Mậu
Thân hưu chiến Vương Mộng Long |
Sau khi Ban Mê
Thuộc thất thủ là triệt thoái cao nguyên mà 4 liên
đoàn Biệt Động Quân của Quân khu 2 đều
tan nát. Duy nhất Liên đoàn 24 Biệt Động Quân
do Thiếu tá Vương Mộng Long chỉ huy về
đến Phan Thiết. Lần đầu tiên trong quân
sử, một Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng
chỉ huy một liên đoàn với 3 tiểu đoàn tác
chiến, vượt 144 cây số đường
rừng từ Kiến Đức về Di Linh vẫn
giữ đội h́nh và vũ khí, rồi tiếp
tục chiến đấu tại Long Khánh, trong hỗn
loạn nguy ngập của miền Nam. Là một
chiến tích. Như chiến tích giữ đồn
Pleime tháng 7-1974 của Thiếu tá Vương Mộng
Long đă đẩy lui các đợt tấn công
của sư đoàn 320 Bắc-Việt. Thiếu tá Long
đă viết ra một phần đời quân ngũ:
Tháng Ba Năm Xưa, Tháng Tư Lại Về, Sao Hôm Sao
Mai, Thời Thế, Thiện, Ác và Con Người… Nhưng
c̣n Mậu Thân 68? Người sĩ quan can trường
này khi ấy ở đâu? Làm ǵ? Mậu Thân Hưu
Chiến là hồi kư sau cùng được viết
trong những ngày áp Tết Mậu Tuất. Trần Vũ Đứng
trên đỉnh Ngô-Sơn, tôi xoay người một ṿng
ba trăm sáu mươi độ, nh́n bao quát vùng đồi
núi dưới chân ḿnh. Dưới kia chỉ là
rừng xanh chập chùng. Ông Lạc, thường vụ đại đội, vừa loay hoay, tay cời bếp lửa, vừa ngoạc miệng, nghêu ngao câu sấm lưu truyền từ đời tám kiếp nào đó: “Thân, Dậu niên lai… kiến thái b́nh…” Tôi
chợt nhớ ra, chỉ c̣n hai ngày nữa là bước
sang năm Thân, nếu đúng như sấm truyền th́,
năm mới Mậu Thân (1968) có lẽ quê hương
tôi sẽ thấy thái b́nh? “Hồng-Lĩnh
có nghe không? Đây Sa-Thầy gọi!” “Hồng-Lĩnh
có nghe không? Đây là một đầu năm đuôi!” “Báo
cho Hồng-Lĩnh biết ‘xê’ đi đầu
của tôi lạc đường rồi! Tôi không
biết nó đang ở đâu! Bây giờ tôi phải làm
sao đây!?” Tôi
ngẫm nghĩ, “Một (1) đầu, năm (5) đuôi
là 15! Chắc Sa-Thầy là danh hiệu truyền tin
của đơn vị mang số 15 nào đó!” Tôi
nghe tiếng Sa-Thầy rất rơ; chắc nó cũng
ở gần đâu đây thôi! C̣n Hồng-Lĩnh th́
không nghe được. Trong máy chỉ có tiếng
“xẹc! xẹc!” H́nh như cái đài Hồng-Lĩnh
này ở xa lắm, nên máy của tôi không bắt
được sóng của nó? Thuở
ấy tôi chưa có ư niệm ǵ về t́nh báo
chiến trường, chẳng biết các đài vô
tuyến đang gọi nhau kia là của địch hay
của ta. “Thôi!
Thây kệ họ!” Tôi gác máy, không thèm nghe tiếp
nữa. Mai
là Ba Mươi Tết rồi! Ăn Tết trong
rừng th́ buồn, nhưng cũng may là năm nay có ba
ngày hưu chiến, cũng đỡ lo! Chúng tôi
nhận được lệnh, sẽ không bắn chúng
nó! Việt-Cộng cũng thế, họ sẽ không
bắn chúng tôi! Tôi chắc mẩm trong ḷng, chắc
ăn như bắp là, sẽ không có chiến tranh
dịp Tết này. Có Ủy Hội Quốc Tế đứng
ra bảo đảm mà! Mậu Thân sẽ là Tết ḥa
b́nh trên toàn lănh thổ của đất nước
ta! Hôm
qua, trong lúc di chuyển đổi vùng, một con
hoẵng (con mễn) đă chạy đâm sầm vào
đoàn quân của tôi. Vài anh lính nhào vào ôm con
hoẵng tính đè nó xuống, bắt sống nó để
làm thịt, nhưng không xong, con hoẵng nhảy tưng
tưng rồi luồn lách trốn mất. Cứ
như tin dị đoan th́, đi rừng mà gặp con
hoẵng, không bắt được nó, không giết
được nó, không ăn thịt được nó,
th́ sẽ gặp điều không may. Nhưng tôi nghĩ
chỉ c̣n hai ngày nữa là hết năm; năm
mới sẽ thái b́nh; chắc cái vụ bị con
hoẵng đâm vào cũng không đến nỗi nào! Sáng
sớm tinh mơ Ba Mươi tháng Chạp ông tiểu
đoàn trưởng cho tôi một tin mừng: Tôi
thầm nhủ, “Cứ
tưởng phải đón Xuân trong rừng! Nào
ngờ! Đúng là mừng hết lớn luôn!” Một
đại đội của Tiểu Đoàn 22 Biệt Động
Quân tới. Công việc bàn giao suôn sẻ. Đại
đội tôi về tới hậu cứ Biển
Hồ vào lúc đồng hồ tay chỉ đúng mười
giờ. Bộ chỉ huy tiểu đoàn và ba đại
đội kia đi đâu tôi không được thông
báo. Anh
tống thư văn của tiểu đoàn chuyển
cho tôi một công điện trao tay xác nhận, trong
thời gian này Đại Đội 1/11 đặt dưới
quyền điều động trực tiếp của
liên đoàn trưởng, giữ nhiệm vụ pḥng
thủ doanh trại Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân
và là thành phần trừ bị sau cùng của liên
đoàn. Lau
súng ống xong xuôi th́ có khẩu lệnh của trung tá
liên đoàn trưởng cho các đơn vị
trực thuộc: “Cấm
nổ súng trong thời hạn ba ngày Mùng Một, Mùng
Hai và Mùng Ba Tết. Nếu vi phạm, đơn vị
trưởng sẽ bị phạt nặng!” Vừa
cơm trưa xong, lại thêm lệnh mới: “Tất
cả súng ống vào kho! Ai nổ súng trong ba ngày
Tết sẽ bị nghiêm trị!” Tôi
thắc mắc: “Vậy
chứ canh gác bằng ǵ? Chẳng lẽ gác bằng
gậy, hay gác tay không?” Lệnh
bèn đổi lại: “Chỉ
có một khẩu súng tại vọng gác.” Vậy
là tôi cấp cho bốn vọng gác bốn khẩu súng. Đại
đội tôi chỉ có hai sĩ quan, mà ông đại
đội phó lại bận đi phép đặc
biệt thăm vợ đẻ dưới Cần Thơ.
Nghe hậu cứ nói có ông chuẩn úy mới ra trường
vừa về bổ sung, tôi mừng quá. Xế
trưa, ông chuẩn úy tŕnh diện, tôi hỏi: -
Anh có thân nhân, bà con ǵ ở Pleiku? -
Thưa không! -
Vậy th́ ở lại trong đồn, ăn Tết
với anh em. Tôi
tập họp đại đội, ưu tiên cho
những quân nhân có gia đ́nh được miễn
canh gác; số c̣n lại bốc thăm: nửa ở nhà,
nửa đi chơi tới trưa Mùng Hai phải
về. Tới
chiều tôi gọi ông chuẩn úy vào pḥng, -
Có đi phố không? Muốn đi th́ lấy xe tôi mà
đi, tôi ở nhà coi đồn cho! -
không! Trung úy có đi th́ đi! Tôi muốn ở nhà
ngủ cho khỏe. Chắc
mẩm có người thay ḿnh giữ đồn
rồi, tôi liền leo lên xe, dông ra Pleiku. Xe
đi ngang Đồi Đức Mẹ th́ bị chặn
lại. Một ông đại úy cố vấn bị
nổ lốp xe giữa đường, xin quá giang. Ông
cho tôi biết tên ông ta là Donald Allen Evans. Ông ta mới
về đáo nhậm liên đoàn. Sẵn đang
rảnh rang, tôi rủ ông bạn Mỹ ghé nhà vài người
quen, mời ông ăn bánh chưng, bánh tét, thịt đông,
củ kiệu, dưa hành, cho biết người dân
Việt mừng Xuân như thế nào. Chúng tôi đảo
qua nhà thờ nghe các cô con chiên của Chúa hát thánh ca,
rồi tấp vào chùa Pleiku xem Phật tử xin xăm,
xổ quẻ. Mới
gặp nhau đó mà tôi và ông Donald đă thấy thân
mến nhau. Nh́n thân h́nh ục ịch, ánh mắt
thật thà, ông Donald có vẻ hơi quê mùa một chút,
nhưng ông đúng là mẫu người hiền lành
ra mặt. Mặt ông đầy đặn và miệng
ông th́ lúc nào cũng như sẵn một nụ cười.
