Hải Quân Việt Nam Cọng Hoà |
Những
nhà nghiên cứu hải sử có mặt tại khúc
quanh lịch sử Việt Nam, ngày 30 Tháng Tư năm
1975, đều thừa nhận mặc dù đột
ngột tan hàng, song Hải Quân VNCH đă thực
hiện trọn vẹn sứ mạng của Tổ
Quốc Việt Nam giao phó bảo vệ tự do cho dân
tộc trong suốt quá tŕnh ngăn chận làn sóng
đỏ do Đảng cộng sản VN phát động
thành một cuộc chiến nghiệt ngă huynh đệ
tương tàn. Suốt quá tŕnh 23 năm bảo vệ
nước, căn cứ vào những mốc thời
gian quan trọng th́ thành quả đạt được
của quân chủng có thể chia làm 3 giai đoạn;
đặc biệt chú trọng đến sự lớn
mạnh của Giang Lực và Duyên Lực:
1.
Giai đoạn khó khăn h́nh thành (1952-1957) Ngày
lịch sử đau buồn mùng 1 Tháng Chín năm 1858 cũng
là ngày đánh dấu khởi điểm suy tàn của
triều đại Nhà Nguyễn, khi Đề Đốc
(Hải Quân Thiếu tướng) Charles Rigault de Genouilly
(1) chỉ huy 2,500 lính viễn chinh Pháp và 1,000 lính
thuộc địa Tây Ban Nha với 14 chiến hạm vào
cửa Đà Nẵng bắn ch́m các chiến thuyền
Việt Nam, chiếm các pháo đài bán đảo Sơn
Trà rồi giao cho Hải Quân Đại Tá Toyon trấn
giữ. Đến ngày 11 Tháng Hai năm 1859, De Genouilly
lại dẫn các chiến hạm trên vô cửa Cần
Giờ đánh tan các chiến thuyền và đồn bót
do Đề Đốc Trần Trí đang tổ chức pḥng
thủ tại vịnh Gành Rái. Thừa thắng tiến
lên thượng nguồn, ngày 18 tháng 2 năm 1859, quân
Pháp lại tấn công đổ bộ qui mô từ
bờ sông vào thành Gia Định. Thành vỡ, Án Sát Lê
Tứ và Hộ Đốc Vũ Duy Ninh đều tuẫn
tiết. C̣n lại Đề Đốc Trần Trí, Bố Chánh
Vũ Trực cùng Lănh Binh Tôn Thất Năng rút tàn quân
về cố thủ huyện B́nh Long. Vào
giữa thế kỷ thứ 19, hạm đội Pháp
được các sử gia Tây phương đánh giá
là hạm đội tối tân nhất trong các cường
quốc Hải Quân Châu Âu đang săn t́m thuộc
địa. Các chiến thuyền lỗi thời của
thủy quân Triều Nguyễn hành thủy từ
những năm vua Gia Long phục quốc thống
nhất sơn hà 1802, nên không đủ khả năng
đương cự lại. Qua
hai trận thủy chiến mà tương quan kỹ
thuật tác chiến quá chênh lệch như vậy thành
ra quân ta thất trận hoàn toàn và thủy quân
triều Nguyễn coi như thật sự bị xóa
sổ từ đây, dù rằng dưới triều vua
Tự Đức việc huấn luyện thủy quân
rất được chú trọng đến. Giở
lại những trang quân sử thành lập Quân Lực
VNCH (2), nếu gác bỏ ra ngoài những tai tiếng không
tốt mà đối phương đă tuyên truyền
về nếp sống xa hoa của cựu hoàng Bảo Đại
lưu vong, người đọc sẽ thông cảm
được quyết tâm cao tạo dựng một
quốc gia Việt Nam (QGVN) độc lập, qua
quyển CON RỒNG VIỆT NAM, của vị vua cuối
cùng triều đại nhà Nguyễn. Trải
qua nhiều giai đoạn thương thuyết rất
cam go với chính quyền thực dân Pháp, cựu hoàng
Bảo Đại hết sức kiên nhẫn với
tập đoàn thống trị để họ chấp
nhận một nước Việt Nam độc lập
trong Liên Hiệp Pháp được h́nh thành. Ngày
mùng 5 Tháng Sáu năm 1948, hiệp định sơ
bộ Vịnh Hạ Long (dẫn đến hiệp
định Elysée sau này) kư kết giữa Toàn Quyền
Đông Dương Emile Bollaert và Thủ Tướng lâm
thời Nguyễn Văn Xuân có cựu hoàng phó thư
(countersign) trên chiến hạm Duguay Trouin thừa
nhận nguyên tắc độc lập và thống
nhất của nước Việt Nam với Quốc
kỳ: Cờ màu vàng 3 sọc đỏ và Quốc ca:
Thanh Niên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước. (3). Nhưng
rồi Quốc Hội Pháp cứ làm ngơ, viện
cớ chưa t́m được qui chế thích hợp
cho Nam Kỳ, măi đến ngày 8 Tháng Ba năm 1949
mới thuận cho Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và
cựu hoàng Bảo Đại chính thức kư hiệp
định Elysée chấp nhận nước Việt Nam
độc lập trong khối Liên hiệp Pháp có
