MỘT
CUỘC CHIẾN TRANH CỦA CÁC ANH EM HỌ NỔI
GIẬN “Hành
Động Trừng Phạt” Của Trung Quốc Trên
Việt Nam Có Các Hàm Ư Toàn Cầu Ngô Bắc dịch |
Ngô Bắc là bút hiệu của Ngô Ngọc Trung
Đồng Đăng, Lạng Sơn. Các địa
danh Việt Nam nghe ngắn gọn nhưng giầu
nhạc điệu, gợi nhớ lịch sử, máu và
tử thần. Tại thành phố trạm ga xe
hỏa tiếp tế Đồng Đăng, một
cổng màu vàng 30 bộ Anh (feet) đánh dấu cuộc
xâm lăng của Nhật vào Đông Dương trong năm
1940, sự kiện đă thúc đẩy lời thề
thốt có lẽ giả trá của Tổng Thống
Franklin Roosevelt rằng “chúng ta sẽ không đi đến
chiến tranh v́ bất kỳ một Ding Dong chết
tiệt nào”. Tại Lạng Sơn, một thị
trấn thị trường đông đúc cách chín
dậm về phía đông nam, một ngọn núi có
đỉnh h́nh núm vú mà các binh sĩ thực dân đặt
tên là “vú nam tước phu nhân” trông xuống các
phế tích của một pháo đài bị phá hủy
ngay trước khi có cuộc chiến tranh của
Việt Minh chống lại người Pháp. Tuần qua Đồng
Đăng và Lạng Sơn đă một lần
nữa biến thành các băi chiến trường
thống khổ. Trong một cuộc chiến tranh
leo thang giữa các láng giềng Công Sản tức
giận và các nền văn hóa đối nghịch nhau
trong 2,000 năm, ba sư đoàn các binh sĩ xâm lăng
Trung Quốc đă đổ xuống Đồng
Đăng và đồng bằng duyên hải Việt
Nam ở phía đông trong các gọng ḱm khổng lồ
nhắm vào Lạng Sơn. Các tiểu đoàn quân
chính quy Việt Nam kéo theo các vũ khí nặng dồn lên
phía bắc để đối đầu với chúng
và nhất thiết đưa đến một sự
đụng độ có thể là trận đánh
lớn đầu tiên của cuộc chiến tranh kéo dài
một tuần. Để chuẩn bị, Trung
Quốc đă tung ba sư đoàn mới chống
lại các toán quân pḥng vệ Việt Nam đang
tiến bước. Vào cuối tuần, các lực
lượng Việt Nam đă phóng ra một cuộc
phản công tại ba tỉnh biên giới.
Trong khi đó, các tàu chuyên
chở của Sô Viết đang bốc dỡ các đồ
tái tiếp tế các trang cụ tinh vi, kể cả các
hỏa tiễn và thiết bị radar. Sự thám thính
của Sô Viết tiếp tục canh chừng các
tuyền đầu của chiến trường với
các phi vụ ở cao độ trên Vịnh Bắc
Việt. Một hạm đội 13 tàu Sô Viết
tuần tiểu trên Biển Nam Trung Hoa, chờ đợi
sự đến nơi của chiếc soái hạm
của Hạm Đội Thái B́nh Dương Sô
Viết, một tuần dương hạm 16,000 tấn,
chiếc Admiral Senyavin. Tại Moscow, Bộ Trưởng
Quốc Pḥng Sô Viết Dmitri Ustinov đả kích
“sự khiêu khích nguy hiểm” của Trung Quốc và
tố cáo Bắc Kinh về việc toan tính “đẩy
thế giới vào một cuộc chiến tranh”.
Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đă
chuẩn bị để nhóm họp trong một khóa
họp khẩn cấp, theo lời yêu cầu của Hoa
Thịnh Đốn, để thảo luận về
cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam cũng
như cuộc xâm lăng trước đó của
Việt Nam vào Căm Bốt. Cuộc tấn công của
Trung Quốc vào Việt Nam đă được chờ
đợi và được quảng cáo sâu rộng.