Ông đi lính đă lâu, và lớn hơn tôi gần
chục tuổi. Chúng tôi kết thành đôi bạn vong
niên. Ông
Donald hứa rằng, kỳ hành quân sắp tới, ông
sẽ đi theo đại đội tôi. Đường
phố lên đèn, tôi quẹo lên dốc Holloway. Tới
hội quán của trại, tôi ngừng xe. Ông Donald kéo
tay tôi xuống tản bộ, rồi nhờ một anh lính
Mỹ lái chiếc Jeep của tôi ra băi chứa nhiên
liệu, bơm một b́nh xăng đầy. Camp
Holloway nằm trên cao độ hơn bảy trăm năm
mươi mét, nên từ đây tôi có thể nh́n
thấy một vùng rộng lớn xung quanh. Ngay
dưới chân đồi Holloway, gần hơn cả,
là Khu Dưỡng Quân Trà-Bá 2, suốt ngày đêm,
nhạc nổ “Xập! X́nh!…” Từ
hơn năm nay, Tướng Vĩnh Lộc đă ra nghiêm
lệnh cấm các quán bar hoạt động trong khu cư
dân trong thành phố. Quán bar và nhà chứa gái làng chơi
phục vụ quân đội Đồng Minh đă bị
dời ra Trà Bá 2, tập trung thành một khu giải trí.
Cũng từ đó mà những chuyện lính tráng say sưa,
phá phách, đánh lộn đánh lạo đă không c̣n
xảy ra trong phố Pleiku nữa. Bên
trái, đàng xa là phi trường Cù-Hanh lấp lánh ánh
đèn. Xa về Nam là một khu hào quang rực rỡ,
bao quanh chân núi Hàm Rồng, nơi đặt bản
doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Hoa-Kỳ. Tít
mù hướng Tây Bắc là Đồi Đức Mẹ. Đồi
này nằm trên Ngă Tư Quốc Lộ 14 và Xa Lộ Vĩnh-Lộc,
trên đỉnh đồi có tượng Đức
Mẹ màu trắng. Sở dĩ tôi có thể nhận
biết ngọn đồi này dễ dàng, v́ cứ cách
năm, mười phút, giàn đèn pha chống pháo kích
lại quét một ṿng bán kính bảy cây số quanh chân
núi. Ánh đèn chói lóa, làm hoa mắt người nh́n.
Trên đồi có mười sáu khẩu 105 ly của
Mỹ, lúc nào cũng đặt trong t́nh trạng
sẵn sàng. Cách Đồi Đức Mẹ một bàn tay xoè
về bên phải là doanh trại của đơn
vị tôi, Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân, cạnh
đó là khu doanh trại của Trung Tâm Huấn
Luyện Trường Sơn. “Twinkle,
twinkle little star. How wonder I know what you are!” (Lấp
lánh, lập ḷe v́ sao nhỏ bé. Thật là diệu
kỳ, ta biết mi là ai!) Có
lẽ ông Donald đang nhớ nhà? Tiếng hát của ông
ấy nghe buồn lạ! Ông
mời tôi một điếu Pall Mall, rồi giơ tay
chỉ cho tôi một ngôi sao đang lấp lánh trên ṿm
trời đen ng̣m hướng Bắc. –
Kia là ngôi sao của tôi! Mỗi khi nhớ nhà, tôi thường
ra ngoài trời đứng nh́n v́ sao đó hằng
giờ, tự hát “The Star” cho ḿnh nghe, để mong vơi
đi nỗi nhớ! Tôi
thắc mắc, –
Sao ông lại lựa v́ sao này làm ngôi sao của riêng ḿnh? –
V́ nó là ngôi sao sáng nhứt trên ṿm trời Bắc Bán
Cầu. Ngôi sao đó là nước Mỹ, nơi tôi
sinh ra và lớn lên. Nh́n thấy ngôi sao này, tôi cảm
như đang nh́n thấy quê hương, thấy người
thân. Nghe
Donald giải thích, tôi gật gù cảm thông. Với
người dân Âu Mỹ th́ bài thơ “The Star” đă
trở thành khúc hát dân gian hàng trăm năm nay
rồi. Nhưng khi hát nó lên, mỗi người
lại mang một tâm trạng khác nhau. Cái
bệnh nhớ nhà, quả là một bệnh dễ lây. Nghe
ông Donald than thở nhớ quê, ḷng tôi bỗng thấy
nhớ mẹ. Mẹ tôi ở ngoài Hội-An. Tôi
biết, Tết này, thế nào sau khi cúng Giao Thừa
xong, mẹ tôi cũng mở radio chờ nghe bài “Xuân này
con không về” và chắc chắn mẹ tôi sẽ khóc. V́
nhiệm vụ, ông Donald phải xa quê hương
nửa ṿng trái đất; cũng v́ nhiệm vụ mà
tôi phải xa Hội-An một chiều dài bằng
nửa nước Việt-Nam Cộng-Ḥa. Chiếc
Jeep quay trở lại với b́nh xăng đầy. Ông
Donald vào quầy rượu, kư tên mua một chai Johnnie
Walker. Ông gói nó lại cẩn thận, rồi trao nó cho
tôi, cùng với câu chúc Tết bằng tiếng Việt
trọ trẹ: “Chúc
mừng năm mới! Chúc Trung úy một năm mới
an khang thịnh vượng!” Tôi
cười, đưa tay nhận món quà. –
Cám ơn Đại úy nhiều lắm. Tôi cũng chúc
đại úy một năm mới b́nh an. Sau
khi từ giă ông Donald, tôi tàng tàng xuống phố,
tản bộ một hồi, rồi chui vào nhà Trung sĩ
Sửu, ăn Tết ké với Ban Quân Xa Liên Đoàn. Giao
thừa chưa tới, tôi đă say mèm, lăn quay ra
chiếu ngủ như chết. Nửa
đêm anh Sửu dựng tôi dậy, –
Trung úy ơi! Dậy đi! Súng nổ như bắp
rang! H́nh như có đánh nhau trong phố, hướng
dinh Tướng Vĩnh Lộc? Chắc có đảo chánh! Tôi
nghe rơ có tiếng “Cắc! Cắc!… Bùm! Bùm!…” ṛn
ră, lúc gần, lúc xa, nhưng cứ đoán ṃ: “Có
khi là pháo Tết!” Lúc
lâu sau, một tràng AK “Toác! Toác! Toác!” từ đâu
đó bắn sang hướng xóm nhà tôi đang ở. Tôi
vội bật dậy mặc áo quần, mang giày vớ.
Khoác lên vai cái dây nịt có khẩu Colt 45, tôi nói
với Trung sĩ Sửu và hai anh lính:
Sau
đó chúng tôi ngồi chờ trời sáng. Sửu
mở máy thâu thanh. Đài Phát Thanh Sài-G̣n và Đài Quân-Đội
chỉ có nhạc quân hành. Măi sau mới nghe được
tin Sài-G̣n đang loạn, Việt-Cộng xâm nhập
thủ đô và đang đánh phá lung tung! Mờ
sáng, tôi bước ra sân. Bên kia sân là nhà Đại úy
Vọng Lập Dzếnh, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 11
Biệt Động Quân. Ông Đại úy cũng đang
quần áo súng ống dềnh dàng, thập tḥ trước
ngơ. –
Á! Cái ông Long cũng ở đây há? Đánh nhau lung tung
trong phố, ḿnh biết làm sao mà vào đồn bây
giờ? Ông
Dzếnh là người Nùng, nói tiếng Việt không lưu
loát lắm. Gọi tôi, thay v́ “Long ơi! Long à!” ông
ta cứ “Cái ông Long!” Xe
của tôi và xe của ông Dzếnh đều đậu
trên đường Phan Đ́nh Phùng. Mặt lộ cao hơn
xóm nhà bốn năm mét. Xe vào xóm không được,
phải đậu trên lề đường. Tự bao
giờ, bốn bánh chiếc xe của tôi đă bị
bắn bể, xẹp lép! Xe của ông Dzếnh cũng
cùng chung số phận! Tôi
và ông Dzếnh đành men theo bờ đường
đi về hướng Trường Nữ Trung Học
Pleime. –
Hey! Long! What are you doing here? (Ê! Long! Anh đang làm ǵ
ở đây vậy?) Tôi
nhào tới, ông ta ôm tôi vào ḷng, ông ta là Đại úy
Donald A. Evans. Donald
nắm hai tay tôi, lắc lắc vài cái, –
Đánh nhau khắp chốn! Đại đội của anh
đâu? Sao anh lại ở đây? –
Đại đội c̣n ở trong đồn.Tôi ngủ
ngoài phố. Xe tôi bị bắn hư. Ông
Donald và Đại úy Dzếnh chỉ bắt tay chào nhau,
chứ hai người không hề nói chuyện qua
lại. –
Thôi! Lên xe đi! Chúng ta về đồn! Hôm qua anh cho
tôi quá giang, hôm nay tôi cho anh quá giang. Ông
cố vấn đưa tay ra dấu cho chúng tôi lên
ghế sau. Ghế sau có cái túi quân trang của Donald và
chiếc áo Field Jacket của ông. Tôi
ngồi một bên, ông Dzếnh một bên, cái túi quân
trang “ngồi” ở giữa. Chúng
tôi tới Biển Hồ, quang cảnh vắng lặng.