tổ chức hành chánh riêng, tài chánh riêng, tư pháp
riêng, quân đội riêng và Pháp sẽ ủng hộ
Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc (4). Như
vậy, cực chẳng đă chính phủ Pháp đành
phải trao trả nền độc lập, thống
nhất và toàn vẹn lănh thổ cho vị nguyên
thủ của nước Việt Nam là Quốc trưởng
Bảo Đại. Dĩ nhiên hiệp định này đi
ngược lại quyền lợi của nước
Pháp, v́ thực dân Pháp chỉ muốn cai trị nước
ta như trước kia mà thôi. Thực
thi Hiệp Định Elysée, thỏa ước quân
sự Pháp-Việt ngày 30 Tháng Mười Hai năm 1949 về
Hải Quân lại bị tŕ trệ kéo dài đến
giữa năm 1951, Đô Đốc Ortoli, tư lệnh
Hải Quân Pháp ở Viễn Đông mới được
lệnh lập kế hoạch huấn luyện quân
sự để chuyển giao đầu tiên 2 Hải Đoàn
Xung Phong cho Hải Quân Việt Nam. Chương tŕnh
chuyển giao các Trục lôi hạm (YMS), Giang pháo
hạm (LSIL). Trợ chiến hạm (LSSL)… sẽ
tiến hành vào những năm kế tiếp. Nhưng
khi nắm quyền tổng chỉ huy hành chánh lẫn quân
sự tại Đông Dương, Thống Tướng Jean
de Lattre de Tassigny (5) muốn Hải Quân Việt Nam hoàn toàn
thống thuộc mọi mặt vào lục quân Pháp,
chứ không phải là một quân chủng riêng như
Đô Đốc Ortoli đă đề nghị. Viên tướng
5 sao này cho rằng một quân chủng kỹ thuật
như Hải Quân không thể nào đứng vững
được v́ thiếu cán bộ và chiến cụ. Ngày
15 Tháng Tám năm 1951, Pháp đồng ư cho tuyển
mộ khóa 1 Sĩ quan Hải Quân gồm 9 sinh viên – 6
theo ngành chỉ huy và 3 theo ngành cơ khí – phần
đông là cựu sinh viên trường Thủy Văn Sài
G̣n (Saigon Hydrography School); khóa hạ sĩ quan có 50 và
đoàn viên là 300. C̣n
về phía Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam, dù bị
chèn ép mọi mặt, Quốc Trưởng Bảo Đại
vẫn kiên tŕ tranh thủ xây dựng nền tảng
bắt đầu từ con số không cho Quân Đội
Quốc Gia. Kể
từ sau ngày 24 Tháng Tám năm 1945 bị Hồ Chí Minh
ép buộc thoái vị phải trao kiếm vàng cùng
ấn ngọc cho đại diện Việt Minh Cộng
Sản là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tại
Ngọ Môn Huế, cựu hoàng hết sức thấm thía
về việc hoàng triều không có một quân đội
đủ mạnh để dẹp bỏ Việt Minh
Cộng Sản trước rồi sau đó đẩy
lui Phú-Lang-Sa và bảo vệ chủ quyền quốc gia
trường tồn. Cho nên trong thông điệp ngày 15
Tháng Năm năm 1948 gửi cho Thiếu Tướng
Nguyễn Văn Xuân, cựu hoàng tán thành đề
nghị thành lập Chính Phủ Trung Ương Lâm
Thời và giao cho Quốc Vụ Khanh kiêm Tổng
trấn Trung phần (sau này đổi tên là Thủ
hiến Trung Việt) Phan Văn Giáo (6) trọng trách xây
dựng một Quân Đội Quốc Gia Việt Nam
gồm đủ cả Hải, Lục và Không Quân. Cho
đến năm 1949, Tổng Trấn Trung Phần Phan Văn
Giáo đă thành công trong công tác tuyển mộ và
huấn luyện cho tổ chức Việt Binh Đoàn
tại Huế. Sau Hiệp Định Elysée, lần lượt
Vệ Binh Nam Phần và Bảo Chính Đoàn Bắc
Phần cũng được thành lập vào giữa năm
1950. Chính những đơn vị này là hạt nhân cơ
bản cho tổ chức quân đội chính qui QGVN (The
Vietnamese National Army) ra đời ngày 30 Tháng Giêng năm
1951 (Dụ số 1 0D/VOP/DQT/TS) kèm theo 2 sắc lệnh cùng
ngày (7). Sinh
sau đẻ muộn hơn 2 quân chủng Lục và Không
Quân v́ nghị định thành lập Hải Quân
bị đ́nh hoăn nhiều lần. Nhưng rồi do nhu
cầu chiến cuộc, dụ số 2 đă cho phép
Hải Quân ra đời ngày 6 Tháng Ba năm 1952, hồi
tố đến ngày 1 Tháng Giêng năm 1952. Vào thời
điểm này, muốn thành lập một quân
chủng kỹ thuật như Hải Quân mà không có
một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp
giỏi, không có các phương tiện huấn
luyện nhân sự quả là một điều không tưởng.
