến hạm mang đầy ắp kỷ niệm
của đời tôi. Phạm Thành |