Từ Chợ Chồm Hổm tới khu gia binh, nhà
cửa đóng kín mít. Tới
sân tiểu đoàn tôi nhảy phóc xuống đất
để quan sát t́nh h́nh. Văn
pḥng đại đội tôi (1/11) bị bộc phá
của Đặc-Công Việt-Cộng đánh lủng
một miếng vách, bàn ghế găy nằm ngổn ngang,
giấy tờ bay lung tung. Căn buồng sát vách văn
pḥng là nơi tôi để cái giường bố dùng
ngủ qua đêm mỗi khi không xuất trại cũng
lănh nhiều trái bộc phá, chiếc giường
vải rách tả tơi, đầy máu me. Ông Chuẩn
úy mới ra trường và Binh nhứt Phạm Công Cường
ngủ trong pḥng này đêm Ba Mươi Tết. Không
biết hai vị này chết sống ra sao? Văn
pḥng của bộ chỉ huy tiểu đoàn cũng
bị bộc phá đánh sập, sổ sách, giấy
tờ tung toé khắp chốn. Trên mặt đất, bên
phải cửa chính của văn pḥng tiểu đoàn,
nơi đặt cái giá gỗ treo cái kẻng sắt có
một vũng máu lớn đầy ruồi nhặng. Như
vậy là đă có ai đó mới bị giết ở
đây đêm qua, thi thể đă được mang
đi. Một
đoàn người trang bị súng ống, nón sắt,
dây đạn đầy đủ, do ông Thượng
sĩ trưởng trại gia binh dẫn đầu,
mới từ khu gia binh theo cổng sau vào sân tiểu
đoàn. Gặp tôi, ông Thượng sĩ nói, -
Nửa đêm Đặc-Công đă vào đồn.
Thấy đồn bỏ trống nên chúng nó ném
bộc phá lung tung. Ông Thượng sĩ Du, Thường
vụ Tiểu đoàn ngủ trong văn pḥng, nghe
tiếng nổ, bèn chạy ra đánh kẻng báo động.
Không ngờ chạm mặt Đặc-Công
Việt-Cộng, và ông đă bị chúng đâm
chết. Hạ
sĩ Truyền, tài xế xe Dodge của đại đội
tôi th́ kể rằng, -
Hôm qua, sau khi Trung úy lái xe đi, ông chuẩn úy cũng
cho tất cả anh em c̣n lại ra khu gia binh chơi,
vọng gác Đông và vọng gác Tây bỏ trống,
chỉ để lại một người gác cổng
sau, cổng trước đă có ông Hạ sĩ
Nghết t́nh nguyện trực suốt ba ngày, không
cần người thay. Nửa đêm, nghe tiếng
nổ, anh em vào tới nơi th́ Đặc-Công đă rút.
Ông chuẩn úy cận thị bị thương
nặng, máu me cùng ḿnh, Binh nhứt Phạm Công Cường
vỡ đầu, Thượng sĩ Du bị đâm
chết. Bác sĩ của liên đoàn đă cho xe
cứu thương di tản người chết và
bị thương về Quân Y Viện Pleiku. Sau
này tôi cũng nghe ông Hạ sĩ Nghết kể
lại rằng, ông ở đây một ḿnh, vợ con
ông ở ngoài Huế, mỗi năm ông đi phép
về thăm nhà một lần thôi, v́ thế ông t́nh
nguyện trực pháo đài cổng chính suốt ba ngày
Tết. Giờ Giao Thừa, lúc Việt-Cộng chui rào vào
đánh bộc phá th́ ông đang ngồi cầu
nguyện, ông theo đạo Chúa. Sợ Việt-Cộng
xông vào tấn công nên ông leo lên nóc lô cốt, thủ
khẩu đại liên ba mươi. Cho đỡ
sợ, ông cứ bóp c̣ súng liên tục, bắn loạn
xạ lên trời. Ông bắn gần hết mười
thùng đạn mới ngừng tay, nghe ngóng. Lúc ấy
Đặc-Công đă rút đi hết! Chờ
t́nh h́nh thật yên, ông Nghết mới xách khẩu
Carbin M1 chạy vào văn pḥng t́m ông Chuẩn úy.
Thấy văn pḥng tan hoang, ông hạ sĩ hoảng
hồn, mở cổng chính, chạy thục mạng ra
khu gia binh t́m Thượng sĩ Em. Ông Em là chỉ huy
hậu cứ của đại đội. Thượng
sĩ Em tập họp anh em rồi kéo nhau vào đồn.
Ông Em gọi điện thoại cho liên đoàn báo cáo
t́nh h́nh. Nghe xong, ông Liên đoàn trưởng nổi cơn
thịnh nộ, dọa sẽ đưa Trung úy Vương
Mộng Long ra ṭa án quân sự lột lon, v́ bỏ
đồn đi chơi, để địch tấn công.
Rồi ông ra lệnh cho Trung úy Lưu Danh Rạng
phải lập tức trở về hậu cứ
Tiểu Đoàn 11 để chỉ huy Đại Đội 1/11.
Lúc đó tất cả quân nhân các cấp của đại
đội đă tề tựu trong sân để
chờ hạ sĩ quan tiếp liệu mở kho cho anh
em nhận lại súng đạn. Anh
Rạng nguyên là Đại đội trưởng Đại
Đội 4/11. Anh ta đang thụ huấn khóa Chiến
Tranh Chính Trị ở Đà-Lạt sau khi bàn giao đại
đội cho một sĩ quan khác tạm thời
chỉ huy. Nhân dịp nghỉ Tết, Rạng “dù”
về Pleiku chơi, v́ ở Đà-Lạt không quen,
buồn quá! Tối Ba Mươi Tết, Rạng ngủ
trong nhà người tài xế của Đại Đội
4/11, trong khu gia binh. Giao Thừa, súng nổ, anh theo chân
một nhóm quân nhân hậu cứ của Tiểu Đoàn
23 chạy vào bộ chỉ huy liên đoàn lánh nạn. Hai
giờ sáng, Trung úy Rạng được lệnh đem
Đại Đội 1/11 đi tảo thanh địch trong
phố Pleiku. Đại Đội 1/11 đi rồi th́ đồn
bị bỏ trống v́ không có ai canh gác. Bước
vào văn pḥng tiểu đoàn, tôi quay điện
thoại gọi pḥng trực của liên đoàn.