Không c̣n cách nào tốt hơn để đốt giai
đoạn, ngoại trừ chính phủ QGVN dựa vào
những cơ sở huấn luyện có sẵn của
Hải Quân Pháp để đào tạo nhân viên tân
tuyển của ḿnh. Cho
nên trong khoảng thời gian từ năm 1951 đến
năm 1953, hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và
đoàn viên tiên khởi của Hải Quân Việt Nam
phải theo thực tập (On the job training) trên các
chiến hạm, chiến đỉnh của Hải Quân
Pháp đang hoạt động ngoài biển cũng như
trong sông. Có
thể nói những người t́nh nguyện gia
nhập vào hàng ngũ Hải Quân Việt Nam trong hoàn
cảnh quá khó khăn như vậy là những thanh niên
quyết tâm bảo vệ quốc gia và ôm ấp
mộng hải hồ. Với tinh thần yêu nước
cao độ, nhẫn nhịn chịu đựng
tập luyện vượt qua nhiều giai đoạn
cực khổ, cuối cùng họ đă chứng tỏ
được khả năng hoàn hảo về kỹ
thuật, hành thủy và tác chiến để xứng
đáng nhận lănh đầu tiên 2 Hải Đoàn Xung
Phong Cần Thơ và Vĩnh Long vào giữa năm 1953
(8). Thái độ đối xử ḥa nhă cùng nhiệt
t́nh làm việc của tân thủy thủ đoàn
Việt Nam khiến cho một số sĩ quan và hạ
sĩ quan Pháp quên đi nỗi bất b́nh về lá
cờ màu vàng 3 sọc đỏ đang phất
phới bay trên các chiến đỉnh của họ mà
họ c̣n nán lại phục vụ trong những ngày chót
trước khi lên đường về nước. Giờ
đây, Hải Quân Việt Nam là một thực thể
trong ước mơ của những chàng trai trẻ ham
ra khơi, thíchlướt sóng; nhất là viễn dương
xuất ngoại du học. Họ đă tạo
được niềm tin vững mạnh cho Thủ tướng
Ngô Đ́nh Diệm ban nghị định ngày 20 Tháng Tám năm
1955 thành lập Bộ Tư Lệnh Hải Quân (BTL/HQ) và
chính thức bổ nhiệm HQ/Thiếu Tá Lê Quang Mỹ
vào chức vụ tư lệnh Hải Quân kiêm chỉ
huy trưởng đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Riêng
Hải Đoàn 2 Xung Phong (Dinassault N0 2) được Tướng
De Lattre ra lệnh thành lập từ đầu Tháng Hai
năm 1951 theo nhu cầu cuộc chiến tại miền
Trung châu Bắc việt vẫn trực thuộc Bộ
Chỉ Huy Giang Lực của Pháp (COFFLUSIC) và sát
nhập vào Hải Đoàn 21 Xung Phong đầu năm 1955
khi vào Nam (9). Ngày
16 Tháng Sáu năm 1954, chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm về nước
thành lập Chính Phủ do sự ủy nhiệm của
Quốc Trưởng Bảo Đại bằng sắc
lệnh số 38/QT. Bởi những thế lực riêng
biệt do quân đội Pháp cố t́nh tạo ra trước
khi rút về nước theo hiệp định Genève ngày
21 Tháng Bảy năm 1954, quân đội QGVN bị chia
rẽ thật trầm trọng. Theo Đoàn Thêm trong tài
liệu đă dẫn, ngày 21 Tháng Ba năm 1955, trên
hệ thống đài phát thanh Pháp-Á cũng như
đài phát thanh Quốc Gia Sài G̣n, Thủ Tướng
Ngô Đ́nh Diệm đă phải cương quyết tuyên
bố: “Phải
thống nhất quân đội, không có lực lượng
riêng biệt; phải thống nhất hành chánh, không có
địa phương tự trị; phải thống
nhất tài chánh, không thể thâu những sắc
thuế do địa phương tự động
đặt ra.” Ngoại
trừ quân đội Cao Đài thực tâm qui thuận Chính
phủ, ngày 28 Tháng Ba năm 1955, Thủ Tướng
Diệm ra lệnh cho quân đội QGVN tấn công
loại bỏ quân đội B́nh Xuyên và ngày 5 Tháng Sáu
năm 1955 loại trừ luôn quân đội Ḥa
Hảo. Báo
chí trong nước, ngoài nước thời đó
đều ca ngợi tài lănh đạo anh minh của
Thủ Tướng Diệm; v́ chỉ trong ṿng một năm
thôi mà ông đă gom được quân đội
về một mối, chấm dứt nạn “Sứ quân
thời thượng.” Thắng lợi này cũng
dọn đường cho cuộc trưng cầu dân ư
ngày 23 Tháng Mười năm 1955 truất phế
Bảo Đại và suy tôn Thủ Tướng Ngô Đ́nh
Diệm lên chức vụ Quốc Trưởng. Chủ
Tịch Thượng Viện Hoa Kỳ Lyndon Baines Johnson cũng
cổ vũ Tổng Thống Diệm là Churchill của
thập niên… người lănh đạo tiền phong
cho nền tự do ở Đông Nam Á…(10). Dụ
số 2 ấn định ngày 26 Tháng Mười năm
1955 là ngày Quốc Khánh của nền Đệ Nhất
Việt Nam Cộng Ḥa và Quốc trưởng lấy
danh hiệu là Tổng Thống VNCH. Quân Đội QGVN
trở thành Quân lực VNCH (The Republic of Vietnam Armed Forces
= RVNAF). Đến
cuối năm 1955, Hải Quân thuần túy Việt Nam có
3,858 người kể cả 1,291 Thủy Quân Lục
Chiến với Tiểu đoàn 1 Quái Điểu và
Tiểu đoàn 2 Trâu Điên. Đầu
năm 1956, tổng thống VNCH chấp thuận dự
án Giang Lực dự trù thành lập 5 Hải Đoàn
Xung Phong, mỗi hải đoàn sẽ được
trang bị:
Đó
là các Hải Đoàn 21 Xung Phong (hậu cứ tại
Mỹ Tho), Hải Đoàn 23 Xung Phong (hậu cứ tại
Vĩnh Long), Hải Đoàn 24 Xung Phong (hậu cứ
tại Cát Lái), Hải Đoàn 25 Xung Phong (hậu cứ
tại Cần Thơ) và Hải Đoàn 26 Xung Phong (hậu
cứ tại Long Xuyên). Riêng
về Hải Lực, đến cuối năm 1957,
số chiến hạm được Pháp chuyển giao
lên 21 chiếc gồm:
HQ01
– Chi Lăng
HQ111
– Hàm Tử
HQ225
– Nỏ Thần (Nguyễn Văn Trụ)
HQ327
– Long Đao
HQ400
– Hát Giang
HQ470.
