Đặng Ngọc Khảm |
HoangsaParacels: Qua
ngòi bút dí dỏm của Đặng Ngọc
Khảm K 20 SQHQ/NT, chúng ta sẽ hình dung
tấm lòng thiết tha với quân chủng anh
phục vụ qua những ngỡ ngàng
lúc ban đầu khi chuyển giao chiến hạm, gắn
bó keo sơn tình với đồng
đội. Tình yêu quê hương, mong một
ngày hòa bình với những đồng
lúa xanh điểm vài hàng dừa ven
sông dào dạt sức sống của một
đất nước phát triển.
Sau khi tốt nghiệp khóa
20 Trường Sĩ-quan Hải-quân Nha Trang, tôi chọn
nhiệm sở Căn-cứ Yểm-trợ
Tiếp-vận Đồng-Tâm. Tháng 8 năm 1970, tôi khăn
gói xuống Mỹ Tho tŕnh diện. Căn cứ Đồng
Tâm nằm cách Mỹ tho khoảng 5 km cạnh sông
Tiền Giang. Căn cứ này rất lớn, trong đó
có cả bộ tư lệnh Sư Đoàn 7 bộ binh,
các giang đoàn tuần thám, thủy bộ và các cơ
quan an-ninh v.v… Với quân phục
chỉnh tề, tôi vào tŕnh diện trung tá Đồng,
chỉ huy trưởng căn cứ yểm trợ
tiếp vận. Ông rất to con, ḥa nhă. Sau vài câu
hỏi thăm, ông cho tôi biết: tôi cùng 20 anh em
thủy thủ được biệt phái xuống cơ
xưởng nổi YRBM 17 của Mỹ thực tập
để chuẩn bị tiếp nhận tàu do Mỹ bàn
giao lại cho Hải quân Việt Nam. Sau khi sắp
xếp đồ đạc tại pḥng riêng trong căn
cứ, tôi xuống tŕnh diện vị thiếu tá
chỉ huy trưởng Mỹ của cơ xưởng
nổi đó. Trước khi bước lên tàu, tôi
hoang mang, không hiểu tại sao tôi lại được
biệt phái, đại diện HQVN xuống thực
tập, trong khi tiếng Anh của tôi thuộc loại
“tôi nói tôi hiểu, chứ Mỹ họ không hiểu
hết”. Khi vào gặp vị chỉ huy trưởng
Mỹ, tôi hơi run và ngượng ngùng. Ông bắt tay
tôi, nói tràng giang đại hải. Tôi chẳng
hiểu ǵ ráo, chỉ lẳng lặng thưởng
thức dung nhan ông, bụng th́ cười thầm. Qua
ngày hôm sau tôi bắt đầu t́m hiểu cơ
cấu tổ chức của tàu, các trang thiết
bị, cùng thăm hỏi anh em thủy thủ Việt
Nam thực tập tại đó. Một vị trung úy
Mỹ theo tôi để hướng dẫn; tôi nghe
được tiếng đực tiếng cái, cứ lúi
húi ghi chép; anh ta tưởng tôi giỏi tiếng Anh
lắm và nghĩ rằng tôi ít nói v́ tôi chỉ
gật đầu, nói “yes” hoặc lắc đầu,
nói “no” thôi. Cái sướng nhất của tôi là
được các thủy thủ Mỹ chào tôi
bằng “SIR” khi gặp tôi; tôi cứ nghĩ sao mà ḿnh
vĩ đại thế! Tới giờ ăn trưa
tôi được thông báo tới pḥng bếp để
lấy thức ăn. Khi tới nơi tôi đă
thấy sĩ quan từ chỉ huy trưởng trở
xuống đang đưa khay để bồi gắp
thức ăn vào. Hôm đó chúng tôi được
ăn gà và khoai tây chiên. Sau khi bưng khay đồ
ăn vào pḥng ăn sĩ quan, tôi ngồi gần
cuối bàn theo thứ tự quân giai. Đây là lần
đầu tiên tôi phải dùng dao muỗng nỉa để
ăn, tôi thấy thật khổ sở; tôi cứ âm
thầm theo dơi họ sử dụng những thứ
ấy như thế nào để bắt chước làm
theo. Tôi muốn lấy hũ muối và tiêu ở
gần đầu bàn mà chẳng biết nói làm sao nên
tôi đành phải ăn lạt! Cái khổ nhất
của tôi lúc đó là không biết làm sao ăn
mấy cái đùi gà. Tôi để ư hầu hết
những người khác chỉ ăn ức gà, chỉ
có anh sĩ quan tiếp liệu ngồi gần tôi là có
cả một cái ức gà lẫn một cái đùi gà.