Vừa nghe tôi xưng danh, bên kia đầu máy đă có
tiếng giọng Bắc kỳ nạt nộ: “Trung
úy Long đấy hả? Trung úy đi đâu suốt
đêm qua? Trung úy có nhiệm vụ giữ đồn mà
để cho Việt-Cộng nó vào, nó đánh phá tan
hoang nhà cửa, giết chết cả thường
vụ tiểu đoàn mà Trung úy không hay. Kỳ này
nếu Trung úy có bị lột lon th́ cũng đừng
kêu oan đấy nhé!” Tôi
vội hỏi, –
Xin lỗi! Ai đầu dây? Có phải Thiếu tá Thi Liên
Đoàn Phó đó không? –
Không! Tôi là Tính, hạ sĩ quan an ninh đây! Th́
ra, người vừa quát tháo ra oai với tôi không
phải Thiếu tá Đoàn Thi, Liên Đoàn Phó, mà là anh
Hạ sĩ nhứt Tính, phụ tá hạ sĩ quan an
ninh liên đoàn! Anh Tính này trước đây là
xạ thủ SKZ 57 ly của Tiểu Đoàn 11 Biệt Động
Quân. Anh ta mới được biệt phái về Ban
An Ninh của liên đoàn cách nay vài tháng. Nghe
biết người đầu dây bên kia là ai, tôi
giận quá, quát lên, –
Vậy th́ anh câm cái mồm lại ngay! Anh đừng có
hỗn hào! Nếu tôi có lỗi th́ cấp trên tôi
sẽ khiển phạt tôi. C̣n anh chỉ là một
hạ sĩ nhứt mà dám ăn nói như vậy
với tôi th́ liệu hồn! Tôi muốn gặp Trung tá
liên đoàn trưởng hoặc Thiếu tá liên đoàn
phó ngay bây giờ! Nghe rơ chưa! Giọng
của người đầu dây bên kia có vẻ hơi
run, –
Dạ! Tŕnh Trung úy! Em chỉ lặp lại lời Trung
tá liên đoàn trưởng thôi! Chứ em đâu dám
hỗn với Trung úy. –
Câm đi! Tôi ra lệnh cho anh đi t́m Trung tá Dơng hay
Thiếu tá Thi cho tôi nói chuyện gấp! Rơ chưa? –
Tŕnh Trung úy! Ông trưởng và ông phó đều ra
Pleiku rồi. Giờ này chỉ c̣n ông Chuẩn úy sĩ
quan trực. Trung úy nói chuyện với ông ấy có
được không ạ? Ông
Chuẩn úy sĩ quan trực cho tôi hay hai ông trưởng
và phó đang ở chỗ Ban Kiểm Soát Biệt Động
Quân trên đường Hoàng Diệu Pleiku. Giao tranh
đang diễn ra trong khu vực gần đó. Tôi
về văn pḥng đại đội, mở tần
số liên đoàn để nói chuyện với Trung tá
Dơng. Nghe tiếng tôi, Trung tá Dơng hét lên, –
Đ! M! Mi c̣n sống đó hả? Ra đây mau! Cả ông
Donald và ông Dzếnh cũng ra đây luôn! Nghe rơ chưa! Tôi
bước ra sân t́m ông Donald và ông Dzếnh; hai vị
c̣n đang đi ṿng ṿng quanh doanh trại để quan
sát sự thiệt hại do cú đánh phá vừa qua
của Đặc- Công. Trước
khi rồ máy, ông Donald vác cái túi quân trang và cái Field
Jacket của ông ta vào văn pḥng đại đội
tôi, giao cho Thượng sĩ Em cất giữ dùm. Chúng
tôi chạy tới dinh Tướng Vĩnh Lộc th́
đường bị dây kẽm gai rào kín, phải
quẹo trái sang phía nhà thờ, rồi ṿng sang Hoàng
Diệu. Trước
Trạm Biệt Cảnh có nhiều người đứng
lố nhố. Thiếu tá Đoàn Thi đang điện
đàm với một cánh quân nào đó, c̣n Trung tá Dơng
th́ ngồi trên bực cửa của Trạm Biệt
Cảnh, miệng ph́ phà một điếu x́ gà. Tôi chưa
kịp đứng nghiêm chào kính th́ ông Dơng đă oang
oang, –
Ông nội đi đâu suốt đêm qua vậy ông
nội? Canh gác ǵ mà để Đặc-Công vào phá nát
hậu cứ, giết chết lính của ḿnh mà không
biết ǵ th́ tôi cũng phục ông luôn! –
Tôi nhận lỗi đă vắng mặt đêm qua. Nhưng
nếu tôi ở nhà, và ra lệnh cấm trại
tất cả anh em của đại đội trong khi
súng ống bị nhốt trong kho, chắc tôi cùng
nhiều người nữa đă không toàn mạng. Và
chắc ǵ giờ này tôi c̣n được nh́n
thấy Trung tá? Nghe
tôi nói vậy, Trung tá Dơng như chợt nhớ ra, chính
ông đă ra lệnh cho tôi cất súng vào kho. Nếu như
đêm qua cả trăm người lính bị cầm
chân trong trại, tay không tấc sắt, chắc
chắn số người chết bởi Đặc-Công
Việt-Cộng sẽ không lường được
là bao nhiêu. Ông
cười làm lành, –
Th́ ta cũng la ó cho có lệ vậy thôi, chứ ai không
biết rằng lệnh cấm nổ súng là do quân
đoàn ban ra! Chỉ tại thằng Việt-Cộng vi
phạm chứ chú mi đâu có lỗi ǵ? Sau
đó Trung tá Dơng ra lệnh cho Trung úy Rạng trao
lại quyền chỉ huy Đại Đội 1/11 cho tôi. Tôi
được anh Rạng trả lại quyền
chỉ huy đại đội vào lúc mặt trời lên
cao cỡ nửa con sào. Anh em trong đơn vị
thấy tôi trở về b́nh an đều mừng vui ra
mặt. Lúc
này Đại Đội 1/11 đang bố quân dọc hai bên
đường Hoàng Diệu trước Khách Sạn
Bồng-Lai. Trung tá Dơng tới tận hàng hiên của Quán
Kim-Liên ra lệnh cho tôi phải cấp tốc chuyển
quân tái chiếm Lao Xá Pleiku và đặt một nút
chặn tại đó. V́ con dốc từ Lao Xá Pleiku và
khu Cây Đa Xà nơi chân Dốc Ḷ Heo chính là điểm
xuất phát các mũi tiến công của
Việt-Cộng. Tôi
gọi ba ông trung đội trưởng vào mái hiên
Kim-Liên để phân chia nhiệm vụ. V́ Trung sĩ
nhứt Ngọ, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1,
nằm bên kia đường nên không nghe rơ lệnh
triệu tập của tôi, nên Hạ sĩ Dương
Lô hiệu thính viên đại đội phải
chạy sang thông báo miệng cho ông Ngọ. Bỗng
đâu! “Xoẹt! Oành!” Từ trên trời, một trái
rocket phóng xuống cắm ngay giữa phố. Trái
rocket chỉ điểm cắm giữa ḷng đường,
toé lửa, khói trắng tuôn cuồn cuộn. Bụi bay
mù mịt, cát đá rào rào đập vào tường,
vào cửa nhà hai bên đường. Sức ép do trái
rocket vừa nổ đă đánh văng toàn thân h́nh, kèm
với ba lô, súng đạn, cùng chiếc PRC 10 của
Hạ sĩ Dương Lô từ giữa đường
bay vào sạp báo của tiệm Phở Kim-Phượng. Trái
khói nổ chỉ cách bộ chỉ huy liên đoàn và
toàn ban cố vấn Mỹ chưa đầy một trăm
mét! Tôi
không cần khiếu nại, hay báo cáo, cố vấn liên
đoàn cũng đă thấy tận mắt cảnh tượng
quái đản vừa xảy ra. Chỉ cần nhích
một chút xíu nữa th́ ban cố vấn Mỹ cũng
“đi đoong!” Loa khuếch đại của máy
truyền tin trên xe cố vấn đồng loạt
rộ lên om ṣm những tiếng chửi thề: “F!
You! F! You! Check air! Check air! F! You!…” Chắc
đă nhận biết dưới chân ḿnh là quân
bạn, nhưng chiếc L.19 vẫn c̣n đảo thêm
một ṿng tṛn trên đầu tôi, rồi mới
lừng lững bay đi. Tôi
tiến tới bên ông Lô th́ thấy cả người
ông Hạ sĩ bị nám đen. Ông nằm ngoẹo
đầu trên nền đất. Hai mắt ông mở
trừng trừng: Phi cơ Đồng Minh của tôi
vừa giết oan một đồng ngũ của tôi! Tôi
vuốt mắt cho người quá cố, nhưng hai mi
mắt ông không chịu khép lại! Thấy
thế, tôi bèn xoa hai bàn tay vào nhau cho ấm lên, rồi
x̣e rộng bàn tay phải, phủ mặt cho người
chiến binh già. Miệng tôi lẩm nhẩm : “Cầu
xin Đức Chúa Trời cứu rỗi!” Phút
sau tôi rút tay ra. Đôi mi mắt người lính già đă
khép lại! Da mặt ông như vừa sáng lên, rạng
rỡ, hết nhăn nheo. Có
thể là, hơi ấm từ ḷng bàn tay tôi đă kích
thích dịch thủy trong mắt ông tiết ra khiến
da mi mắt ông mềm đi, dăn nở, nên mắt ông
nhắm lại được. Cũng có thể giờ
phút đó Chúa Cứu Thế trên đường vân
du, đă nghe lời nguyện của tôi, nên dừng chân
ghé ngang, vớt linh hồn người lính già ngoan
đạo Dương Lô về quê hương La Vang? Tôi
cho một trung đội thận trọng men theo
đường rănh thoát nước tiến xuống
cổng Lao Xá. Đầu
cầu lập xong, cả đại đội ào
xuống núp quanh nhà dân. Tới lúc này tôi mới nh́n
ra, ông Donald và cả Trung úy Rạng cũng có mặt
trong đoàn quân của tôi. Tôi
nắm vai ông Donald, –
Ông đi theo tôi làm ǵ? Ông có nhiệm vụ ǵ ở
đây mà theo tôi? –
Th́ tôi đă hứa với anh rằng, kỳ hành quân
này tôi sẽ đi theo anh. Anh không nhớ sao? Thường
th́ một toán cố vấn phải gồm hai hoặc
ba người. Giờ này ông Donald đơn độc
đi theo tôi, không có máy truyền tin, không người
hộ vệ. Trong lúc gấp gáp, tôi cũng không có th́
giờ để hỏi rằng, ông làm chuyện này là
tự nguyện hay đă có sự đồng ư của
cố vấn trưởng. Quay
qua Trung úy Rạng, tôi hỏi, –
Toa đi theo moa làm ǵ? –
Sĩ quan đại đội chỉ có ḿnh cậu, ḿnh
theo cậu để có ǵ cần, ḿnh giúp cậu
một tay. Có hai thằng đại đội trưởng,
chết đứa này c̣n đứa kia, đơn
vị không sợ mồ côi! Trước
ḷng tốt của hai người bạn, một
Việt, một Đồng Minh, tôi cảm động không
nói nên lời. Tôi nắm tay các bạn tôi, bóp một
cái thật chặt, để thay lời cám ơn. Trong
cái thung lũng nhỏ, nhà dân toàn là loại lợp lá,
vách phên. Không có ǵ dùng để che đạn, nên chúng
tôi áp dụng chiến thuật tác chiến di động.
