Huế,
Tôi và Mậu Thân Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán |
Lượm Đại đội trưởng
Đại đội 1 (dân Nha Trang) trả lời. Tôn Đại
đội trưởng Đại đội 2 là dân Đà
Lạt, căi: Phán Phu Nhân nói: (Khi vào Quân trường, Phán tŕnh
diện: Tui chánh quán làng Phú Nhơn, ở gần
Hồ Tịnh Tâm, quận Thành Nội, Huế. Thế
là sau đấy, giữa lửa đạn và thịt
đổ xương rơi, và qua tiếng thét trong máy
truyền tin, cái tên ngụy trang ‘Phu Nhân’ ra đời,
nghe thật lạ tai!) Thời tiết thật xấu, và
rồi bánh xe phi cơ cũng chạm đất,
những cặp mắt đổ dồn ra khung cửa
sổ máy bay. Phú Bài ! Cơn gió cắt da, băi cát
trắng trải dài, mưa nặng hột. Thiếu áo
lạnh, tất cả đều quấn Poncho đứng
nh́n đoàn người gánh gồng xuôi ngược,
hấp tấp và lo sợ, một số về
Truồi, một số lên Giạ Lê, An Cựu. Phú Bài đó, Tịnh Tâm đó, Cầu
Kho đó, Mạ, d́, chị và em ḿnh đó mà không liên
lạc được. T́nh h́nh không biết sao,
ruột như lửa đốt. Trách nhiệm nặng
nề, tôi nằm trằn trọc suy nghĩ thật
nhiều để chờ sáng mai. Kỳ niệm
thời đi học kéo về trong trí tôi, đẹp
quá, nhẹ nhàng quá, vụng dại quá.
Mười giờ sáng, đoàn GMC
đưa chúng tôi về Huế. Qua Giạ Lê, đồng
bào hỗn loạn, nét lo âu hiện rơ trên mặt.
Tới An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên
đường đóng kín cửa. Dọc quốc
lộ 1 từ Huế về Phú Bài, binh sĩ Nhảy Dù
từng toán d́u nhau âm thầm đếm bước. Những cái nh́n như nhắn gửi,
như lo sợ giùm chúng tôi. Mạnh, Đại úy
Nhảy Dù, cùng khóa cho tôi biết: Mạnh khắp người băng bó
đang được hai đệ tử d́u đi
bộ về phi trường Phú Bài. Mạnh tiếp: Sau này được nghe nói: V́ nghe tin tướng
Trưởng kẹt nặng nên đại bàng Lê Quang Lưỡng,
Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Nhảy Dù
đă xua quân đi bộ từ cây số 17 về
Huế để cứu tướng Trưởng. Tôi
xin tướng Lưỡng cho tôi được nghiêm
ḿnh chào một cách đầy kính phục cho cái t́nh
nghĩa huynh đệ không bút nào tả nỗi này. Để
đáp trọn t́nh nghĩa, Lữ đoàn của đại
bàng Lưỡng cũng hao hụt nặng nề. Đoàn xe dừng lại bên hông Đại
học Văn Khoa, cách con đường là trường
Kiểu Mẫu mới xây, đối diện là Đài phát
thanh Huế. Và trước mặt là cầu Trường
Tiền, chiếc cầu tượng trưng cho xứ
Huế, chiếc cầu đă hàng ngàn, hàng vạn
lần qua lại, đầy ắp kỷ niệm. Nh́n qua chợ Đông Ba và phố Trần
Hưng Đạo mà ḷng quặn thắt. Một mái
chợ đă sập. Những cột khói ngút trời cách
khoảng. Từ đầu đường đến
cuối đường Trần Hưng Đạo không
một bóng người. Nh́n bên phải là cầu Gia
Hội vắng tanh. Những cột khói khác vươn
lên... Cả thành phố đă chết, Huế tôi tang
thương đến thế sao ! Một nhịp
cầu đă sập, tôi nghĩ vành khăn tang đă
cuốn lấy Huế.
Xuống tàu tại chân cầu Trường
Tiền, xuôi gịng Hương xanh biếc ngang Gia
Hội, quẹo trái sông Hang Bè. Cầu Đông Ba đó, có
tiệm La Ngu ngày xưa chúng tôi thường mua
dụng cụ học tṛ. Tiếp tục xuống ngang
tiệm gạo Mụ Đội, có người con gái
đẹp năo nùng tên Xuân mà con trai Huế lứa
tuổi tôi đều hơn một lần đi qua
đó để nh́n người con gái trời cho đẹp.