HQ451
– Quá Giang 2.
Giai đoạn chậm phát triển (1958-1967) Năm
1958 được chọn làm mốc thời gian v́
những sự kiện quan trọng sau đây: Trung
Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang được
Pháp chuyển giao toàn bộ lại cho Hải Quân
Việt Nam. Hải
Quân Việt Nam tăng lên 5,000 người Khóa
8 Sĩ qian Nha Trang (Đệ I Hổ Cáp) có 50 sinh viên
nhập học với giáo sư, giảng viên và
huấn luyện viên hoàn toàn là người Việt
Nam. Quân
số Giang Lực gia tăng 50% cho 5 Hải Đoàn Xung Phong
trang bị 96 chiến đĩnh đủ loại. Đầu
năm 1960, Bộ Tư Lệnh Hải Quân phúc tŕnh
đặc biệt lên Bộ Tổng Tham Mưu về
Tiểu đoàn 603 Việt Cộng tức Tập Đoàn
Đánh Cá Sông Gianh đă lén lút xâm nhập vào Duyên khu
Đà Nẵng. Tổng Thống Diệm chấp
thuận thành lập ngay 4 Đội Hải Thuyền đầu
tiên: Đội 11 Cửa Việt, Đội 12 Cửa
Thuận An, Đội 13 Cửa Tư Hiền, Đội 14
Cửa Hội An. HQ/Đại Úy Nguyễn Văn Thông (khóa
3 Sĩ Quan Nha Trang) chỉ huy huấn luyện 400
tuần viên sơ khởi cho 80 ghe đủ loại. Năm
1962, Hải Đoàn 22 Xung Phong được thành lập,
HQ/Đại Úy Huỳnh Duy Thiệp (khóa 7 Sĩ quan Nha
Trang) là chỉ huy trưởng đầu tiên. Đến
cuối năm này, lực lượng Hải Thuyền
tăng lên 28 đội đóng dọc theo duyên hải
với 800 tuần viên, rồi được cải
danh thành Duyên Đoàn khi quân số tăng lên đến
4,000 người. Đến
đầu năm 1963, HQ/Đại Tá Hồ Tấn
Quyền, tư lệnh Hải Quân mở cuộc hành quân
thủy bộ b́nh định Năm Căn: Chiến
dịch Sóng T́nh Thương Bước
ngoặt chính trị năm 1963: Được
sự ủng hộ của Đại Sứ Mỹ Henry
Cabot Lodge (vua tổ chức đảo chánh), các tướng
lănh Việt Nam đă làm cuộc đảo chánh ngày 1
Tháng Mười Một năm 1963 giết chết
Tổng Thống Diệm và chấm dứt nền Đệ
I VNCH (11). Trong cuộc chính biến này, HQ/Đại Tá
Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải Quân cũng
bị một sĩ quan đàn em chối bỏ
truyền thống quân chủng ám sát chết (12). V́
không c̣n lănh tụ nào sáng giá hơn ông Diệm, nên t́nh
h́nh chính trị miền Nam trở nên bất ổn. Quân
đội phân hóa, đảo chánh liên miên, sinh viên
học sinh biểu t́nh hàng ngày. Lợi dụng t́nh
trạng rối ren tại thành phố và hoang phế
7,000 ấp chiến lươc tại nông thôn, Việt
Cộng gia tăng cường độ ám sát khủng
bố và bắt đầu tổ chức đánh
lớn cấp trung đoàn. Cuối năm này, Hải Quân
mất luôn quyền chỉ huy Liên Đoàn Thủy Quân
Lục Chiến khi binh chủng thống thuộc này
trở thành lữ đoàn tổng trừ bị do Trung
Tá Lê Nguyên Khang làm tư lệnh và bị áp đặt
trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu về mọi
mặt giống như binh chủng Nhảy Dù của Không
Quân. Đến
hết năm 1964, Hải Quân cũng chưa thoát
khỏi quỹ đạo lục đục trên đây,
các sĩ quan khóa 2 Nha Trang gồm HQ/Trung Tá Nghiêm Văn
Phú, chỉ huy trưởng Hải lực; HQ/Trung Tá Đỗ
Quư Hợp, chỉ huy trưởng Giang Lực; HQ/Trung Tá
Khương Hữu Bá, chỉ huy trưởng Duyên
Lực; HQ/Trung Tá Đặng Cao Thăng, (khóa 1 Brest), giám