Từng tốp ba người, súng chĩa ba hướng
khác nhau, tiến chiếm từng căn nhà. Bỗng
từ dưới dốc, một người cầm
gậy, đầu gậy treo một cái áo mayor
trắng, vừa chạy lên dốc, vừa phất
cờ. Một thanh niên hổn hển, –
Các anh lính Cộng- Ḥa ơi! Các anh lính Cộng-Ḥa
ơi! Trung
sĩ Có giơ tay chặn anh ta lại, –
Có ǵ đó! –
Việt-Cộng! Việt-Cộng nhiều lắm! Chúng nó
chiếm nhà em! Nhà em nằm dưới chân dốc! Theo
hướng tay anh thanh niên chỉ, tôi thấy, ngay dưới
dốc là một căn nhà tranh, xung quanh có vườn
cây um tùm. –
Trong nhà c̣n ai không? –
Dạ không. Ba má em và mấy đứa em về Quy- Nhơn
ăn Tết nên chỉ có ḿnh em giữ nhà thôi.
Nửa đêm Hai Mươi Chín Tết mấy ông
Giải-Phóng gơ cửa, ào vào, nhốt em trong buồng,
cấm ló mặt ra. Sáng nay em nghe các anh lính Cộng-Ḥa
la hét trên dốc Bưu Điện, em bèn rút phên vách ra thành
một lỗ hổng to rồi chờ đợi. Đến
khi các anh xuống tới nơi, em vội chạy lên báo
cho các anh hay. Chắc
chắn trong căn nhà dưới kia không c̣n người
dân nào, tôi quyết định diệt gọn số
Việt-Cộng đang trú ẩn trong đó, không cho tên
nào chạy thoát. Tôi
ra dấu cho người thanh niên lui về phía sau,
rồi ra lệnh, –
Hai khẩu trung liên BAR của ông Ngọ và ông Khôi
bắn xéo cánh sẻ sát hai đầu hồi căn nhà.
Khẩu đại liên 30 quét ngay giữa nhà. Nhớ là
phải quét sát đất! Tất cả súng tay c̣n
lại đều nhắm vào căn nhà bắn thả
giàn! Chưa
tới ba mươi giây sau, “Đùng!
Đùng! Đùng! Cành! Cành! Cành! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Ùm! Ùm! Ùm!…”
Gần năm mươi khẩu súng đủ loại,
đua nhau nhả đạn nhằm vào cái nhà tranh dưới
dốc. Vách phên toác ra từng mảnh, bay như bươm
bướm. Mái tranh tung ra từng mảng, bay như bươm
bướm. Thoáng chốc căn nhà đă tả tơi,
biến dạng, có lẽ những cây cột chính đă
bị bắn găy, nên nó ngả nghiêng, chao qua, chao
lại, như muốn đổ sụp. Không có ai
từ trong nhà chạy ra. Không nghe một tiếng súng
đáp trả! Chờ
năm, bảy phút sau, không thấy ǵ lạ, tôi ra
lệnh ngừng bắn, rồi cho Trung Đội 2 tràn qua
mục tiêu, bố trí dọc con suối để
giữ an ninh, c̣n Trung Đội 1 th́ lục soát mục tiêu. Sau
khi chiếm giữ căn nhà tranh và khu vườn dưới
dốc, Trung sĩ nhứt Ngọ báo cáo, Tôi
rút quân lên bố trí quanh Cây Đa Xà. Trung Đội 1 dùng dây
dù cột vào chân những tử thi địch, rồi
kéo chúng về tập trung trên một băi đất
trống bên cổng chính của Lao Xá Pleiku. Xe của Quân
Vận sẽ đem xác chúng đi chôn. Trong khi
chuyển tải các tử thi, anh em phát giác ra một cán
binh c̣n sống! Anh ta nằm giả chết! Trên lưng
anh ta có khẩu K54! Anh ta là cấp chỉ huy! Hai
Biệt Động Quân áp tải tên Việt-Cộng
tới trước mặt tôi. Anh ta là người
Miền Bắc, anh ta cũng cỡ tuổi tôi, hăm nhăm,
hăm sáu là cùng. Tôi chỉ chỗ cho anh ta ngồi,
rồi mồi cho anh ta một điếu thuốc lá
Lucky không đầu lọc. Tôi không ra lệnh trói tay,
bịt mắt anh ta, v́ tôi nghĩ, chút nữa đây,
chắc chắn sẽ có những phóng viên ngoại
quốc t́m tới lấy tin vùng giao tranh, và họ
sẽ chứng kiến cách đối xử với tù
binh của Quân Đội Việt-Nam Cộng-Ḥa. “Anh
tên là ǵ? Quê quán ở đâu? Bao nhiêu tuổi? Cấp
bậc ǵ? Chức vụ ǵ? Đơn vị nào?” Tôi
từ tốn hỏi. Tôi
vừa dứt lời, anh cán binh Việt-Cộng đă
vội vàng nhanh miệng, lễ phép trả lời: Không
ngờ anh chàng này lại có vẻ liến thoắng và
bạo dạn quá, tôi thắc mắc, –
Vậy chứ “xê” là ǵ? “Hát” là ǵ? –
Dạ xê (C) là đại đội, hát (H) là tiểu
đoàn đấy ạ! Chợt
nhớ ra mẩu điện đàm nghe được
đêm Hai Mươi Chín Tết, tôi vội hỏi, –
Có phải Sa-Thầy là H 15 không? C̣n Hồng-Lĩnh là
ai vậy? –
Dạ Sa-Thầy là phiên hiệu của Tiểu Đoàn H
15, c̣n Hồng Lĩnh là phiên hiệu của Tỉnh Đội
Gia-Lai. –
H 15 có đại đội đi đầu bị
lạc. Có phải C 1 bị lạc từ đêm Hai Mươi
Chín Tết không? –
Th́ ra thủ trưởng cũng biết chuyện
đơn vị của em bị đi lạc ư? Tôi
gật gù, –
Biết chứ! Bây giờ anh phải khai cho rơ, C1 ở
đây từ lúc nào? Thành phần c̣n lại của H
15 hiện nay ở đâu? Nghe
tôi hỏi, tên Việt-Cộng chợt ngẩn người
ra có vẻ suy nghĩ, băn khoăn. Một phút sau, y
chậm răi kể, với bộ điệu rất thành
thực, –
Đêm Hăm Chín tụi em đi đầu theo anh giao liên
dẫn đường. Vừa vượt qua xa lộ Vĩnh
Lộc th́ có một đoàn xe Mỹ chạy tới,
đoàn quân bị cắt ngang, đại đội em
đă vào tới Chợ Mới, nhưng toàn bộ
đại đơn vị c̣n bị kẹt trong
ruộng khoai ḿ và đồng cỏ tranh. Chúng em bị
mất liên lạc với tiểu đoàn từ đó.