Qua trường B́nh Minh, nơi tôi học năm đệ
Tam, nhiều kỷ niệm đẹp. Đến Bao Vinh, dân
chúng nhốn nháo khi thấy một đơn vị
lớn đang đổ bộ tại bến đ̣. Tôi hướng dẫn đơn vị
vào Mang Cá Nhỏ để tới bệnh viện
Nguyễn Tri Phương. Địch chào đón bằng hàng
loạt hỏa tiễn 107 và 122. Tất cả nằm sát
bờ tường để tránh pháo và t́m chổ pḥng
thủ. Tôi cho lệnh Sự, Trung úy Đại đội
phó kiểm soát con cái và chuẩn bị cơm
chiều. Trung úy Sự là sĩ quan trẻ, có tài và
đầy nhiệt huyết, xuất thân khóa 19 Vơ
bị Đà Lạt, thủ môn Hội tuyển Nha Trang,
đúng là đa năng đa hiệu. Tôi dự
buổi họp Tiểu đoàn khẩn cấp và quan
trọng. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh: Phán hỏi: Trong óc tôi, một bản đồ chi
tiết hiện ra rất rơ cho một cuộc hành quân
mà t́nh h́nh tôi nắm không được vững. Tôi
cố t́m một con đường ngắn và an toàn
nhất cho đơn vị để tới mục tiêu.
Có rất nhiều đường đưa tới trường
Trần Cao Vân, nơi từ 9 tuổi đến 19
tuổi tôi đă bao nhiêu lần đi lại. Con
đường nào cũng đầy hoa và mộng. Nay
tôi đang t́m một con đường không có máu
để cho anh em chúng tôi đi. Tám giờ sáng, tất cả gọn gàng,
sẵn sàng di chuyển. Ba trăm thước đường
từ Mang Cá đến nhà tôi sao quá dài. Bồn
chồn, nóng ruột v́ nơi đó Mạ tôi, d́ tôi,
chị tôi và em trai út của tôi đang trông ngóng. Không
biết có bị ǵ không ? Thiếu uư Duật, Trung
đội trưởng Trung đội 2 dẫn đầu.
Duật xuất thân 21 Đà Lạt, hăng say, gan, thích xóc
đĩa và gái đẹp, uống rượu rất
ít, chỉ phá mồi. Phán và Bộ chỉ huy kế
tiếp. Thiếu uư Nghênh, Trung đội trưởng
Trung đội 1 tiếp theo. Nghênh xuất thân từ
‘Commando du Nord’, kinh nghiệm, gan lỳ, thích đánh
phé nhưng đánh nhỏ, rượu rất ít và không
thích gái. Kế đến là Thượng sĩ
nhất Mă Khện, Trung đội trưởng Trung
đội 3, xuất thân Commando trong Nam, rất gan
lỳ, ít nói, mê rượu, không mê gái. Sau cùng là Thượng
sĩ nhất Hải, Trung đội trưởng Trung
đội súng nặng. Hải xuất thân Commando du
Nord, người Nùng, lỳ lợm già dặn chiến
trường, không rượu, không gái và không
thuốc lá. Hai bên đường dân chúng đứng
chen chúc, vẻ mặt hớn hỡ thật tội
nghiệp cho họ. Lần lần những khuôn mặt
quen thuộc hiện ra, những cánh tay vẫy chào, nào
mụ Đội Dậu, mụ Ba, ông Sung, ông Dung, anh Thiên
chủ bàn Ping Pong... Những tiếng nói đó đây: Tiếng gọi lớn dần và lan dài
suốt con đường tôi đi. Con hẻm sát hồ Tịnh Tâm là
đường vào nhà tôi. Mạ tôi đó, d́, chị
và em tôi đó. Xao xuyến quá ! Tôi đi nhanh đến
ôm Mạ tôi, d́ và chị tôi khóc như mưa.
Thằng em luống cuống chạy quanh, bị Mạ tôi
nạt: Mạ tôi dụi vào tay tôi chai dầu
Nhị thiên đường: Lính đi ngang hỏi nhau: Phán và âm thoại viên vẫn c̣n
dừng lại: Chỉ là bạn tôi xuất thân 17 Vơ
bị Đà Lạt. Tôi xót xa đắng miệng: Mạ tôi khóc ̣a, tôi thật năo ḷng.
Những tiếng gọi anh Phán, anh Phán tiếp tục
vang lên cho đến giữa hồ Tịnh Tâm. Tiếng gọi, giọt nước
mắt và những cánh tay chào vẫy, phải chăng
nhắc nhở trách nhiệm của tôi. Bây giờ là lúc
đền đáp ơn sâu nghĩa nặng. Vinh dự này
thật khổ. Máu nóng sôi trong người, tôi và hai
âm thoại viên vượt lên đi với Trung đội
đầu. Cuối hồ Tịnh Tâm là đường
Tịnh Tâm, tôi cho lệnh quẹo tay mặt theo
đường lên nhà ông Ngự Đạt. Như
vậy bên hông mặt của con cái tôi lúc nào cũng có
bức thành và cái hồ che chở. Cuối đường
Tịnh Tâm quẹo trái là trường tiểu học
Đoàn Thị Điểm, nhưng tôi không đi con
đường này. Tiếp tục đi thẳng qua
một con hẻm nhỏ, con đường đă bao
lần đi lại, nào ăn cắp me, nào trộm
sấu, nào hái xoài, nào đào sen, nào học thi, nào thăm
người yêu... Con đường nào cũng nhắc
tôi bao kỷ niệm yêu dấu khôn quên. Đến Canh Nông, chưa thấy phản
ứng nào của địch, gần sân bay Thành
Nội dân chúng thưa thớt và kinh hăi. Tôi cho
dừng quân bên này đường, một ông già mách
: Tôi chỉ con đường và hướng
dẫn Duật: Băng qua khỏi con đường này,
đến một xóm nhà, qua một cái cống th́ bên
trái là thành Quân cụ. Nghênh và Mă Khện yểm
trợ hông mặt cho Duật, và sau đó băng qua
đường theo tôi. Con đường chỉ có 5
thước mà hơn một giờ mới vượt
qua với 6 thằng em rớt rụng trên mặt đất.