Các sự căng thẳng luôn được tăng cường
kể từ khi có sự trục xuất cưỡng bách
người gốc Hoa từ mùa xuân trước,
cuộc đánh đuổi chớp nhoáng của
Việt Nam chế độ chư hầu của
Bắc Kinh tại Căm Bốt trong tháng trước, và
một loat gia tăng các biến cố tại biên
giới Trung-Việt.. Phó Thủ Tướng Đặng
Tiểu B́nh đă gửi tín hiệu nhiều lần và
công khai về trận đánh trong cuộc thăm
viếng Hoa Kỳ của ông ta trong tháng này, sỉ
vả các tham vọng “bá quyền” của “con
gấu bắc cực” Sô Viết và sự “xâm lược”
của Việt Nam tại Đông Nam Á. Hà Nội
“phải được dạy cho một bài học
cần thiết”, ông ta đă cảnh cáo. Tại
Tokyo trên đường về, họ Đặng
một lần nữa đă nói một cách mạnh
mẽ về “hành động trừng phạt”
chống lại “bọn Cuba đó ở Phương
Đông”. Xem xét các lời hứa
hẹn của Bắc Kinh với nguyên giá trị
của chúng, các chuyên viên t́nh báo Tây Phương đă
tiên đoán rằng cuộc tấn công của Tr8ng
Quốc sẽ được giới hạn trong
một “bài học trừng phạt”, và một khi
sự trừng phạt đă được ban ra, các
binh sĩ sẽ triệt thoái. Nhưng tại các
thủ đô quanh thế giới, đă có các sự rùng
ḿnh về các hàm ư toàn cầu đáng ngại nếu
cuộc chiến tranh không bị ngặn chận và rút
ngắn, nếu nó sẽ khiêu khích sự can thiệp
hay sự trả đũa trực tiếp của Sô
Viết nhân danh chư hầu Việt Nam của họ.
Đó là thời cực thịnh của các kẻ hay báo
động. “Tôi đánh cược rằng nó
sẽ không xảy ra – nhưng chúng ta đang ở
trong t́nh trạng vô cùng nguy hiểm của một
cụộc thế chiến thứ ba: nó có thể
khởi sự vào lúc này”, Thượng Nghị Sĩ
Tiểu Bang New York Daniel Moynihan đă cảnh cáo. Các
cố vấn chính quyền và các nhà chiến lược
quân sự th́ ít lo ngại hơn, nhưng không ai
chuẩn bị để phủ nhận rằng
cuộc chiến tranh mới nhất của thế
giới đă chứa đựng tiềm năng cho
một trận cháy lớn mở rộng hơn
nhiều, và ngay cả không thể kiểm soát
được. Sự giao tranh, tại các ngọn đồi cây gỗ
và các thung lũng canh tác của một vùng ngoạn
mục được gọi là Việt bắc, đă
được che đậy đàng sau sự bí
mật quân sự ở cả hai bên và bởi một
lớp mây bao phủ ngăn trở sự quan sát
của vệ tinh. Hà Nội đă đưa ra các
bản thông cáo báo chí có lợi cho ḿnh thường
lệ, các sự loan báo của Bắc Kinh th́ quá kín
đáo đến nỗi vô nghĩa. Một nhà quan
sát Hồng Kông có nói: “Sự việc giống như
hai con mèo kêu la trong đêm tối – chúng đang
tạo ra một sự ồn ào quá mức, nhưng
bạn không biết là chúng đang đánh nhau hay đang
làm t́nh”. Từ lúc khởi đầu các
chiến sự, tuy nhiên, mọi điều quá hiển
nhiên rằng các đơn vị tuyến đầu
của lục quân 3 ½ triệu lính khổng lồ
của Trung Quốc và những đơn vị tiền
tuyến của 615,000 binh sĩ nhỏ hơn nhưng rât
thiện chiến của Việt Nam đă không ôm
chầm lấy nhau. Vào rạng sáng ngày Thứ
Bẩy 17 Tháng Hai, các lực lượng của Trung
Quốc, tập trung hơn 300,000 quân phía bắc
Việt Nam tại các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây,
đă phóng ra một hàng rào pháo binh ồ ạt trên các
vị trí biên giới then chốt. Bị pháo
nặng nhất là các khu tập trung người
Việt quanh các thành phố Lào Cai, Mường Khương,
Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng Cái. Quân Đội
Nhân Dân Giải Phóng [Trung Quốc: QĐNDGPTQ], không
được thử thách trong chiến tranh với
đội h́nh to lớn kể từ khi nó băng ngang
sông Áp Lục hồi Tháng Mười 1950 từng gây
bất ngờ và đánh đuổi các lực lượng
của Liên Hiệp Quốc tại Triều Tiên, đă
đổ tràn qua biên giới ở 26 địa điểm
khác nhau. Sự tuyên chiến đă
được đưa ra trong một lời loan báo rơ
ràng không thành thực của Bắc Kinh rằng các
lực lượng của nó đă tham gia vào một
cuộc “hoàn kích” chống lại các sự khiêu khích
của Việt Nam. “Các lực lượng biên
giới Trung Quốc đă hành động khi t́nh
trạng trờ nên không thể chịu đựng
nổi và đă không có sự lựa chọn nào khác”,
Tân Hoa Xă chính thức tuyên bố như thế.
“Chúng tôi không ham muôn một tấc đất của
Việt Nam. Những ǵ chúng tôi muốn có là
một biên giới ổn định và ḥa b́nh.