đốc Hải Quân Công Xưởng đồng ḷng
lật đổ Phó Đề Đốc Chung Tấn Cang, tư
lệnh Hải Quân về vụ thủy cước. Sau
ngày 8 Tháng Ba năm 1965, quân đội Hoa Kỳ đổ
bộ lên hải cảng Đà Nẵng, Hải Quân có
7 Hải Đoàn Xung Phong. Với bảng cấp số (SOP)
mới 1965, Hải Đoàn Xung Phong được cải
danh là Giang Đoàn Xung Phong (River Assault Group = RAG) có quân
số 150 người. Sáu trong bảy Giang đoàn
loại này được trang bị:
Riêng
Giang đoàn 27 Xung Phong trang bị hơi khác biệt
với 6 Giang đoàn kia: 01 Giang đỉnh chỉ huy +
01 Chiến đấu đỉnh + 06 Quân vận đỉnh
LCM8 và 10 Tiểu đỉnh RPC (River Patrol Craft) (13). Quân
số Giang lực lúc bấy giờ tăng thành 1,150 người
kể cả Bộ Chỉ huy Giang lực và 3 Ban Chỉ
Huy hành chánh Liên Giang Đoàn (type). Ngày
19 Tháng Sáu năm 1965 được gọi là Ngày Quân
Lực do sắc lệnh của Chủ tịch Ủy
ban Hành Pháp Trung ương (tương đương
với thủ tướng chính phủ) Nguyễn Cao
Kỳ ban hành để chấm dứt thời kỳ
khủng hoảng chính trị kéo dài. (14). Gần
cuối năm, lực lượng Hải Thuyền 4,000
người được sáp nhập vào Hải Quân.
Tuần viên cải danh thành đoàn viên kèm theo cấp
số chính thức cho mỗi duyên đoàn là 03 ghe
chủ lực, 03 ghe di cư và 16 ghe chèo. Trong
7 năm đầu, Hải Quân tiến triển chậm
chạp nhưng trong 3 năm sau, Hải Lực đă
nhận thêm một số chiến hạm đáng
kể:
HQ114
– Hàm Tử II
HQ06
– Vân Đồn.
HQ07
– Đống Đa
HQ08
– Chi Lăng II
HQ404
– Hương Giang
HQ500
– Cam Ranh
HQ600
– Phú Dự
HQ471
HQ227
– Lê Văn B́nh Như
vậy, vào cuối năm 1967, Hải Lực có tổng
số chiến hạm là 64 chiếc. 3.
Giai đoạn nhanh chóng bành trướng (1968-1975) Đầu
năm 1968, Việt Cộng mở cuộc Tổng
Nổi Dậy, công kích trên toàn lănh thổ VNCH; Hải
Quân với quân số 30,000, kể cả 7,500 sĩ quan,
không những bảo toàn được lực lượng
đông đảo như vậy mà c̣n yểm trợ
hữu hiệu cho các đơn vị bạn tái
chiếm nhiều vị trí bị lọt vào tay địch
trong những ngày Tết Mậu Thân. Cũng
trong năm này, 3 trung tâm huấn luyện được
phân nhiệm rơ rệt: Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang
đào tạo sĩ quan, Trung Tâm Huấn Luyện Cam Ranh
dành cho hạ sĩ quan và đoàn viên, Trung Tâm Huấn
Luyện Bổ Túc Sài G̣n trau dồi thêm kiến
thức chuyên môn cho các cấp. Đến
năm 1969, để theo kịp chương tŕnh
“Việt Nam hóa chiến tranh” (Accelerated turnover to the
Vietnamese = ACTOV), Bộ Tư Lệnh Hải Quân tổ
chức Hành Quân Lưu Động Biển và Hành Quân Lưu
Động Sông. Trong tổ chức Hành Quân Lưu Động
Sông, 3 Lực lượng tác chiến trong sông
được thành lập:
Tư
lệnh Hải Quân vùng IV Sông Ng̣i kiêm tư lệnh
Hạm Đội Đặc Nhiệm 21 khi chỉ huy cả 3
lực lượng trên cùng 7 Giang Đoàn Xung Phong và các cơ
sở tiếp vận trong vùng châu thổ [Sông] Cửu
Long, quân số lên đến 10,500 người. Tư
lệnh vùng III Sông Ng̣i có 5 Giang đoàn Xung Phong cơ
hữu, cũng được sự tăng phái của
các lực lượng đặc nhiệm 211, 212 và 214.