Anh giao liên dẫn tụi em tới điểm tập
kết nơi ḷng một con suối, rồi giao tụi
em cho một cán bộ nằm vùng. Ông này dẫn
tụi em vào căn nhà dưới dốc để ém
quân chờ, căn dặn tụi em không được
tự ư nổ súng, không được đi đâu,
nếu ông ta chưa quay lại đón. Tụi em cứ
chờ măi cho tới sáng nay th́ bị tập kích. Quân
Cộng-Ḥa bắn rát quá, không chừa một tấc
đất nào. Tụi em không chống đỡ
kịp. Tất cả quân số của C 1 là hai mươi
ba người, chết hết, c̣n lại ḿnh em thôi! Em
nhờ có cái cối xay bằng đá che chở mà
sống sót. Đến lúc quân Cộng-Ḥa vào lục soát,
em chỉ c̣n cách giả chết để chờ cơ
hội thoát thân. Không dè bị buộc chân kéo lê trên
gạch đá, đau quá em đành phải ngồi
dậy tự thú! Nghe
xong lời khai của tên tù binh, tôi mới thấy ḿnh
quả là quá ơ hờ với cái vụ t́m hiểu
trận liệt, biên chế của địch. Đâu
ngờ, mẩu điện đàm ngắn ngủi mà tôi
t́nh cờ nghe được lại là cuộc đàm
thoại của đơn vị chủ công địch
nhắm vào thành phố Pleiku nhân dịp ngưng bắn
đầu năm. Chắc không ai biết chuyện
chuyển quân này của Việt-Cộng đâu! Mà dù có
biết cũng chẳng ai thèm để ư đề pḥng!
V́ ai cũng tin Tết này sẽ hưu chiến, Tết
này sẽ ḥa b́nh. Ta không bắn địch, địch
cũng không bắn ta. Có Ủy Hội Quốc Tế
đứng ra bảo đảm, khỏi lo lắng ǵ. Rồi
tôi lại nghĩ, nếu t́nh báo của ta không quá
ơ hờ, thượng cấp không quá ngây thơ tin
tưởng vào những lời hứa cuội của
kẻ thù, th́ tôi đă không nhận được
lệnh phải tập trung vũ khí của đại
đội, bỏ vào kho, khóa cứng lại! Khẩu
đội cối 60 ly của Trung sĩ Tánh vừa
tới, c̣n đang loay hoay kiếm vị trí đặt
súng. Binh nhứt Ngẫu, xạ thủ cối, hai tay ôm
cái bàn tiếp hậu trước ngực chờ
lệnh. Binh nh́ Nguyễn Sang chậm chạp dang hai chân
lấy thế, rồi từ từ hạ cái đ̣n gánh
tám quả đạn 60 ly xuống trước mặt tôi. Ngay
lúc ấy tôi chợt thấy ánh mắt người tù
binh như rực sáng. Rồi nhanh như cắt, anh ta
bật người dậy, chồm lên, lao vào giựt
khẩu Garant M1 trên vai Binh nh́ Sang! Tôi
sững người, vài giây sau mới kịp rút
khẩu Colt ra khỏi vỏ. Thật là khó can thiệp
khi hai người này cứ liên tục di động! Tên
Việt-Cộng và Binh nh́ Sang ra sức giằng co, giành
giựt khẩu súng. Giờ này thằng
Việt-Cộng đă trở nên vô cùng hung hăn, nó nhe răng
cắn lia lịa vào tay Sang, khiến anh này la lên “Oai oái!” Sẵn
trên tay cái bàn tiếp hậu, Binh nhứt Ngẫu, đă
nhanh trí, thẳng cánh nện một phát ngay đỉnh
đầu tên cán binh, cứu nguy cho Binh nh́ Sang! Thuở
đó cối 60 chưa có bàn tiếp hậu bằng nhôm.
Bàn tiếp hậu cối 60 được đúc
bằng sắt ṛng nên rất nặng, mặt sau th́
lồi lơm. V́ vậy, chỉ với một cú đập,
tên Việt-Cộng đă vỡ óc, ĺa đời. Sự
việc diễn biến nhanh tới mức không thể
tưởng tượng được! Tôi bị
bất ngờ đă đành, ông Donald c̣n sững người
hơn tôi. Ông ta cứ đứng ngớ ra như
vừa sực tỉnh một cơn mê lạ lùng. Binh
nhứt Trần Ty đưa cái ống liên hợp cho tôi.
Có lệnh của ông liên đoàn trưởng: Tôi
lấy làm ngạc nhiên v́, rơ ràng tôi vừa xuất phát
từ căn nhà sập, ở ngay trước cổng cái
trại Địa Phương Quân ấy để tràn
xuống dưới này, nay lại nói trong doanh trại
đó có địch? Chẳng lẽ cái trại ấy
đă bị Việt-Cộng chiếm rồi? Thế
là chúng tôi lại men theo đường cống thoát nước
trở lại khu nhà sập trên Ngă Tư Bưu Điện. Đại
úy Dzếnh đang lấp ló sau một gốc cây,
thấy tôi ông bèn ra dấu, –
Coi chừng! Trong đồn Bảo An có
Việt-Cộng. Chúng nó vừa bắn ra làm hai anh
Thiết Giáp bị thương.Trung tá liên đoàn trưởng
đang chờ ông bên hàng hiên đàng kia! Cái
đồn Bảo An này từ lâu là nơi đồn
trú của Đại Đội Yểm Trợ và Công Vụ
Tiểu Khu Pleiku, sau này nó mang tên Trung Tâm Yểm Trợ
và Tiếp Vận Tiểu-Khu cho tới ngày Pleiku bị
di tản, tháng Ba năm 1975. Trung
tá Dơng và nhóm cố vấn Hoa-Kỳ đang đứng
lố nhố sau mấy chiếc M113 đậu dọc
lề đường Hoàng Diệu, trước rạp
hát. Trong lúc tôi nói chuyện với Trung tá Dơng th́ Đại
úy Donald cũng trao đổi đôi điều ǵ
đó với nhóm cố vấn Mỹ. Cơ
ngơi của trại lính Địa Phương Quân này
rất rộng, nó được bao quanh bằng hai
lớp rào và một hệ thống công sự pḥng
thủ kiên cố. Phần đối diện với Ty
Bưu Điện là văn pḥng, cơ xưởng, kho tàng.
Phần đối diện với Ṭa Án Ḥa Giải là
cư xá sĩ quan và hội quán. Tôi đă có dịp
ăn, nghỉ ít lâu ở nhà một người quen
trong cư xá này nên rất thông thuộc đường
đi nước bước trong khu doanh trại này. Chỉ
có một con đường duy nhất để
tiến vào doanh trại là cổng chính. Hai bên cổng
chính là hai pháo đài, hiện đang bỏ trống. Tiểu
đội của Trung sĩ Nguyễn Hữu Có vừa
ào vào làm chủ cái lô cốt bên phải th́ tiểu
đội của Trung sĩ Đoàn Văn Lụa cũng
chiếm xong vọng gác bên trái, vọng gác này có
một khẩu đại liên 30. Tôi
chỉ nhảy vài bước là đă tới cái
ụ súng đại liên. Thường
ngày th́ khẩu súng cộng đồng này hướng
ra Ngă Tư Bưu Điện trên đường Hoàng
Diệu. Giờ này tôi cho ṇng súng quay ngược vào sân
cờ. Ông Đại úy Donald theo sát bên tôi. Ông đang lên
c̣ khẩu AK 47. Lúc c̣n ở dưới dốc Ḷ Heo, tôi
và ông Donald lựa cho ḿnh mỗi người một
khẩu AK chiến lợi phẩm, v́ chúng tôi chỉ có
súng ngắn. Tấn công mục tiêu mà có súng liên thanh
th́ vững tâm hơn nhiều. Lúc này th́ sau lưng ông
Donald có một hiệu thính viên Mỹ đi theo. Anh lính
Mỹ trẻ này được trang bị một máy
PRC 25 và một khẩu AR 15. Đi trận mà bộ
dạng chàng ta lại rất thong dong, thảnh thơi
như đang đi dạo phố. Hiện
thời tôi không biết địch nằm chỗ nào,
cứ đi lớ ngớ trong sân, có khi chết oan. Tôi
cho trung đội súng nặng và hai chiếc máy
truyền tin nằm lại cổng chính v́ sợ
rằng kéo nhau “bầu đoàn thê tử”, cần câu,
ăng ten, dềnh dàng th́ chỉ tổ làm mồi cho
B40! Vả lại, đánh nhau trong khu nhà cửa, doanh
trại, cứ dùng thủ lệnh, khẩu lệnh,
vừa nhanh lại vừa tiện. Thấy tôi làm
thế, ông Donald cũng ra dấu cho anh hiệu thính viên
Mỹ ôm cái máy PRC 25 ngồi lại trong vọng gác bên
cổng chính. Tôi
phân nhiệm vụ cho Trung Đội 3 vừa là thành
phần trừ bị, vừa trấn giữ con
đường xuống dốc Lao Xá Pleiku. Trung Đội
1 và 2 sẽ là lực lượng chủ công. Mặt
trời đă lên cao, nhưng toàn cảnh của doanh
trại như c̣n ch́m trong một giấc ngủ sâu. Im
lặng tới lạnh gáy, rợn người. Sau
mỗi ô cửa, sau mỗi lỗ châu mai có thể là
một họng RPD hay AK47 sẵn sàng nhả đạn.