Sau khi đánh trả các kẻ gây hấn đến
mức cần thiết, các lực lượng biên pḥng
của chúng tôi sẽ quay về để canh gác nghiêm
ngặt các biên cương của tổ quốc chúng tôi”. Vào 9 giờ sáng ngày Thứ Bẩy, các viên đạn
súng cối rơi xuống gần Lạng Sơn, theo
một phóng viên của Pháp Tấn Xă (AFP (Agence
France-Presse) có mặt tại chỗ. Ở phía
bắc, các đạn pháo hạng nặng có thể
được nghe thấy mỗi 10 đến 30 giây.
“Các binh sĩ Trung Quốc đă phóng ra một
cuộc tổng tấn công, mọi đồn biên
giới đều bị pháo vởi trọng pháo”,
một viên chức cấp tỉnh Việt Nam loan báo.
“Cuộc giao tranh đẫm máu đang xẩy ra, các
tổn thất nhân mạng chắc chắn lên cao”.
Một binh sĩ Việt Nam 18 tuổi tên Triệu Văn
Miên [?] bị thương, kẻ đă lảo đảo
đi về thị trấn và ngă trên đường,
đă nói: “Quân Tàu gần sát đây, chúng có mặt
mọi nơi”. Sau khi trải tâm thảm
bằng đạn pháo binh để làm suy yếu
sự pḥng thủ của Việt Nam, một quân số
ước lượng khoảng 60,000 lính đă
tiến bước trong một đợt sóng lớn
dọc theo biên giới 480 dậm lởm chởm.
Bộ binh, được hỗ trợ bởi các xe tăng
T-59, đă gắng sức xuyên qua các ngọn đèo
của địa thế núi đồi, gồ ghề,
đánh vỡ các tiền đồn Việt Nam và
tỏa ra thành một tuyến tiến quân trải
rộng, có phối hợp, sâu vào khoảng sáu dậm.
Theo sự thú nhận của chính Hà Nội, phía Trung
Quốc sau hai ngày đă chiếm cứ mười
một thị trấn và các làng xă và đă bao vây
Đồng Đăng với xe tăng và các súng
tự động. Sau đó họ xem ra đang
ngừng nghỉ. Các binh sĩ và các xe chở hàng, trên
mo6t. đường chen chúc gần Lạng Sơn, đi
lên hướng bắc để pḥng vệ Đồng
Đăng chống lại quân Trung Quốc xâm lăng.
Các binh sĩ với đại bác 130 ly bắn vào
các vị trí của Trung Quốc trong những ngày đầu của
cuộc chiến tranh
Bộ binh Việt Nam đang giúp băng bó một
chiến hữu bị thương gần Lạng Sơn
Tại Bắc Kinh, họ
Đặng đoan chắc với một nhà ngoại
giao Á Căn Đ́nh đang thăm viếng rằng
cuộc xâm lăng sẽ “thận trọng” và
“sẽ không được kéo dài hay mở rộng
trong bất kỳ cách nào”. Lời tuyên bố
đó xem ra để xác nhận sự giải thích sơ
khởi của Tây Phương về mục đích
khả hữu của Trung Quốc: một cuộc công kích
mau chóng, đánh và chạy, và sau đó quay về nước.
Nhưng phía Tr8ung Quốc chưa sẵn sàng để
triệt thoái. Vào điểm này, binh sĩ xung kích
Trung Quốc, chỉ huy bởi Tướng Dương
Đắc Chí, tư lệnh phó chiến trường
của Trung Quốc trong Chiến Tranh Triều Tiên, chưa
quần thảo một cách trực tiếp với quân
chính quy thiện chiến của Việt Nam – được
thử thách bởi chiến trận qua các chiến
dịch liên tiếp chiến thắng tại Việt
Nam, Lào, và Căm Bốt, và được trang bị
với chiến cụ Sô Viết tinh vi mới nhất.
Được báo trước
một cách quá đầy đủ, phía Việt Nam
đă để các lực lượng biên pḥng
cấp vùng và dân quân làng xă địa phương
đảm nhận mũi giùi của cuộc tấn công
sơ khởi. Một số ước lượng
ba đến năm sư đoàn chính quy (ít nhất
30,000 binh sĩ) đă được giữ lại.