Lần ṃ theo mép đường tới sát ống
cống, tôi cho dừng lại, phi trường vắng
tanh. Tôi bảo Duật: Mày cho một thằng con
nhỏ qua trước làm đầu cầu bên kia
cống, sau đó cho tất cả con cái mày qua rờ vào
thành Quân Cụ, chờ tau lên. Thành Quân Cụ cao khỏi đầu người,
không liên lạc được với bên trong. Tất
cả con cái nằm sát thành để tôi và đám
cận vệ ḅ tới cổng chính. Loáng thoáng
thấy nón sắt, Field -Jacket, giây ba chạc.. .Không
phải tụi nó đâu, chắc chắn là bạn
rồi. Thằng đệ tử tôi gọi lớn: Một loạt đạn bay qua khỏi
đầu một cách rùng rợn. Ḅ lết vào tới
trong đồn, ông trưởng đồn nói tiếng
Huế đặc sệt, ông là Trung uư Cát, thủ môn
nổi tiếng của Huế: Tôi trở ra báo cáo về Tiểu đoàn,
lệnh của Tiểu đoàn trưởng: Quan sát địa thế thêm một
lần nữa, trước mặt trường là cái
am lên đồng, bên cạnh là quán hớt tóc lợp
tranh chỉ có một ghế ngồi. Sát đó là ngă
ba đường, một đường chạy lên
cửa Sập, một chạy về trường Đào
Duy Từ và một chạy đến trường
Trần Cao Vân. Có bốn năm cái đầu lố
nhố bên trong trường. Duật phải chiếm am trước,
trong trường bắn ra mănh liệt, có cả B.40. Tôi
ra lệnh Nghênh và Mă Khện cầm chân hỏa lực
trong trường học. Duật chiếm xong am không
một tổn thất. Tôi gọi Thượng sĩ
Hải đem hai đại liên và một 57 không
giật lên tăng cường cho Duật để
Duật yểm trợ cho Mă Khện vào trường.
Sau 45 phút dùng mưu kế cùng với hỏa lực và
sự gan dạ, kinh nghiệm, Mă Khện đă
chiếm được một lớp của trường.
Nghênh tràn vào cùng với Mă Khện lục soát và làm
sạch sẽ. Hỏa lực từ góc Thành Nội
đổ dồn về phía trường học, không
sao, có thành của các lớp học che chở.
Tôi kêu Sự : Đến chiều vẫn không có một
trái pháo bắn, anh em tôi có 7 đă lót đường
cho mục tiêu đầu và 3 bị thương
nặng. Tôi lên sát Duật và bảo đem cây 57 đến: Qua một vạt đất trống,
trong một ngôi nhà gạch có bóng người lấp ló.
Duật quay 57 nhắm thẳng: Tôi bỗng thấy có bóng đàn bà, tôi
la lớn: Rồi tôi băng qua đám đất
trống đến nhà gặp cô và các cháu. Không
thấy thầy tôi chào cô và giới thiệu tôi
học Sử địa với thầy ở trường
Bồ Đề và khuyên cô về dưới phố. Tôi
trở lại vị trí mà ḷng nao nao buồn. Giờ này
vẫn chưa có pháo, làm sao khóa góc thành đó
lại. Duật bảo con cái đào hầm hố
thật kỹ, tôi dặn: Tôi cùng đám đệ tử lúp xúp
chạy đến tiệm hớt tóc để quan sát
ngả ba đường và góc Thành Nội. Tôi
chợt nghe tiếng đàn bà rên la quằn quại, sau
cùng chỉ c̣n tiếng rên nho nhỏ. Nơi góc quán
tối tăm, một người đàn bà máu me
khắp nửa phần thân thể, vừa bị thương
nặng lại vừa sanh ra một bào thai lờ mờ
tượng h́nh đứa bé, trông giống như con
rắn mối. Xót xa, chịu không nổi, tôi ra
lệnh đem chôn đứa bé ngay và chuyển người
mẹ về đồn Quân Cụ cho bác sĩ Tựu
cứu giúp . Đến đây 13 người chết và 3
bị thương nặng để trải thảm cho
đơn vị. Tối đó, Bộ chỉ huy Tiểu
đoàn đến trại Quân Cụ. Sáng hôm sau,
Tiểu đoàn trưởng cho Đại đội 2
của Tôn và Đại đội 1 của Lượm dưới
sự chỉ huy của đại ca Đă, Tiểu đoàn
phó, chiếm nhà Bảo sanh. Đoạn đường có
30 thước, cách một hồ nhỏ mà phải
trả bằng 50 đứa con thân yêu. Sau 8 tiếng
đồng hồ mới chiếm được nhà
Bảo sanh, Tôn bị thương ngay từ phút đầu,
Lộc Đại đội phó lên thay. Mười ngày tiếp theo, nh́n nhau qua