Tôi cứ câu giờ cắt khoai tây ăn trước,
chờ xem anh ta “xử lư” cái đùi gà ra sao v́ anh ta
dùng dao cắt cái ức gà ăn trước. Tới
khi ăn cái đùi gà, anh sử dụng bàn tay năm ngón;
tôi mừng quưnh, chụp cái đùi gà chơi liền;
tôi ở thế phải ăn nhanh v́ lúc đó hầu
như tất cả mọi người đều
sắp ăn xong.
Hôm sau vào giờ ăn sáng
các sĩ quan cứ ngồi tại pḥng ăn, bồi phát
mỗi người một tấm phiếu “order”
thức ăn, muốn ăn ǵ th́ điền vào. Tôi ṭ
ṃ ghi vào hơn sáu món ăn trong đó tôi chỉ
biết rơ hai món, đó là trứng và bánh ḿ. Sau đó,
anh bồi bưng vào cho tôi một dĩa to gấp ba dĩa
nguời khác, miệng mỉm cười. Khi trông
thấy dĩa đồ ăn tôi muốn độn
thổ v́ trong đó có những thứ trái cây mà tôi
chưa từng thấy bao giờ. Tôi ráng trợn
trắng con mắt mà nuốt cho gần hết dĩa!
Tuần lễ đầu tiên thật là vất vả;
tôi vừa phải học từ ngữ tiếng Anh liên
quan đến các cơ phận máy móc, vừa phải
theo dơi họ điều hành sửa chữa tàu bè;
đầu óc tôi lúc nào cũng muốn vỡ tung.
Một hôm tôi chỉ thị cho anh thủy thủ
Việt nam hàn lại cái “cylinder head” (đầu máy)
bị nứt để ráp vào máy, v́ xưa kia tôi
vẫn thấy bố tôi làm như vậy. Anh trung sĩ
Mỹ phụ trách toán cơ khí quay qua nói với tôi, tôi
hiểu lờ mờ là anh muốn tôi cho thay cơ
phận mới. Tôi muốn nói với anh ta rằng: hàn
lại dùng vẫn được để tiết
kiệm ngân quỹ. Tuy nhiên v́ không biết diễn
đạt ư nghĩ của tôi bằng tiếng Anh, tôi
chỉ nói với anh ta một câu gọn bâng: “It’s
OK!’’ Nghe xong anh ta liền bưng cái “cylinder head” quăng
đùng xuống sông. Tôi giận tím mặt, bèn bỏ
đi. Anh ta ngạc nhiên, bèn lẽo đẽo theo sau
hỏi tôi: “What’s wrong, sir?” Tôi đứng lại
hỏi tại sao anh ta làm như vậy. Anh trả
lời: tại tôi nói “OK”. Tôi nói lại với anh
ta ư nghĩ của tôi với sự phụ hoạ
của đôi bàn tay; anh ta chợt hiểu ư muốn
của tôi, cả hai cùng cười x̣a. Sau hôm đó,
anh cho tôi sách và t́nh nguyện dạy tôi học
tiếng Anh. Vào mỗi tối anh dạy tôi học cách
phát âm và tập cho tôi nói đúng chữ và đúng câu.