(15) Hoàn
tất chương tŕnh ACTOV năm 1972, Hành Quân Lưu
Động Biển đă nhận thêm 20 chiến
hạm:
HQ503
– Vũng Tàu
HQ801
– Cần Thơ
HQ13
– Hà Hồi
HQ14
– Vạn Kiếp.
HQ472
HQ1
– Trần Hưng Đạo
HQ2
– Trần Quang Khải
Cuối
năm 1972, quân số Hải Quân VNCH tăng thành 41,000
người. Theo Jane’s Fighting Ships 1972-1973, HQ/Đại tá
John More xếp sự lớn mạnh của lực lượng
Hải Quân VNCH vào hàng thứ 9 trong các cường
quốc Hải Quân trên thế giới. Đầu
năm 1975, lực lượng Hải Quân VNCH gồm:
Giữa
Tháng Tư năm 1975, ngay sau khi trở lại nhậm
chức tư lệnh Hải Quân lần thứ hai, Phó
Đô Đốc Chung Tấn Cang chỉ định HQ/Đại
Tá Lê Hữu Dơng thành lập cấp tốc Lực Lượng
Đặc Nhiệm 99 với sự phối hợp của
các Giang đoàn 22 Xung Phong, Giang đoàn 42 Ngăn
Chặn và Giang Đoàn 59 Tuần Thám gồm khoảng 50
chiến đỉnh để giải tỏa áp lực
địch trong phạm vi trách nhiệm của Hải
Quân. Chú
thích: (1)
Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. Sài G̣n
thư xă 1962. Chương 7: Nước Pháp lấy
đất Nam Kỳ (từ trang 480 đến trang 492). Nguyễn
Hợp Minh. Lịch sử giữ nước của dân
tộc Việt Nam. Melbourne 2000. Tập 6, trang 285 288. Đúc
kết tóm lược: Sau khi kư hiệp ước Thiên
Tân ngày 27 Tháng Sáu năm 1858 với Trung Hoa, Chính
Phủ thực dân Pháp chỉ định Đề đốc
Rigault de Genouilly điều động 13 chiến
hạm Pháp và 01 chiến hạm Tây Ban Nha do HQ/Đại tá
Lanzarote làm Hạm trưởng, kéo sang xâm lược
Việt Nam. De Genouilly được phong chức Phó
Thủy sư Đô đốc, Tổng chỉ huy Lực lượng
Thực dân Viễn chinh tại nước ta từ ngày
1 Tháng Chín năm 1858 đến ngày 1 Tháng Mười
Một năm 1859. (2)
Bộ Tổng tham mưu pḥng 5. Quân sử tập 4: Quân
lực h́nh thành 1946-1955. Sài G̣n 1972. (3)
Đoàn Thêm. Hai mươi năm qua, việc từng ngày.
Sài G̣n 1966, trang 44-45. (4)
Đoàn Thêm. Tài liệu đă dẫn, trang 52. (5)
Đoàn Thêm ghi nhận trang 82, tài liệu đă dẫn:
Từ nay, quân đội VN thuộc hẳn quyền
Quốc Trưởng Bảo Đại, nhưng có cơ
quan liên lạc với quân đội Liên Hiệp Pháp. Cũng
ngày hôm đó, Thống Tướng 5 sao Jean de Lattre de
Tassigny, được Chính Phủ Pháp cử sang làm
Tổng Tư Lệnh Quân Đội kiêm Cao Ủy Pháp
tại Đông Dương. (6)
Trung Tướng Tôn Thất Đính. Hồi kư 20 năm
binh nghiệp. CA Chánh đạo 1988, trang 29-30. Đoàn
Thêm. Tài liệu đă dẫn, trang 44, 57, 69 và 112. Đúc
kết tóm lược: Ông Phan Văn Giáo, một nhân
vật thân tín của Cựu Hoàng Bảo Đại, tuy không
tốt nghiệp một trường vơ bị nào nhưng
có khả năng rất cao về tổ chức quân
đội, giúp Quân Đội VNCH sớm h́nh thành. Qua
nhiều chính phủ từ Nguyễn Văn Xuân đến
Nguyễn Văn Tâm, ông đă được giao phó
nhiều chức vụ thật quan trọng: Ngày
2 Tháng Sáu năm 1948: Quốc vụ khanh, tổng trưởng
kiêm tổng trấn Trung Phần, đặc trách thành
lập Việt Binh Đoàn. Ngày
3 Tháng Bảy năm 1949: Thủ hiến Trung Việt bành
trướng Việt Binh Đoàn thành Quân Đội QGVN. Ngày
4 Tháng Tư năm 1950: Tổng thanh tra Quân Đội
QGVN với cấp bậc trung tướng giả định
(être assimilé au grade de Général), trực thuộc quốc
trưởng (Sắc lệnh số 31/QT). Ngày
25 Tháng Sáu năm 1952: Phó thủ tướng kiêm
tổng trưởng thông tin. (7)
Đoàn Thêm. Tài liệu đă dẫn, trang 86. (8)
Hải Đoàn Xung Phong, Hải Quân Pháp gọi là
DINASSAUT (Division Naval d’assault), xin xem phần quan niệm
về tổ chức Dinassault trong tập này, trang… Lúc
Pháp chuyển giao, các Hải đoàn chưa có số nên
tạm thời lấy tên địa phương đồn
trú. Hải Đoàn Xung Phong Cần Thơ và Vĩnh Long,
mỗi đơn vị nhận: 01
Giang đỉnh chỉ huy (Commandement Monitor LCM6) 02