một con đường rộng vừa đủ cho
xe chạy mà hai bên đều khựng. Mưa vẫn rơi
ray rức lê thê, thỉnh thoảng cơn gió thật
lạnh thổi qua. Có những trận tấn công
chớp nhoáng của địch vào Đại đội
của Lượm và Lộc đều bị đánh
bật lui. Ngược lại ta cũng nhiều lần
cố tràn qua bên kia nhưng không chiếm được
thêm một tấc đất. Hai bên tải thương
đều thấy nhau rất rơ. Lượm bị hao
hụt nặng, Phu Nhân lên thay. Tôi và con cái ḅ lên
từng toán một, địch và ta đă sát nhau, ngóc
đầu lên là đạn bắn xuyên mũ sắt
ngay. Hơn nửa ngày mới trám hết vị trí
của Lượm. Lượm và Ṭng về pḥng
thủ cho Tiểu đoàn. Tối đến pháo địch
đủ loại nổ vang trời. Xác chết của
anh em nằm trên mặt đường , śnh lớn mà
không lấy được. Phía bên kia bốn năm xác
địch vẫn để yên, tụi nó cũng không
dám ra lấy về. Cố giữ đất, giữ
vị trí và làm vài cuộc tấn công nhỏ vẫn
không qua đường được. Từ căn nhà hai tầng cuối
đường nh́n xéo từ nhà Bảo sanh, một thượng
liên và và trung liên nồi của tụi nó kiểm soát
con đường rất kỹ, dưới sự
chỉ huy của một đứa con gái mặc áo choàng
màu xám, tóc xỏa dài nhưng không thấy rơ mặt.
Tay đứa con gái chỉ tới đâu th́ đạn
nổ dồn về hướng đó. Tôi nhắm
bắn hai phát M16 nhưng hụt, nó trốn nhanh vào sau
cửa và mất luôn. Hai mươi ngày nằm chịu pháo và
bị bắn sẻ, tối nào hai bên cũng rà máy chưởi
nhau. Theo dơi máy, đột nhiên tôi bắt được
một câu báo cáo của tụi nó: Tôi nghĩ ngay tụi nó đang thiếu
đạn. Nếu cứ nằm như thế này,một
lúc nào đó tụi nó tập trung tấn công ḿnh cũng
bị mất vị trí ngay, chỉ v́ áp lực quá
nặng nề, tổn thất nhiều, tinh thần anh
em quá mệt mỏi. Tôi đi đến kết
luận riêng: nếu ḿnh không đánh nó, chắc
chắn nó sẽ tấn công ḿnh. Tôi tŕnh với
Tiểu đoàn trưởng: - Thiếu tá cho tôi luôn thằng 2 để
tôi tấn công tụi nó. Tôi thấy tinh thần anh em
xuống quá và sức khỏe ngày càng hao hụt. Tiểu đoàn trưởng không cho
bắt ráng giữ vị trí. Phu Nhân năn nỉ: Tiểu đoàn trưởng nói: Tại hầm của tôi anh em đang
chờ, họ gồm: Lộc Đại đội 2,
Sự Đại đội phó của tôi, Duật, Nghênh
và Mă Khện. Tôi nói: Tất cả im lặng, tôi tiếp: Duật Nghênh và Hải ở lại, tôi
nh́n anh em thật lâu rồi cho biết Tôi nghiêm mặt và lạnh lùng nói: Suy nghĩ một lát, Thượng sĩ
Hải trả lời: Tôi vui vẻ bằng ḷng và gọi Mă
Khện đến, Mă Khện đồng ư đi và xin
đem theo Hạ sĩ nhất Mười. Tôi tiếp: Tôi ngồi suy nghĩ miên man, liều,
phải liều mới cứu được đơn
vị. Chiều hôm đó, lúc 4 giờ, các toán
trưởng lên gặp tôi, có thêm Trung úy Sự. Tôi
hỏi lần chót: Không ai trả lời. Tôi căn dặn
Sự nhắc Lộc khi thấy khói xanh th́ sao và khói vàng
th́ sao, phải nhớ kỹ. Tôi đưa ba toán trưởng
ḅ đến hầm trú ẩn của nhóm tiền đồn
ở sát ngă tư đường. Tôi chỉ từng căn
nhà bên kia đường: Tôi tiếp tục quan sát mục tiêu
của tôi. Căn nhà bằng gạch có nhà trên và nhà
dưới, kế đó là cầu tiêu xây bằng
đá lợp tôn, sát đường là cái giếng xây
bằng xi măng. Trước sân có hai cây vú sữa
cao và sai trái. Tôi biết phải làm ǵ để
chiếm căn nhà đó. Tôi quay lại nói: Trở lại vị trí, tôi dặn ḍ
Điểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy: Sau đó tôi đi gặp Tiểu đoàn
trưởng để tŕnh bày kế hoạch. Ông nói: Tôi nói: Cuối cùng ông chấp thuận: Tôi dạ nhưng trong đầu tôi nghĩ