Anh hỏi tôi có muốn nhờ anh mua máy cassette hay máy móc
ǵ khác không, anh sẵn sàng mua giùm cho; tôi nói: tôi không
cần. Được hai tuần lễ th́ tôi không
thấy anh đâu. Tôi hỏi viên sĩ quan cố
vấn của tôi mới biết anh ta bị đổi
đi đơn vị khác. Khoảng một tháng sau,
Bộ Chỉ-huy Yểm-trợ Tiếp-vận lần lượt
bổ sung quân số để chuẩn bị tiếp
nhận tàu. Tháng 12 năm 1970 tàu được bàn giao
cho Hải quân Việt Nam và được đổi tên
là: HQ 9610. Tàu dài gần 100 thước,
trọng tải trên 2,600 tấn; tàu không có máy vận
hành và chân vịt nên không thể tự di chuyển
được; tàu có máy phát điện, máy lọc nước
biển; tàu có các hầm chứa nước và dầu
rất lớn. Trên boong có một cần trục để
câu giang đĩnh lên một sà lan cặp bên hông tàu,
trên đó có gắn một bệ đỡ tuần
giang đĩnh PBR. Đơn vị HQ 9610 được
trang bị thêm một chiếc xe GMC để đi lănh
hàng tiếp liệu ở trung tâm tiếp liệu trong ṿng
thành Hải Quân Công Xưởng ở Sài G̣n. Tàu c̣n
được trang bị một giang đĩnh vận
chuyển LCM6 được dùng đưa rước
thủy thủ và sĩ quan cơ hữu đi bờ và
cũng được dùng trong việc chở hàng
về tàu. Quân số đơn vị HQ 9610 khoảng
100 nhân viên. Hệ thống tổ chức và danh sách sĩ
quan chỉ huy giai đoạn đầu như sau: • Chỉ huy trưởng:
HQ Đại úy CK Trần Minh Tuệ. • Chỉ huy phó: HQ Trung
úy CK Nguyễn văn Phong • Trưởng ban
nội vụ: HQ Chuẩn úy Đỗ Khắc Ân • Trưởng ban
tiếp liệu: HQ Chuẩn úy CK Trần Ken • Phó ban tiếp
liệu: Chuẩn úy Huỳnh Ngọc Ẩn (thuyên
chuyển về năm 1971) • Trưởng ban điều
hành cơ xưởng: HQ Chuẩn úy CK Đặng
Ngọc Khảm • Phó Ban điều hành
cơ xưởng: HQ Chuẩn úy Nguyễn Thế Vinh
(thuyên chuyển về năm 1971).
Ban nội vụ gồm có:
quản nội trưởng và toán hành chánh tài chánh và
văn thư, toán truyền tin, toán ẩm thực và pḥng
y tá. Ban tiếp liệu
gồm có: toán nhiên liệu lo kiểm soát đo mức
lượng dầu khi tiếp nhận dầu từ
hoả-vận-hạm, báo cáo lượng dầu
tồn kho hàng tháng và lo việc tiếp tế dầu
cho các giang đĩnh hành quân, toán tiếp liệu lo
nhận hàng từ trung tâm tiếp liệu Hải Quân và
toán thủ kho lo nhập hàng vô kho và cấp phát cơ
phận sửa chữa. Ban điều hành cơ
xưởng gồm có: toán vận chuyển, toán điện
khí, toán điện tử, toán cơ khí, toán tiện,
toán pḥng tai và toán trọng pháo. Sau khi bàn giao, HQ Mỹ
lựu lại một sĩ quan cố vấn là Đại
úy Bennett; vị cố vấn này xuề x̣a, thân
thiện, dễ ḥa đồng. Sau đó, một vị
cố vấn Mỹ khác đến thay thế; vị
cố vấn thứ hai này là Thiếu tá Crawford có
vẻ tương đối không thân thiện lắm. HQ 9610 chính thức
hoạt động từ tháng 12 năm 1970, phụ trách
tiếp tế nhiên liệu, sửa chữa giang
đĩnh thuộc các giang đoàn tham gia cuộc hành
quân Trần Hưng Đạo với nhiệm vụ
bảo đảm an ninh trên vùng thủy lộ sông
Tiền-giang. Lực lượng hành quân gồm các
giang tốc đĩnh PBR thuộc các giang đoàn 55, 56
tuần thám và các giang đĩnh Alfa, Tango, LCM, v.v….
thuộc các giang đoàn 71, 72 thủy bộ. Thỉnh
thoảng đơn vị chúng tôi cũng nhận
sửa chữa một vài chiếc PCF. Vào những tháng
ngày đầu tiên, anh em thủy thủ luôn bận
rộn và làm việc thật vất vả. Tôi ít khi
mặc quân phục chỉnh tề, chẳng đeo lon lá
ǵ cả, lăn lưng cùng anh em thủy thủ vật
lộn với mấy chiếc giang đĩnh. Tôn
chỉ của tôi là không để một giang
đĩnh nào nằm ụ quá ba ngày, kể cả trường
hợp phải thay máy khác, chỉ trừ tường
hợp những chiếc PBR có vỏ bằng “fiberglass
(sợi thủy tinh) bị bể phải vá lại.