Trung vận đỉnh LCM6 (Landing craft Mechanized) 02
Tiểu vận đỉnh LCVP (Landingcraft Vehicle and
Personnel). (9)
HQ/Trung Tá Vũ Hữu San. Lược sử tổ
chức Hải Quân VNCH. Tài liệu chuyển cho Hội
Đồng Hải Sử 2000, trang 4-6. (10)
Karnow, Stanley. Viuetnam a story. Viking London 1991, trang 222 ghi
lại nhận định của Lyndon B. Johnson như
sau: “President Diem is the Churchill of the decade… in the vanguard of
those leaders who stand for freedom…” (11)
Karnow, Stanley. Tài liệu đă dẫn, nhận xét
về Tổng Thống Diệm: “… into South Vietnam’s
military and Police machinery, leaving only small fraction for economie
development; and he was less interested in building an army to fight Viet
Cong guerrillas than in forming conventional units that would protect him
against his rival in Saigon…” Karnow cựu thông tín viên cho các
tờ Times, Life và The Washington Post kiêm chủ nhiệm The
New Republic về vấn đề Đông Nam Á, nổi
tiếng qua quyển “Mao and China” năm 1972 v́
những sự thật được phơi bày trong
đó. Nhưng đến quyển Vietnam a story xuất
bản năm 1983, ông vấp phải nhiều sai sót nghiêm
trọng, có lẽ v́ không được ở Việt
Nam lâu bằng ở Trung Cộng. Điển h́nh là ông không
biết Liên Binh Pḥng Vệ dinh Tổng Thống có
mấy Tiểu đoàn và Lực lượng Đặc
biệt của Trung tá Lê Quang Tung có bao nhiêu đại
đội thuộc Cần Lao? Ông cũng không biết
đến quốc sách 7 ngàn ấp chiến lược
với 8 triệu dân quân đang ngày đêm trực
diện chiến đấu với cộng sản
tại nông thôn hẻo lánh. Thành thử ông nhận
định hàm hồ như vậy cũng phải! (12)
Nghi phạm ám sát HQ/Đại Tá Hồ Tấn Quyền
(khóa 1 Sĩ quan Nha Trang) là HQ/Thiếu Tá Trương
Ngọc Lực (khóa 2 Sĩ quan Nha Trang). Các Tướng
lănh tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1 Tháng Mười
Một năm 1963 đă sai lầm trong quyết định
dùng một sĩ quan đàn em sát hại sĩ quan đàn
anh mà không đếm xỉa ǵ đến truyền
thống quân chủng Hải Quân. Ngay khi nhận
thấy hậu quả nghiêm trọng về cái chết
của tư lệnh Hải Quân. Hội Đồng Tướng
Lănh vội vă thăng cấp trung tá Bộ Binh cho
Lực rồi đẩy ra nước ngoài để
tránh búa ŕu nguyền rủa của cả Hải Quân vào
thời đó. (13)
Tham chiếu quyết định của Hội Đồng
Tu Chính Hải Qui do Phó Đề Đốc Lâm Nguơn Tánh
làm chủ tịch, BTL/HQ/P5 ban hành một tài liệu căn
bản về việc định danh (đặt tên) cho
các chiến hạm và chiến đỉnh vào Tháng Sáu
năm 1971. Tên các chiến đỉnh trong tập này
được viết theo đúng tinh thần sự
vụ văn thư đă phổ biến. Xin xem chương
tŕnh ACTOV trong tập này, trang… (14)
Trên thế giới, các quốc gia văn hiến
chọn ngày truyền thống Quân Đội (Ngày Quân
Lực) là ngày đề cao giá trị tinh thần
bất khuất, anh dũng hy sinh và t́nh đoàn kết
chiến đấu v́ mục tiêu cao cả của người
chiến binh ḿnh. Úc Đại Lợi (Australia) chẳng
hạn, Lưỡng Viện Quốc Hội Úc đă
chọn ngày 25 Tháng Tư hằng năm làm ngày ANZAC. Cái
độc đáo của ngày Quân Lực Úc là ngày
bại trận tổn thất đến 5,000 chiến
binh nhưng lại nói lên tinh thần keo sơn đoàn
kết, hào hùng chiến đấu của Liên Quân Úc và
Tân Tây Lan trên chiến trường quá bất lợi
Gallipoli (Thổ Nhĩ Kỳ) vào ngày 25 Tháng Tư năm
1915. C̣n ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 1965 của
nền Đệ II VNCH chỉ là ngày mà Chủ tịch
Ủy ban Lănh đạo Quốc gia Trung Tướng
Nguyễn Văn Thiệu và Chủ tịch Ủy ban hành
pháp Trung ương Thiếu Tướng Nguyễn Cao
Kỳ đồng ư với nhau mà thôi, không làm đảo
chánh nữa v́ đă loại bỏ chính quyền dân