khác. Trước mắt tôi bây giờ không có ǵ ngoài
đoạn đường từ tiền đồn qua
cái giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới
rồi chiếm nhà trên. Tôi nằm suy nghĩ triền
miên cho đến 3 giờ sáng. Trước khi ḅ ra tuyến xuất phát,
tôi nhắc Sự và Lộc một lần nữa cho
chắc ăn. Bốn giờ kém mười sáng, toán tôi
có mặt tại tiền đồn. Trời vẫn mưa,
mưa xứ Huế có dư âm cái lạnh của ngày
Tết. Trời tối không thấy ǵ, tôi ngại
bắn lầm nhau. Gắng chờ một chút nữa,
đến 5 giờ sáng mưa vẫn không tạnh,
trời vẫn tối mù. Năm giờ rưỡi, cái
giếng đă nh́n thấy được. Chuẩn
bị ! Tôi cảm thấy hồi hộp. Chỉ
cần bốn cái nhảy vọt là qua bên kia đường
nhưng khó như đi lên trời v́ con đường
này là con đường tử thần làm ranh giới
bên ta và địch, là hai mươi ngày trời không
nuốt nổi 5 thước đất. Rách nát bao nhiêu
cũng vẫn không qua được. Bây giờ ḿnh
cắt băng khánh thành, phải làm để cứu
đơn vị, phải hy sinh để cứu đồng
đội. Vừa suy nghĩ xong, tôi phóng vụt qua ôm
bờ giếng. Kế tiếp là Điểu, Việt, Can,
Dư băng theo. Tất cả ngồi ôm thành
giếng, mồ hôi ra như tắm mặc dù trời
lạnh như cắt. Điểu và Can chiếm cầu tiêu.
Bỗng một loạt đạn thật gịn và
thật gần, tôi quay nh́n ra đường. Phúc và cái
máy nát ḿnh nằm trên mặt đường nhựa,
dưới làn đạn mịt mùng của địch.
Tôi hét lớn: Tôi theo sát lên cầu tiêu bên cạnh Điểu
và Can. Súng và pháo nổ dồn dập, một B.40
nổ ngay trên đầu mái tôn cong, cả ba thầy tṛ
đều bị miễng nhỏ đâm đầy
mặt, tóc râu và lông mày đều bị cháy. Cầu
tiêu nhỏ quá nên tôi cùng Điểu và Can lên nhà
bếp. Tôi ra lệnh: Trời sáng hẳn, tôi lắng tai
chẳng nghe nhà bên cạnh có ǵ cả bèn ḅ trở ra
bờ giếng và thấy Duật, Nghênh, Mă Khện
vẫn c̣n bên kia đường. Tôi toát mồ hôi. Tôi
nh́n thẳng vào mấy ổng rất nghiêm và lấy
ngón tay ngoắc. Tôi không dám gọi lớn tiếng,
mấy ông kia gật đầu. Tôi ḅ trở lên nhà trên.
Lựu đạn, súng nhỏ, súng lớn nổ
khắp nơi và nhất là bên phía tay mặt tôi. Tôi
biết rằng tụi tôi đă băng được
qua đường. Tôi hỏi khẽ: Dư lắc đầu, tôi nghe tiếng
th́ thào sát vách tường phía ngoài. Tôi đoán
khoảng 7-8 người đang ở trong một cái
hầm, tôi dùng ngón tay đẩy nhẹ cửa sổ.
Một loạt đạn từ phía nhà đối
diện xuyên ào ào vào cửa sổ. Bỗng Dư
chỉ tay về phía các luống khoai, tôi đếm
đủ 11 người đang ḅ qua, kaki Nam Định, súng
AK và B.40, cách vách tường khoảng 20 thước,
15 thước rồi 10 thước. Tôi đưa súng
lên lên định bóp c̣ th́ Dư kéo lại và ra
dấu đừng bắn, dùng lựu đạn. Tôi
dựng cây súng xuống thật nhẹ, hai tay rút hai trái
lựu đạn miệng cắn chốt. Dư cũng
thế, bốn lựu đạn ném ra cùng lúc,
tiếng nổ xé trời, rồi bốn trái tiếp
theo. Bên ngoài tường, tiếng hét lớn rồi
tiếng rên và sau đó im lặng, tụi c̣n lại ḅ
sát vào chân tường. Nh́n ra cửa, 5 xác nằm
vắt trên luống khoai. Một loạt đạn
nổ và tôi nghe: Tôi sững sờ nh́n Dư, tay trái ôm
ngón út của bàn tay mặt đầy máu, ruột
của Dư đổ ra ḷng tḥng. Dư ngă vật ra
chết tại chỗ, nơi Dư đứng có
một lỗ hổng nhỏ ở vách tường. V́
măi nh́n qua cửa sổ mà không để ư ở phía
dưới: nguyên một họng AK thọc qua lỗ tường
để sát bụng Dư mà nhả đạn. Tôi
bắn một loạt M16 ra cửa sổ, và cứ
thế hết quả này qua quả khác tôi ném tất
cả lựu đạn của tôi ra ngoài bờ tường.