Trong trường hợp đó, tàu phải nằm
ụ hơn một tuần v́ mỗi ngày chúng tôi
chỉ dán được một một lớp mỏng
mà thôi, phải chờ keo khô rồi mới đắp
lớp kế tiếp. Anh em thủy thủ pḥng tai lo công
tác vá tàu khi về đêm đều trở thành
“nhạc sĩ bất đắc dĩ”, v́ vào ban ngày
họ phải mài vỏ giang đỉnh bằng máy khi
lớp vá khô ráo. Chất bột thủy tinh của
vỏ giang đĩnh dính vào da c̣n sót lại sau khi
tắm rửa, khiến họ cảm thấy ngứa ngáy
phải găi giống như nhạc sĩ khảy đờn
vậy. Cơ phận thay thế
được chuẩn úy Ken điều hành, cung
cấp cho chúng tôi nhanh và đầy đủ nên công
việc sửa chữa hoàn tất nhanh gọn và đúng
kỹ thuật yêu cầu. Để giải khuây sau
giờ làm việc mệt nhọc, tôi thiết kế
một bàn ping-pong để anh em vui chơi vào giờ
rảnh rỗi mà không được đi bờ.
Nhờ vậy anh em trong đơn vị có dịp vui chơi
chung, bớt đi cảnh buồn chán, nhất là khi tàu
neo lẻ loi giữa gịng sông. Đầu năm 1971, tàu
được lệnh điều động xuống
An Long, quận Hồng Ngự gần biên giới Căm-bu-chia
tham gia yểm trợ cuộc hành quân Trần Hưng
Đạo 18, có nhiệm vụ giữ ǵn an ninh
thủy lộ huyết mạch Tiền Giang, hộ
tống các đoàn tàu buôn tiếp tế Căm-bu-chia.
Tàu ḍng kéo tàu chúng tôi đến vị trí neo,
phải đợi chúng tôi bỏ neo xong mới quay
đi. Chúng tôi toàn là dân cơ khí nên vấn đề
bỏ neo chỉ biết phó thác cho Trời. “Ông
bỏ th́ ông cứ bỏ, neo này cắn th́ tốt, không
cắn th́ ông phải bầm ḿnh”; có lần sau
mấy tuần bỏ neo, vào một đêm giông gió, tàu
bị tróc neo trôi dạt về phía chợ Đồng
Tiến thuộc quận Hồng Ngự, khu vực kém
an ninh. May thay, chỉ huy phó Phong lanh trí kịp thời
điều động LCM6 cơ hữu đẩy tàu
trở lại vị trí cũ và neo cắn đất
ngay lần thả neo thứ hai. Chẳng bao lâu sau đó,
bọn Việt Cộng từ phía bên kia bờ sông,
miệt Hồng Ngự, nhắm hướng tàu đang
neo giữa gịng pháo kích, nhưng tàu ở ngoài tầm
pháo kích nên không hề hấn ǵ. V́ lư do đó, sau hơn
hai tháng ở An Long Bộ Chỉ Huy Hành Quân ra lệnh
kéo tàu về Tân Châu, một quận trù phú, an ninh
của tỉnh Châu Đốc. Tàu chúng tôi neo giữa
gịng sông, gần ngang Bộ Chỉ Huy Hành Quân Trần
Hưng Đạo 18 trên bờ, cách quận lỵ Tân
Châu vài cây số. Gần tàu chúng tôi là cơ xưởng
nổi HQ 9611 đă yểm trợ sửa chữa cho
cuộc hành quân ở đấy từ đầu,
chờ chúng tôi đến thay thế để di
chuyển về lại Đồng Tâm, tham gia yểm
trợ cuộc hành quân Trần Hưng Đạo 17.