Chúng tôi nhướng mắt, dỏng tai, thận
trọng từng bước, đi t́m Thần Chết. Sanh
không mang nón sắt, mà đội nón đi rừng, nên
cú té đập đầu đă làm anh ta đau
ngất ngư! Trung
sĩ nhứt Ngọ vừa đưa tay đỡ Ngô
Sanh, vừa càm ràm, “Tổ
cha mày! Cái thằng ăn hại!” Ngô
Sanh vừa xuưt xoa “Á! Á! Đau!” vừa lồm cồm
đứng lên, giơ tay phủi bụi dính áo
quần. Rồi lớ quớ làm sao, ngón tay của chàng
ta lại móc ngay vào c̣ khẩu Thompson đang đeo trước
ngực! Thế
là “Pằng! Pằng! Pằng!…” đạn nổ liên
thanh! Thompson là thứ súng nhạy c̣ nhứt, nhiều
khi chỉ cần nện mạnh báng súng trên nền
đất là cơ bẩm đă thụt xuống, đạn
tuôn ra cả tràng. Cũng may, mười mấy viên
Thompson của Ngô Sanh đă bay hết vào tường mà
không trúng ai! Ông
Ngọ chưa kịp la hét, đá đít anh lính
bất cẩn th́ bất th́nh ĺnh, súng đạn
nổ ran tứ phía! “Bùm!
Bùm! Đùng! Đùng! Oành! Oành! Chíu! Chíu!…” Đủ
mọi thứ tiếng nổ! Đại liên, trung liên, AK,
thủ pháo, chớp nhóa, chói ḷa, bụi khói khét
lẹt, chỗ nào cũng có địch! Đâu
ngờ tràng đạn cướp c̣ của Binh nh́ Ngô
Sanh đă vô t́nh trở thành hiệu lệnh cho địch
khai hỏa! May
mắn là chúng tôi mới xuất phát, chưa lún sâu
trong vùng địch kiểm soát nên thiệt hại chưa
có ǵ đáng kể. V́
địch đă lộ diện, nên tôi quyết định
cho quân ḿnh khoanh vùng, tiến chiếm từng phần
của mục tiêu, thay v́ ào lên một lượt. Hai
cánh quân của ông Ngọ và ông Khôi giữ hàng ngang,
rồi thận trọng tiến chiếm từng nhà,
từng ụ súng. Hướng
Đông với nhiều lô cốt có mái che nên việc
tiến quân rất vất vả và nguy hiểm. Vừa
chiếm xong cái lô cốt đầu tiên, Trung Đội 1
đă bị chận lại bởi một khẩu thượng
liên đặt trên vọng gác Tây Nam của doanh
trại; ít nhứt cũng năm, sáu Biệt Động
Quân đă bị cây súng liên thanh này đốn ngă. Tôi
nghĩ rằng cái cḥi gác này rất cao, người
ngoài đường cũng trông thấy, nên chạy ra
cổng chính nhờ chiếc M113 có khẩu 106 ly giúp
một tay. Quả
đúng như tôi dự trù, người nào đứng
tại Ngă Tư Bưu Điện đều có thể nh́n
rơ mồn một những tia lửa phát ra từ
khẩu RPD trên vọng gác kia. Chỉ cần hai quả
106 ly là cái cḥi gác biến mất. Muốn
tiến chiếm các lô cốt và khu cơ xưởng,
chúng tôi phải di động liên tục. Vào tới
đây rồi th́ ai cũng phải đánh nhau, bất
kể là quan hay lính. Tôi, ông Donald và Trung sĩ Có
hợp thành một tổ ba người. Ông Donald
giữ nhiệm vụ gh́m khẩu AK 47 bảo vệ cho
tôi và Có luân phiên đánh lựu đạn. Thanh
toán xong cái lô cốt giữa sân cờ, cả đại
đội ḥ reo xung phong lên khu cơ xưởng
sửa chữa quân xa và hội quán. “Ùm!
Ùm!…Oành! Oành!…” Lựu đạn của ta, thủ
pháo của địch đua nhau ném qua, ném lại;
trung liên, tiểu liên th́ nổ đùng đùng không
dứt! Hai lỗ tai tôi lùng bùng như sắp điếc
đặc tới nơi! Tới
đầu dăy nhà chứa xe, trong đám bụi khói mù
mịt, thay v́ chạy theo tôi về bên trái, th́ ông
Donald lại chạy theo Trung úy Rạng rẽ sang bên
phải, nơi đây có cái cổng sắt dẫn sang
cư xá sĩ quan. Bất
ngờ, tôi thấy B 40 phụt lửa chói ḷa, cùng
tiếng súng liên thanh “Cành! Cành!” phát ra từ nóc
một lô cốt lộ thiên nơi đầu nhà
chứa vật liệu xây dựng. Đây là một ổ
đại liên 30 và B 40! Tai tôi nghe tiếng đạn B
40 nổ, cùng lúc mắt tôi nh́n thấy Trung úy Rạng
và ông Donald loạng choạng, chúi người vào nhau,
gục trên nền đất. Phải nhảy hai bước
dài, tôi mới tới sát cái bờ tường
chất bằng bao cát có họng súng đang nhả
đạn liên thanh. Một quả MK3, tiếp theo là
một quả M26 được rút chốt. Không
cần kiểm soát lại kết quả của hai trái
lựu đạn, tôi phóng tới bên ông Donald và Trung
úy Rạng. Ông Donald nằm gục mặt trên sân, cái nón
sắt bị bắn toác nửa phần sau gáy, mặt
ông đầy máu, ngực ông đầy máu, vai ông
đầy máu, người ông chỗ nào cũng có máu! Tôi
lắc lắc vai ông, “Donald!
Donald! Donald!” Bạn
tôi không nghe được tiếng tôi gọi! Bạn
tôi nằm bất động! Bạn tôi đă chết
rồi! Bên
cạnh Đại úy Donald Allen Evans, Trung úy Lưu Danh
Rạng nằm co quắp như một con tôm. Nửa
mặt anh cùng với cái nón đi rừng đă bị
bắn bay đi đâu mất, ngực anh máu c̣n phun ph́
ph́! Anh Rạng và ông Donald, mỗi người ít ra cũng
lănh trên mười vết thương! Tôi
đau buồn từ từ đứng dậy, giơ
tay ra dấu gọi Trung sĩ Có, tính chuyện cho người
đỡ xác ông Donald và xác anh Rạng ra ngoài. Đâu
ngờ, “Toác! Toác! Toác!…” tai tôi vừa nghe tiếng
nổ th́ bên sườn phải của tôi đă
bị vật ǵ đó xuyên vào! Viên đạn AK 47 không
trúng cái báng súng mà tôi đeo bên hông, viên đạn
không chạm chiếc áo giáp mà tôi đang mặc, viên
đạn chui vào ngay cái khe nằm giữa hai mảnh
giáp hộ thân! Người
tôi bỗng nhẹ tênh! Không thể giữ nổi thăng
bằng trên đôi chân, tôi đành gục xuống!
Trung sĩ Có nhảy tới đỡ tôi. Rồi Có cũng
ôm ngực, gục xuống theo tôi! –
Trung úy bị thương rồi! Thằng Có cũng
bị thương rồi! Tụi bay vác Trung úy và
thằng Có ra ngoài đường mau lên! Mau lên! Súng
tiếp tục nổ ran cùng tiếng la “Xung phong! Xung
phong! Biệt Động Sát! Biệt Động Sát!…” vang
vang, ồn ào, hỗn loạn… Một
người lính vừa d́u tôi vừa chạy, gần
tới cổng th́ quỵ xuống; anh ta bị trúng
đạn vào lưng! “Long!
Long! Don’t worry! Don’t worry! I’ll help you!” (Long!
Long! Đừng lo lắng! Đừng lo lắng! Tôi sẽ giúp
anh!) Người
mới la lên là Trung úy Bailey, Cố Vấn của
Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân. (Tôi không nhớ
First Name của Trung úy Bailey.) Bailey
đă có mặt kịp thời, anh dang hai tay đỡ
tôi dậy, rồi phóng thật nhanh ra đường.