Hai thằng em đă hy sinh, c̣n bốn thầy tṛ
phải giữ vững vị trí. Phía bên tay phải
của tôi, súng vẫn nổ dữ dội. Đến 10
giờ 30 sáng tôi cho Điểu liên lạc với Nghênh,
Duật và Mă Khện. Điểu băng người ra
đi, bốn căn nhà cách nhau mười phút đi
bộ mà hơn một tiếng đồng hồ sau Điểu
mới về báo cáo là tất cả đă chiếm
được mục tiêu. Có đoạn đường
nào xa và xấu hơn đoạn đường tôi
đang đi ! Toán Duật: một chết một
bị thương. Toán Mă Khện: hai chết. Toán Nghênh
một chết một bị thương. Tất cả
là 6 chết 2 bị thương, chúng tôi c̣n lại 11
người tại tuyến. Điểu ḅ ra giếng cố đem qua
cho tôi một cái máy. Cột máy vào một đầu dây
và quăng đầu dây kia qua cho Điểu kéo. Can
mờ máy liên lạc với Tiểu đoàn: Đại bàng hỏi: Phán nài nỉ: Đại bàng Thanh Hóa nói bằng bạch
văn không ngụy trang: Khí giận bừng bừng, tôi tắt máy
không trả lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh.
Suy nghĩ thật kỹ ! Suy nghĩ thật kỹ ! Hơn
mấy giờ để đánh mục tiêu, bốn căn
nhà và một con đường ngập máu. Mưa
vẫn lạnh như cắt da và mồ hôi vẫn ra như
tắm. Cuối cùng tôi đành bảo Điểu
chuyển lệnh cho các toán: Năm thước đường đi
đă khó, về c̣n khó hơn. Mỗi bóng người
nhúc nhích là đạn nổ hàng loạt, liên hồi,
đạn bắn chéo bao phía, đan lưới
thật dày trên mặt đường và khắp
vị trí. Làm sao trở về đây ! Con cái bên kia
đường đưa mắt theo dơi. Toán tôi ḅ ra
giếng, bỗng mấy bóng đen vụt qua đường
như sao xẹt, nhào vào bờ lề và được
anh em kéo ra sau. Đạn nổ ḍn tan cày nát mặt
đường. Đây là mấy đứa bị thương
nặng, tưởng là di chuyển không nổi, nhưng
khi nghe lệnh rút chúng thu hết tàn lực vùng
chạy về, chớp mắt không kịp thấy. Hỏa lực 3 phía nổ vùi vào vị
trí chúng tôi. Các toán đột kích không c̣n liên
lạc với nhau. Điểu và Can vẫn giữ căn
nhà. Địch kiểm soát con đường bằng
mấy cây thượng liên và trung liên, chúng bắn liên
miên. Bên kia đường, Sự và Lộc đáp
lễ bằng hỏa lực cơ hữu của Khăn
tím và của 2. Tôi lấy chân đạp vào thành
giếng phóng người băng qua đường, lăn
ḿnh, nhảy, chạy và té ào vô bờ lề. Anh em kéo
vội tôi ra sau, tôi dừng lại bảo Lộc và
Sự bắn từng loạt một để tụi nó
dọt về. Nh́n thấy Việt ngồi thành
giếng trố mắt ngó về mà tội nghiệp.
Sống và chết cách nhau có một con đường.
Tôi hồi hộp xót xa cho mấy thằng em. Tôi
vừa quay mặt hét: Bỗng tôi thấy thiếu một cái ǵ,
tôi nh́n Can và Việt hỏi: Tụi nó nói: Tôi, Can và Việt ḅ trở ra đường.