Nếu tôi nhớ không lầm, Bộ Chỉ Huy Hành Quân
đó đặt tại Mỹ Tho. HQ 9610 và HQ 9611 cứ
khoảng một năm luân phiên thay nhau, được
kéo đến yểm trợ hai vùng hành quân vừa nêu. Nhờ đă quen với
công việc trong thời học hỏi qua Hải quân
Mỹ trước khi bàn giao, công tác yểm trợ
sửa chữa và tiếp tế nhiên liệu của HQ
9610 cho các giang đoàn trong vùng hành quân thật hữu
hiệu – nhanh chóng và tốt đẹp. V́ vậy HQ
9610 được Bộ Tư Lệnh Hành Quân khen thưởng
xứng đáng. Tư lịnh Lực Lượng Đặc
Nhiệm đảm nhận cuộc hành quân lúc đó là
đại tá Nghiêm văn Phú. Một hôm có một
chiếc giang tốc đĩnh PBR “mới cắt
chỉ” cặp tàu chúng tôi xin sửa chữa. Tôi
ngạc nhiên v́ nó thuộc Hải quân Căm-bu-chia.
Thuyền trưởng là một thiếu úy, nói
tiếng Pháp trôi chảy. Anh ta không biết tiếng
Anh, nên tôi phải bập bẹ tiếng Pháp với
anh, nhưng tay tôi lại nói nhiều hơn miệng.
Thế rồi mọi chuyện cũng đâu ra đấy,
và công việc sửa chữa hoàn tất trong ngày. Anh
ta cám ơn tôi rối rít. Để tưởng thưởng
công lao đóng góp của anh em thủy thủ tàu chúng
tôi cho cuộc hành quân, vị tư lệnh đă
cấp phép cho bốn anh em được tháp tùng theo các
giang đĩnh hộ tống tàu buôn qua Nam Vang, thủ
đô Cam-bu-chia, chơi mấy ngày. Đó là khích
lệ lớn lao cho tinh thần phục vụ đắc
lực của anh em. Tiện đây tôi xin có lời tôn
vinh, ca ngợi tinh thần dấn thân v́ tổ quốc
của các bạn trẻ thủy thủ sát cánh làm
việc với tôi. Các bạn đă sống lênh đênh
trên sông nước tháng này qua tháng nọ, tâm trí
bất ổn định, khẩu phần ăn uống
thật khiêm nhường, nhưng các bạn làm
việc thật cực nhọc; nhiều khi các bạn c̣n
phải làm ban đêm để hoàn tất công tác
sửa chữa các giang đĩnh đúng yêu cầu
khẩn của vị chỉ huy trưởng giang đoàn.
Có lúc phải làm việc giữa đêm, anh em thủy
thủ phục vụ các giang đĩnh liên hệ
đem khẩu phần lương khô của ḿnh san
sẻ với các anh em sửa chữa để làm
đỡ đói ḷng anh em phải làm việc khuya. Qua
đó tôi thấy thấm thía thế nào là “t́nh huynh
đệ chi binh” trong quân đội chúng ta. T́nh
“huynh đệ chi binh” đó khác hẳn t́nh “huynh
đệ chi binh” của mấy anh bộ đội
cộng sản mà ta thường nghe được sau
ngày bọn chúng chiếm được miền Nam: “Huynh đệ chi binh Để kín ḿnh ŕnh Để hở ḿnh
rinh” Sở dĩ thủy
thủ đoàn có tinh thần cao như vậy là
nhờ sự chỉ huy khéo léo, mềm dẻo của sĩ
quan điều hành. Từ chỉ huy trưởng
trở xuống, chúng tôi coi nhau như anh em một nhà;
khi làm việc th́ làm việc hết ḿnh, theo đúng
nguyên tắc, có tôn ti trật tự rơ rệt. Vào
giờ nghỉ th́ cùng nhau vui chơi thoải mái, chia
sẻ tâm sự buồn vui, tránh được tranh
chấp bất đồng rất dễ xảy ra
giữa các “ông thần lâu ngày thiếu bóng dáng đàn
bà”. Có một điều đặc biệt là
đơn vị HQ 9610 v́ nhờ xa “mặt trời” nên
thoải mái thực hiện một tuần làm việc
chỉ có năm ngày, các thành viên trong đơn vị
chia ra hai toán đi bờ luân phiên trong hai ngày cuối
tuần: thứ bảy và chủ nhật; ngoài ra
đơn vị c̣n chọn những nhân viên xuất
sắc trong công việc, những nhân viên xuất
sắc luân phiên được đi nghỉ phép đặc
biệt vài ngày. Đó cũng là một trong những lư
do khiến anh em trong đơn vị làm việc hết
ḿnh, đạt năng suất cao. Ngoài giờ làm việc
chúng tôi thường hay câu cá dọc theo sà lan tàu
để giải khuây, kiếm thêm đồ nhậu.