sự Phan Khắc Sửu (Tổng thống) và Phan Huy Quát
(thủ tướng) rồi. Ngày truyền thống
của Quân Lực VNCH mà chỉ có hai người
quyết định giống như trong thời kỳ
quân chủ chuyên chế. Thật hiếm thấy thay! (15)
Vùng III Sông Ng̣i có 5 Giang Đoàn Xung phong trực thuộc: Giang
Đoàn 22 Xung Phong và Giang Đoàn 28 Xung Phong hợp thành Liên
Giang Đoàn trú đóng tại Nhà Bè. Giang
Đoàn 24 Xung Phong và Giang Đoàn 30 Xung Phong hợp thành Liên
Giang Đoàn trú đóng tại Long B́nh. Giang
Đoàn 27 Xung Phong, tăng phái thường trực cho Đặc
khu Rừng Sát. Trú đóng tại Nhà Bè. Vùng
IV Sông Ng̣i có 7 Giang Đoàn Xung phong trực thuộc: Giang
Đoàn 21 Xung Phong và Giang Đoàn 33 Xung Phong hợp thành Liên
Giang Đoàn đồn trú tại Mỹ Tho. Giang
Đoàn 23 Xung Phong và Giang Đoàn 31 Xung Phong hợp thành Liên
Giang Đoàn đồn trú tại Vĩnh Long. Giang
Đoàn 25 Xung Phong và Giang Đoàn 29 Xung Phong hợp thành Liên
Giang Đoàn đồn trú tại Cần Thơ. TÀI
LIỆU CHỌN LỌC THAM KHẢO Tập
này không có phần phụ đính danh mục (Index)
để đồng nhất và dễ dàng tra cứu, tên
các tác giả nước ngoài sẽ được ghi
HỌ trước rồi mới đến TÊN
giống như tên các tác giả Việt Nam, trong
phần ghi chú. 1.
Việt Nam Sử Lược –
Trần Trọng Kim. Sài G̣n Thư xă 1962. 2.
Lịch sử giữ nước
của dân tộc Việt Nam – Nguyễn Hợp Minh.
Melbourne 2000, tập 6. 3.
Quân sử – Bộ TTM/Pḥng 5 1972,
tập 4 quân lực h́nh thành Sài G̣n 1972. 4.
Hai Mươi Năm Qua, việc
Từng Ngày 1945-1964 – Đoàn Thêm. Sài G̣n 1966. 5.
Tôn Ngô binh pháp – Ngô Văn Triệu.
Sài G̣n 1973. 6.
Trấn Hưng Đạo binh thư
yếu lược – Nguyễn Ngọc Tỉnh. Paris
1988. 7.
Hoạt động trong sông của
Hải Quân VNCH. Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng,
bài viết cho Hải sử 2000 (HS 2000) 8.
Giang Đoàn Xung Phong 22, 25 và 29. HQ/Đại
Tá Lê Hữu Dơng, bài viết cho HS 2000 9.
Lược sử tổ chức
Hải Quân VNCH. HQ/Trung Tá Vũ Hữu San, bài viết
cho HS 2000 10.
Giang Đoàn 26 Xung Phong. HQ/Trung Tá Trần
Đỗ Cẩm, bài viết cho HS 2000. 11.
Trận Ba Rài. HQ/Trung Tá Phan Lạc
Tiếp, bài viết cho HS 2000. 12.
Trung Đoàn U Minh Hạ. Độc Hành.
Việt Luận số 297 Sydney 5/1988. 13.
Hồi kư 20 năm binh nghiệp. Trung
tướng Tôn Thất Đính. CA Chánh đạo 1988. 14.
Cuộc chiến dang dở. Tướng
Trần Văn Nhựt. CA 2003. 15.
Việt Nam Máu Lửa. Nghiêm Kế
Tổ. Mai Lĩnh Sài G̣n 1954. 16.
Kinh nghiệm chiến trường
chống đặc công thủy. Ban Hải sử.
BTL/HQ/P5 Sài G̣n 1970. 17.
1945 Lạc đường vào
lịch sử. Nguyễn Manh Côn. Giao điểm Sài G̣n
1965. 18.
Đường ṃn trên biển.
Nguyễn Tư Đương. Hà Nội 2002. 19.
The Ford Foundation Fellowship USA and France –
Cao Thế Dung 1976. 20.
Reassessing the ARVN – Lewis Sorley. VN Magazine
April 2003. 21.
Nation in arms – Greg Lockhart. Australia 1989. 22.
The Vietnam war for dummies – Ronald B. Frankum,
Jr and Stephen F. Maxner. Wiley Publishing Newyork 2003. 23.
Vietnam war almanac – Harrys Summer Jr. USA 1982. 24.
Vietnam a history – Stanley Karnow. Viking
Newyork 1983. 25.
Encyclopedia of the Vietnam war – Spencer C.
Tucker. London 1999. 26.
Vietnam: A visual encyclopedia – Philip Gutzman.
London 2002. 27.
The brown water navy – Victor Croizat. Blandford
Press UK 1984. 28.
The naval war in Vietnam – Anthony Preston. USA
1985. 29.
Brown water, Black berets – Thomas J. Cutler. USA
1988. 30.
Dictionary of the Vietnam war by Marc Leepson with
Hanaford. USA 1996. 31.
Victory at any cost – Cecil B. Currey. Great
Britain 1997.
|