Bỗng nhiên một bóng người nhảy qua khỏi
hàng rào, nhảy qua khỏi miệng giếng, phóng nhanh
qua đường, nhào lăn rào rào vào vị trí và
la lớn: Điểu đứng dậy nước
mắt đầm đ́a, tôi lao đến ôm Điểu: Tóc tai mặt mày râu ria Điểu cháy nám,
áo quần rách bươm, nó khóc mùi mẫn v́ thấy
tôi c̣n sống. Rồi nó lại bẻn lẻn cúi
đầu hai hàng nước mắt lă chă giọt
xuống đất. Trong một cuộc chiến bạc
bẽo lại có chút t́nh nghĩa trao nhau qua mấy
giọt nước mắt nóng hổi. Sáu giờ chiều, xuống tŕnh
diện Tiểu đoàn trưởng, ông nói ngay: Tôi dạ dạ vâng vâng cho qua rồi
nghiêm mặt đề nghị: Ông hỏi: Tôi cương quyết: Tôi theo Tiểu đoàn trưởng lên
tŕnh ông Già Hự, Đại tá Yên Tư lệnh phó. Ông
già chấp thuận. Tôi trở về họp các Trung đội
trưởng: Ngày mai, 8 giờ sáng, Đại đội 3
Khăn tím bên trái, Đại đội 2 của Lộc bên
phải, dàn hàng ngang lấy con đường lên
cửa Sập làm chuẩn tiến song song. Sau khi hai
chiếc tank yểm trợ bằng hỏa lực xong,
cả hai Đại đội xung phong tràn ngập vượt
qua mỗi chốt thật nhanh, không cần thâu lượm
chiến lợi phẩm, để cho Đại đội
1 đi sau làm chuyện đó. Tất cả ba lô và
đồ ăn để lại, trang bị thật
nhẹ. Khi tới xóm nhà sát cửa thành th́ dừng
lại chờ tôi. Đúng 8 giờ sáng ngày hôm sau, dàn quân,
hai chiếc tank Ontos hạng nặng tiến lên, mỗi
chiếc trang bị 6 cây đại bác 106 ly. Tôi chỉ
vị trí tác xạ cho hai trưởng xa người
Mỹ rồi ra lệnh khai hỏa. Hy vọng 12 cây 106
ly này sẽ san bằng mục tiêu trước mặt
cho con cái tôi được dễ dàng đôi chút. Nhưng
mỗi chiếc tăng chỉ bắn một phát đạn
duy nhất rồi chạy lùi biến mất, không
biết chạy về đâu. Tôi hết hồn, quân
đă dàn xong, bắt buộc tôi phải ra lệnh xung
phong. Tôi hét thật lớn, hét khản cả cổ: Cả một đoàn quân dàn hàng ngang,
không một ai nhúc nhích. Con đường trước
mặt, con đường của 21 ngày máu và nước
mắt, con đường tráng nhựa đẹp đẽ
nhưng băng qua là đi vào cơi chết. Tôi tức
giận chửi thề lung tung rồi chụp cây đại
liên M.60 của người lính bên cạnh bắn
một loạt dài rồi một ḿnh tôi vừa bắn
vừa băng qua đường cùng với toán
cận vệ: Can , Việt, Điểu và hai thằng mang máy.
Qua khỏi đường xông tới trước,
tiếng đại liên của tôi nổ ḍn. Đúng lúc
ấy cả đoàn quân đồng thanh hô xung phong và
ào qua đường. Sau đó, đoàn người vượt
nhanh qua mặt tôi và lướt tới trước. Súng
nổ vang rền, đoàn quân tiến đều, M16
bắn văi vào chốt, lựu đạn ném vào
chốt, đạp chốt, bang chốt, lướt qua,
cố giữ đội h́nh. Tiếng nổ inh tai liên
tục, đàn áp thật mănh liệt và chạy
tới trước. Đến 3 giờ chiều, chúng tôi
đến xóm nhà sát cửa Sập. Lính vỗ vai nhau cười làm tôi
bắt cười lớn v́ xóm nhà này rất quen
thuộc với họ. Lính thường hay đến xóm
này rồi về kể nhau nghe con này đẹp, con kia
chân dài, con nọ... Nào khăn, nào thau vứt bừa băi
khắp nơi. Lính vui vẻ kể chuyện tục cho
nhau nghe và hồn nhiên đùa nghịch. Những
tiếng cười đầy ham muốn và thèm
thuồng, hơn 40 ngày, từ vùng 4 về giải
tỏa Sài G̣n rồi ra đây, không thấy mặt
một người đàn bà, chỉ thấy toàn máu và
mồ hôi. Tôi ra lệnh: Con cái tôi hành động đẹp c̣n
hơn tài tử xi nê. Tiếng đạn lớn
nhỏ nổ rền, hai toán lên thành chiếm xong
vị trí. Tôi cho tất cả con cái đem bàn ghế
ra chất sát tường và leo lên ngay. Tiếng đạn
và pháo địch vẫn mănh liệt trên nóc thành,
phải khóa lại. Một chặng đường xương
máu đă vượt qua, bây giờ mục tiêu chính,
mục tiêu của niềm hănh diện, mục tiêu
của ơn sâu và nghĩa nặng: Kỳ Đài Huế.