Sau lưng anh, đạn đại liên của địch
“Chíu! Chíu! Chíu!…” đuổi theo! Ra
tới chỗ an toàn, Bailey đặt tôi xuống
vệ đường. Tôi thấy ngực ḿnh nặng
vô cùng, không thể thở. Bailey cởi cái áo giáp
của tôi ra, vứt bên vệ đường, rồi
xé luôn cái áo hoa tôi đang mặc để t́m vị
trí viên đạn đă chui vào. Anh quỳ bên tôi, hai bàn
tay x̣e rộng. Anh để hai tay trên ngực tôi,
rồi nhấn xuống, nhả ra, làm hô hấp nhân
tạo, giúp tôi thở dễ hơn. Mỗi khi tay Bailey
đè xuống, máu tôi lại phun ra, khi Bailey nhả tay
ra, máu lại chạy ngược vào lồng ngực! Lúc
sau tôi đă thở dễ dàng trở lại. Bailey trao
tôi cho Ban Quân Y của liên đoàn. Y tá không dám bịt
miệng vết thương lại, v́ sợ máu ứ
trong lồng ngực. Tôi nằm nghiêng bên phải, máu
tiếp tục tuôn ra, máu tràn xuống mặt đường. Nghe
tin tôi bị thương, Trung tá Dơng vội chạy
tới. Ông quỳ xuống bên tôi, cầm tay tôi, ông
dịu dàng, –
Long ơi! Long ơi! Em không sao chứ? Trung
tá Hồ Hữu Dơng xưa nay thường nói năng
cộc lốc, không văn hoa, không t́nh cảm. Vậy
mà hôm nay, lần đầu thuộc cấp nghe ông
gọi một sĩ quan dưới quyền bằng
đại danh từ “Em”, thiết tha như thể là
ông ta đang gọi đứa em ruột thịt
của ḿnh. Sau
khi mồi cho tôi một điếu x́ gà, Trung tá Dơng
gọi Thiếu tá Thi tới và ra lệnh, Lúc
Đại úy Tánh (Thiết Giáp) bắt đầu công tác
phun lửa đốt khu doanh trại Địa Phương
Quân th́ tôi được xe cứu thương
đưa về Quân Y Viện Pleiku. Người
ta đưa thẳng tôi vào Pḥng Chụp X Quang mà
chẳng qua thủ tục nhập viện nào cả. Sau
đó tôi được chuyển về Ngoại Thương
2. Người
chỉ huy Ngoại Thương 2 là Trung úy Y sĩ Lê Văn
Thới. Ông xem xét tấm h́nh chụp viên đạn
rồi gật gù, –
Không mổ được! Viên đạn nằm sát trái
tim. Mổ láng quáng chạm phải trái tim th́ phiền!
Cứ để viên đạn nằm đó, ít lâu sau
mỡ sẽ bọc quanh nó như cái kén của con
tằm. Thế là
yên! Pḥng
sĩ quan có bốn cái giường. Tôi nằm ở giường
số 3. Giường số 4 c̣n để trống. Có
hai ông Thiết Giáp nằm sẵn trong pḥng này trước
khi tôi nhập viện, đó là Trung úy Triết Chi Đoàn
Trưởng 1/3 Chiến Xa và Thiếu úy Tài Chi Đoàn Trưởng
2/3 Thiết Vận Xa. Đêm qua hai ông Thiết Giáp này
đều bị Việt-Cộng bắn cháy xe, một
ông găy tay, một ông phỏng nặng. Đại đội
trưởng Biệt Động Quân và Chi đoàn trưởng
Thiết Giáp cùng trực thuộc lực lượng
trừ bị của Vùng 2 th́ chẳng lạ ǵ nhau, nên
ba chúng tôi gặp nhau mà chẳng cần phải tự
giới thiệu dài ḍng. Nằm
trong pḥng dành cho sĩ quan được một ngày, tôi
thấy ngột ngạt khó thở quá, nên xin Bác sĩ
Thới cho tôi ra pḥng ngoài. Sáng
Mùng Hai tôi nhờ hai y tá chuyển chiếc giường
bệnh của tôi qua khu dành cho hạ sĩ quan và binh sĩ.
Pḥng này tuy ồn ào, lộn xộn, nhưng rộng răi,
thoáng đăng và vui vẻ hơn. Binh
nhứt Phạm Công Cường nằm trong Ngoại Thương
3 đă nghe tin tôi bị thương nên t́m tới thăm.
Cường cho tôi hay số người bị thương
nhập Quân Y Viện Pleiku đă quá mức chứa, do
đó phải chia sẻ bớt cho Quân Y Viện Qui Nhơn,
và Chinook Mỹ đă đem ông Chuẩn úy đi từ
chiều Mùng Một Tết rồi. Ngày
đó, tôi chỉ tiếp xúc với ông Chuẩn úy Khóa
25 Thủ Đức này có vài phút, tên tuổi của ông
ấy tôi quên mất rồi! Tới nay, tôi chỉ c̣n
nhớ rằng ông ta bị cận thị nặng,
cặp kính trắng hơi dầy. Ông ấy có phong thái
của một nhà mô phạm hơn là một ông
Biệt Động Quân. Tôi hy vọng rằng, bài viết
này sẽ tới tay ông; hy vọng hiện nay ông c̣n
sống, và c̣n nhớ tới cái đơn vị
Biệt Động Quân mà ông đă phục vụ trong
thời gian vừa đúng một ngày. Tết
Mậu Thân có ba ngày hưu chiến, vậy mà tính
từ Giao Thừa cho tới trưa Mùng Một, thời
gian chưa qua một ngày, mà đơn vị tôi đă
có gần hai chục người vừa chết,
vừa bị thương, cả Trung úy Rạng và tôi
đều bị loại ra ngoài ṿng chiến, chỉ c̣n
ông Thượng sĩ Nguyễn Em là người mang
cấp bậc cao nhứt; đại đội tôi
thực sự đă thành một đơn vị
“mồ côi”. Tổng
Công Kích Tết Mậu-Thân 1968 của Việt-Cộng
đă gây nên biết bao cảnh chết chóc, hoang tàn,
đổ nát khắp Miền Nam. Dă man nhứt là
cuộc thảm sát ở Huế, nơi đây
Việt-Cộng đă xử tử hàng ngàn người
dân vô tội rồi chôn vùi thân xác họ trong
những ngôi mồ tập thể. Trong
cuộc chiến tranh Việt-Nam Thế Kỷ 20 vừa
qua, quân dân Miền Nam đă quá nhân từ, cả tin,
dễ dăi và ơ hờ, trong khi đó người
Cộng-Sản lại vô cùng gian manh, dă man và xảo trá. Chúng
ta đă bị địch lừa gạt, nên cứ tin
tưởng vào những viễn ảnh ḥa b́nh của
Hiệp Định Geneve năm 1954, rồi Hiệp Định
Paris năm 1973; kết quả sau cùng, chúng ta phải
trả giá là ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975
Miền Nam hoàn toàn sụp đổ. Thấm
thoắt đă nửa thế kỷ trôi qua, trong
lồng ngực của tôi, cái đầu đạn AK
47 vẫn nằm yên bên cạnh trái tim, và mỗi khi
trở trời, tôi lại cảm thấy râm ran cả
một vùng da bụng quanh nơi viên đạn chui vào. Mộ
bia của anh Rạng th́ không biết có c̣n không? V́ sau
ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975 nghĩa trang
của những người thua trận đă trở thành
hoang phế. C̣n
ông Donald, sau lần hát “The Star” cho tôi nghe trên đồi
Holloway, đă không c̣n hằng đêm ngóng về
một v́ sao, nhớ quê. Ông đă yên giấc ngh́n thu
trên đất nước của ông rồi. Đêm
đêm, trong khu Vietnam Veterans Memorial ngay giữa ḷng
thủ đô Washington D.C của Hoa-Kỳ, bức tường
đá đen nh́n giống như một khung trời sâu
thăm thẳm, trên đó những cái tên sơn màu
trắng, cũng lập ḷe, lấp lánh như những
v́ sao trên trời. Tên ông đă được khắc
sâu trong ḷng đá. Với người dân Hoa-Kỳ th́
cái tên Donald Allen Evans đă thành bất tử! Và
riêng tôi, mỗi năm vào dịp Xuân về, tôi đều
nhớ tới người bạn vong niên của ḿnh,
nhớ câu chúc Tết trọ trẹ, lơ lớ
bằng tiếng Việt: “Chúc
mừng năm mới!…” Tiếp
đó là h́nh ảnh ông nằm sơng soài trên nền
đất, máu đỏ đầy ḿnh, lặng thinh không
trả lời tôi réo gọi bên tai, “Donald! Donald!
Donald!” Có
những chuyện xảy ra trong đời, v́ quá bi thương,
nên người ta muốn quên đi, nhưng không làm
sao quên được! Có những điều, người
ta muốn kể lại, nhưng vừa mở miệng,
đă nghẹn lời! Măi
năm mươi năm sau ngày ấy, tôi mới
viết lại chuyện này được trọn
vẹn, v́ trước đây, mỗi lần bắt
đầu câu chuyện, tôi lại thấy mắt ḿnh
cay cay, không biết làm cách nào để có thể ngăn
đôi gịng lệ tuôn rơi, nên đành gác bút. Vương
Mộng Long-K20 Seattle
một ngày đầu Xuân 2018 |