Dường như tôi không có số “sát cá”; tôi không
khi nào câu được con cá nào hết. Một hôm các
sĩ quan câu được mười con tôm càng mà không
ai biết nhậu nên tôi t́nh nguyện làm tôm để
nấu ḿ. Tôi rửa sạch râu ria, ngắt đầu
để riêng. Tôi chia đều thân tôm cho mỗi tô
ḿ; tôi chia thật nhiều phần đầu tôm cho các
tô ḿ dành cho những ai có công câu được tôm như
chỉ huy trưởng, chỉ huy phó, chuẩn uư Ân;
những tô dành cho những ai không câu được tôm
như tôi th́ chỉ có một đầu tôm thôi.
Tối hôm đó chúng tôi mỗi người được
ăn một tô ḿ thịnh soạn, tôm nhiều hơn
ḿ; đến nửa đêm ai cũng chột bụng
xếp hàng đi cầu; ai ăn nhiều đầu tôm
chừng nào đi cầu nhiều chừng nấy. Sáng
hôm sau chỉ huy trưởng Tuệ hỏi tôi: lúc làm
tôm có lấy con hà – mồi để câu tôm – trong
miệng tôm ra không. Tôi trả lời có ư phân bua
rằng: “Từ lúc cha sanh mẹ đẻ tới
giờ tôi có biết làm bếp ǵ đâu mà biết cái
miệng tôm nó nằm ở chỗ nào; các sĩ quan lâu
nay bị táo bón nhờ tôi trị bệnh khỏi
phải tốn tiền rồi đấy!” Ngoài công tác yểm
trợ hành quân, chúng tôi cũng tham gia công tác dân
vận, cấp thuốc cho dân, nếu cần. Tôi
nhớ một buổi trưa nọ có một ghe cào
chở ra tàu chúng tôi một người đàn ông
miệng đang rỉ máu, vợ anh xin tôi cho chữa giùm;
anh bị thương v́ đă toan tự hủy ḿnh. Tôi
cho đưa anh lên pḥng y tá làm thủ tục rửa
ruột. Tôi hỏi nguyên do, chị vợ ngập
ngừng không nói nên lời. Tôi hỏi nhằm muốn
biết lư do để t́m cách khuyên giải anh ta.
Hỏi măi chị vợ mới th́ thầm nói với tôi:
Trong lúc đang làm rẫy, tự dưng con lợn ḷng
anh nổi lên, v́ hai vợ chồng mới lấy nhau,
anh bèn về nhà xin chị vợ “ṭ te”; chị không
chịu; tức ḿnh anh khui chai thuốc rầy
“nhậu” cạn chai. May cho anh chồng nhờ chị
vợ nhanh trí chở ra tàu chúng tôi ngay nên không sao,
chứ chờ đi bệnh viện chắc đời
anh “hai năm mươi”rồi! Thật đúng là:
“thằng nhỏ” hại “thằng lớn”! Nhân dịp tôi và
Chuẩn uư Ken lên lon, chỉ huy trưởng cho tổ
chức buổi lễ rửa lon cho chúng tôi. Riêng tôi v́
thường xuyên vui đùa và cùng anh em trên tàu sinh
hoạt thân mật, coi nhau như bạn bè. Chính v́
vậy anh em thủy thủ, bàn tính với nhau từ trước,
dội vào người tôi nguyên một “sô” (thùng) nước
đá pha nước mắm ướt từ đầu
đến chân vào buổi lễ rửa lon đó; ôi thôi,
mùi nước đó hôi không thể chịu được!