Đây là nơi tượng trưng cho linh thiêng của dân
tộc nói chung và cho Huế nói riêng. Duật và 20 người
tiến chiếm 6 cây súng thần công to lớn, từ
đó Duật dùng hỏa lực kềm địch
ở cửa Ngọ Môn, yểm trợ cho Nghênh và Mă
Khện chiếm Kỳ Đài. Địch bắn trả. Con
cái tôi dùng hỏa lực tối đa và thần
tốc tiến vào Kỳ Đài. Phản ứng của
địch bắt đầu yếu, 5 giờ 12 phút
chiều, màu áo rằn ri Thủy Quân Lục Chiến
đă làm chủ Kỳ Đài. Lá cờ xanh đỏ sao
vàng đầy hận thù c̣n ở trên không. Một
thằng lính rút đâu trong người ra một lá
cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn. Tôi
gọi về Tiểu đoàn: Tôi nhớ rơ lệnh của Trung tướng
Lê Nguyên Khang: Trong niềm vui sướng cùng tột ,
Hạ sĩ Hạnh hét lớn: Thủy Quân Lục
Chiến ! Xong lấy trái hỏa châu đập mạnh
định bắn pháo bông lên trời ăn mừng.
Trong cơn say chiến thắng, Hạnh xoay ngược
đầu hỏa châu vào ḿnh, hỏa châu nổ xuyên
bụng. Hạnh cười tươi: Phán nghĩ thằng em này tỉnh táo quá,
chắc nó chết. Và nó chết thật. Tiểu đoàn trưởng bảo Phu
Nhân giữ đầu máy chờ. Sau này tôi được
nghe: Khi báo cáo về Bộ Tư lệnh Sư đoàn
1, Chuẩn tướng Trưởng xin Thủy Quân
Lục Chiến dành vinh dự treo cờ cho Sư đoàn
1. Sáng hôm sau ngày 24/2 Phạm Văn Định dẫn
một đơn vị của Sư đoàn 1 từ
cửa Thượng Tứ lên làm lễ thượng
kỳ. Nh́n lá cờ vàng phất phới trên
nền trời màu xám của Huế, tôi hănh diện
thật sự v́ một thằng con của Huế đă
góp phần dựng lại ngọn cờ này. Trung úy
Sự tŕnh tôi: Đại đội ra đi hơn 17O người,
sau 24 ngày và sau bao nhiêu lần bổ sung quân số,
chỉ có 3 mục tiêu: con đường, cửa
Sập và Kỳ Đài mà bây giờ tôi chỉ c̣n
lại 67 người. Sáng hôm sau tôi về phối trí đóng
quân lục soát ở khu vực cửa Đông Ba, Nhà Thương
Nhỏ, chợ Xép, ngă tư Anh Danh. Bộ chỉ huy
của tôi đóng tại một tiệm cầm đồ,
tiệm này có Tôn và Lưu cùng học một lớp
với tôi hồi nhỏ. Trong nhà không c̣n ai cả.
Chiều hôm đó tôi gặp lại rất nhiều
bạn bè cũ. T́nh h́nh chưa được an ninh hoàn
toàn nhưng đóng ở đây chúng tôi nhẫn nha hơn
trước nhiều. Tôi đi kiểm soát các vị trí
và cho lệnh lục soát tàn quân địch. Lính canh
bắt giải tới một người đàn ông
lớn tuổi, gầy ốm ăn mặc lếch
thếch, áo vét nhàu rách, tóc tai rối bù và dơ
bẩn, miệng nói lí nhí. Tôi sững sờ nh́n người đàn
ông. Thầy Cao Hữu Triêm! Tôi gọi mấy tiếng lớn mà
thầy cũng không nghe, thầy tiếp tục lẩm
bẩm rất nhỏ. Tôi cầm tay mời thầy
ngồi: Một ánh mắt lạc lỏng xa
vời: Lính tôi kiếm cơm trắng và
một đĩa gà luộc về mời thầy xơi.
Tụi nó c̣n kiếm được một b́nh trà nóng
mời thầy. Sau một hồi thầy tỉnh táo, và
cho biết: cô và sắp nhỏ vào Đà Nẵng,
thằng con lớn bị chết rồi, thầy không
muốn về nhà nữa. Rồi thầy khóc, giọt nước
mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheo. Lính của tôi thay nhau hầu hạ
thầy ân cần, đến ngày thứ tư thầy
đ̣i đi, tôi thu xếp để thầy vô Đà
Nẵng. Từ đó, tôi mất tin tức của
thầy. Cầu mong thầy được bằng an. Được sinh ra và lớn lên ở
Huế, tôi cố trả một phần nào chữ
Hiếu cho nơi chôn nhau cắt rún. Máu của tôi,
của anh em tôi, của đồng bào tôi đă
tạo thành một cơn sóng thần cuốn đi
tất cả kẻ thù để dựng lại
ngọn cờ trên Kỳ Đài tượng trưng cho
Huế. Hai mươi năm sau, hồi tưởng
lại, máu và xương kia đă theo gịng Hương
giang cuốn tôi và bằng hữu ra biển bắt làm
người biệt xứ. Lạy trời, một ngày
nào đó, cũng Cố Đô đó, cũng Kỳ Đài
đó, cho tôi được góp phần dựng lại
ngọn cờ một lần nữa để đền
đáp ơn sâu và nghĩa nặng, nơi tôi đă
sinh ra, nuôi tôi lớn lên và cho tôi làm người.
|