Buổi chung vui nho nhỏ đó tổ chức vào
một buổi cuối tuần. Chỉ huy trưởng
Tuệ thông báo cho anh em biết trước; ai có người
quen ở Tân Châu cứ việc mời tới dự. Tôi
đích thân hướng dẫn giang đĩnh LCM
của tàu đi đón khoảng gần 50 người;
có rất nhiều bóng hồng trong đám khách tới
dự; anh em được dịp “thả dê”
thoải mái. Trong thời gian phục
vụ tại HQ 9610, tôi có một kỷ niệm rất
đau thương mà tôi không bao giờ quên, đó là
trận “cáp duồn” đồng bào Việt nam cư
ngụ ở Căm-bu-chia. Một ngày nọ tôi
chứng kiến vài xác mất đầu trôi trên sông,
nhiều khi vướng vào dây neo tàu, tôi phải cho người
đẩy ra. Xác nào vô phước th́ trôi ra biển;
xác nào may mắn tấp vào cù lao th́ được
đồng bào đạo Ḥa Hảo làm lễ an táng
đàng hoàng. Vào thời đầu thâp niên 1970,
hải quân Việt Nam đă đem một Dương
vận hạm qua Căm-bu-chia để chở đồng
bào Việt Nam về lại quê hương định
cư ở các vùng gần biên giới; thành phần
được chở về quê hương đó
mới là những người thực sự may
mắn. Vào đầu năm 1972,
sau hơn một năm yểm trợ hành quân, tàu chúng
tôi được lệnh kéo về Đồng Tâm; HQ
9611 được kéo ra thay thế trước đó
một thời gian. Khi được tin tàu sẽ
được kéo về Đồng tâm, anh em thủy
thủ trong đơn vị chúng tôi đều khấp
khởi vui mừng, v́ hầu hết nhà anh em đều
ở Sài G̣n, Mỹ Tho hoặc Vĩnh Long; tiện hơn
nữa chúng tôi c̣n được rời tàu dễ dàng,
khỏi phải chờ đợi LMC đưa rước.
Trên đường tàu được kéo về Đồng
Tâm, nh́n cảnh ruộng vuờn xanh mướt, xen
lẫn với nhừng hàng dừa sai trái và hàng cao
thẳng tắp đẹp mắt hiện ra hai bên
bờ sông Tiền, ḷng tôi cảm thấy lâng lâng khó
tả. Trong khi thả hồn với cảnh sông nước
êm đềm đó, tôi ngẫm nghĩ: nếu một
mai khi hoà b́nh trở lại, quê hương ḿnh ắt
sẽ được phát triển mạnh nhờ khai thác
sâu rộng và đúng mức những vùng đất màu
mỡ lúc đó hăy c̣n bị chiến tranh tàn phá,
chắc hẳn người dân miền Nam sẽ hưởng
được cuộc sống sung túc yên vui lắm! Nhưng
không ngờ rằng sau khi cộng sản xâm chiếm toàn
cơi Việt Nam, t́nh trạng kinh tế miền Nam
lại tụt hậu; qua mấy chục năm rồi mà
đất nước chúng ta chẳng được phát
triển như tôi đă mường tượng
thuở đó. Thật đáng tiếc lắm thay! Khi tàu cặp cầu, bên
hông thành tàu bị mỏ neo cày rách một lỗ to
cần phải vá lại. Qua ngày hôm sau tôi được
đi phép một ngày nên tôi chỉ thị cho thủy
thủ Xuân thực hiện công tác này trước khi
đi. Anh Xuân nhỏ con, tánh t́nh hiền lành, lễ
độ; lúc nào tôi cũng thấy anh cười; tôi
mến anh lắm. Anh là con trai lớn trong một gia
đ́nh gồm bảy người con ở tại Sài G̣n:
gồm năm gái và hai trai. Ba má anh đặt tên con
rất có vần. Em trai út của anh tên là Ḷng; tôi hay
đùa với anh, nếu má anh sanh thêm đứa
nữa th́ hăy đặt tên là Tḥng cho nó có vần như
sau: Hoa, Xuân, Xinh, Thắm, Mảnh, Tơ, Ḷng …Tḥng! Anh
bảo nếu má anh sanh con gái mà đặt tên Tḥng th́
nghe kỳ quá! Qua một ngày đi phép, tôi trở
lại đơn vị vào lúc sáng sớm th́ được
hung tin anh Xuân đă tử nạn lúc thi hành nhiệm
vụ sửa chữa do tôi giao phó cho anh. Bầu không khí
tang tóc bao trùm cả con tàu sáng hôm đó.Chúng tôi đă
từng chứng kiến cảnh máu xương
chiến sĩ hải quân đổ ra khi giang đĩnh
kéo về sửa chữa sau trận chiến đấu
để bảo vệ vùng đất tự do, nhưng
chúng tôi không thể nén được nỗi xúc động
khi chứng kiến chính đồng đội ḿnh
đă hy sinh. Tôi liền vào gặp chỉ huy trưởng,
xin ông cho tôi được đích thân lo đám táng
cho anh Xuân. Chỉ huy trưởng Tuệ cho xuất quĩ
của đơn vị, đưa cho tôi một số
tiền; tôi cùng sáu thủy thủ đi bằng xe GMC
của đơn vị hướng về Sài G̣n lo ma
chay cho anh Xuân. Vừa tới nơi, tôi liền liên
lạc ngay với Bộ Chỉ Huy Yểm-trợ
Tiếp-vận xin cung cấp xe tang, một người
lính kèn để thổi những ḍng nhạc vĩnh
biệt khi hạ huyệt và một nữ quân nhân
phụ trách tiếp tân. Tôi dự định tổ
chức một đám tang theo nghi lễ quân cách long
trọng: lúc nào cũng có hai thủy thủ mặc quân
phục tiểu lễ đứng hai bên quan tài. Tôi túc
trực tại nhà anh Xuân từ sáng tới tối
để lo nhang đèn, tiếp tân và an ủi mọi
người trong nhà. Nghe những lời than khóc của
mẹ anh Xuân mà tôi cảm thấy như đứt
từng khúc ruột. Ba ngày sau, chúng tôi tất cả
đều mặc quân phục tiểu lễ khi
đưa linh cữu anh Xuân đến nơi an nghĩ
cuối cùng với nghi thức chào kính vĩnh biệt
của anh em chúng tôi trong tiếng kèn buồn. Sau đám
tang, gia đ́nh anh Xuân khẩn khoản mời chúng tôi
ở lại dùng cơm. Trong bữa cơm đó, cha
của anh Xuân tâm sự với tôi: mặc dù ḷng ông
buồn vô hạn nhưng đám tang được anh
em chúng tôi tổ chức quá trang trọng nên ông cũng
như tất cả họ hàng đều rất
cảm động và họ cảm thấy được
an ủi rất nhiều. Khi tàu về Đồng
Tâm được vài tháng th́ tôi nhận được
lệnh thuyên chuyển về HQ 504. Những ngày
cuối c̣n ở trên tàu, ḷng tôi cảm thầy
thật buồn, đi đâu anh em cũng than: “Ông
thầy đi, tụi tui buồn lằm!” Trong cuộc
đời binh nghiệp của tôi, các kỷ niệm
vui buồn trên HQ 9610 thật là đậm nét, không bao
giờ phai mờ trong trí nhớ của tôi. Tuy chúng tôi
không trực diện chiến đấu với quân
địch, nhưng anh em chúng tôi luôn luôn âm thầm
tranh đấu với bản thân đem hết khả
năng, sức lực để làm việc hầu
bảo đảm an toàn cho các giang đĩnh hành quân
diệt địch. Trước khi kết thúc bài
viết này, tôi xin được ghi thêm hai câu sau đây: “Vinh danh bầu nhiệt
huyết của tuổi trẻ Việt Nam Vinh danh chiến sĩ
Việt Nam Cộng Ḥa đă nằm xuống v́ hai
chữ tự do.” ……….
đặng ngọc
khảm |