Họ rơ ràng được dàn trải trong một
tuyến pḥng thủ h́nh lưỡi liềm từ Yên
Bái trên sông Hồng ở phía tây đến Quảng Yên
trên bờ biển phía đông. Nhiệm vụ
của họ: pḥng thủ đồng bằng duyên
hải bao quanh Hà Nội và Hải Pḥng, và chờ đợi
quân Trung Quốc đến để ra tay. Vào hôm Thứ Ba, ngày thứ
tư của cuộc chiến, đoàn quân tiền phương
của Trung Quốc đă tái tục với một
sự phục thù. Một mặt trận xem ra không
có đội h́nh đă mau chóng khai triển hai mũi
hợp lư, chính yếu của cuộc công kích: một
tại vùng tây bắc trên đường hỏa xa theo
hướng nam dẫn đến Hà Nội, mùi kia ơ”
phía đông trên một đường nối hỏa
xa song song với Quốc Lộ 1, một con đường
lớn như cuống họng từ Ải Hữu
Nghị. Cả hai mũi tấn công rơ ràng nhắm
trực tiếp vào thủ đô của Việt Nam.
Cùng lúc, một đơn vị trợ lực Trung
Quốc, các đơn vị xung kích của một
đoàn quân hơn ba sư đoàn khác, đă thăm ḍ
hướng bờ biển cho một mũi thọc vào
sườn khả dĩ nhằm cắt đứt
Quốc Lộ số 4 đến Lạng Sơn, và sau
đó, có lẽ nhắm vào tuyến tiếp tế và tăng
viện chính yếu của Việt Nam tức Quốc
Lộ 1, con đường nhiều năm trước
đây đă giành được biệt hiệu đau
khổ, “con đường không niềm vui”. Tại phía tây, khi đông
đảo đoàn quân công kích Trung Quốc đẩy
gấp đôi sự xâm nhập của nó sâu đến
10 hay 15 dậm, bộ binh của QĐGPNDTQ đă
chiếm cứ Lào Cai, một trung tâm hỏa xa có 100,000
dân cư trên sông Hồng. Để đối phó
với sự đe dọa vào Hà Nội này, quân
Việt Nam đă tiến lên phía bắc để giao
chiến với quân Trung Quốc tại Lạng Sơn và
Đồng Đăng. “Vài ngh́n quân của cả
các đơn vị địa phương quân và chính
quy Việt Nam với vũ khí nặng đang tiến bước
đến các vị trí quân Trung Quốc”, một thông
tín viên cho tờ Asahi Shimbun tại Tokyo đă tường
thuật từ Lạng Sơn. Ông đă mô tả các
xe vận tải Việt Nam với súng 105 ly lăn bánh
về phía bắc Quốc Lộ 1; các chiếc xe khác
chuyên chở các binh sĩ, vũ khí, đạn dược,
và nhiên liệu đến biên giới. Trong khi
đó, dưới hỏa lực của các đại
bác 130 ly tầm xa, các đoàn dân tỵ nạn chạy
trốn về phía nam, để lại Lạng Sơn
cho các binh sĩ, cán bộ an ninh và viên chức chính
quyền, các kẻ chen chúc quanh các khu vực giao tranh. Các người tỵ nạn trên khúc
đường giữa Đồng Đăng và
Lạng Sơn
Chiếc cầu biên giới bị
bỏ trống không trên sông Hồng tại Lào Cai
Đài phát thanh Hà Nội khua vang rằng quân pḥng
thủ của Việt Nam tại Lạng Sơn đă gây
ra hơn 3,000 sự tổn thất cho Trung Quốc và
rằng chỉ trong một trận đánh ở bờ
biển 50 dậm phía đông nam, các lực lượng
Việt Nam đă “đánh bại ba tiêu đoàn và
loại trừ 700 quân xâm lược Trung Quốc.
Tổng cộng, Việt Nam loan báo, các lực lượng
của Việt Nam đă hạ sát từ 5,000 đến
8,000 lính Trung Quốc trong năm ngày, trong khi chỉ
tổn thất chưa tới phân nửa. Các
sự tuyên xác thiên lệch một chiều làm nhớ
lại “số xác đếm được” của
địch quân xâm nhập được tŕnh bày lưu
loát mỗi ngày bởi các thuyết tŕnh viên Hoa Kỳ
trong thời kỳ Chiến Tranh Việt Nam. Các
nguồn tin Tây Phương tại Bắc Kinh đă
ước lượng rằng phía Việt Nam đă
phải gánh chịu nhiều nhất trong cuộc giao
chiến ban đầu: 10,000 bị chết hay bị thương,
so với 2,000 đến 3,000 số tổn thất
của Trung Quốc. Phía Việt Nam đă dễ
dàng qua mặt Bắc Kinh trong việc tuyên truyền
nếu không phải trên chiến trường.
Họ đă đưa ra các sự cáo giác độc
địa hành vi của Trung Quốc, kể cả các
sự tàn ác và chiến tranh sinh học được
cáo giác. Đài phát thanh Hà Nội tuyên bố
rằng các máy bay Trung Quốc đă bỏ bom các cơ
xưởng, các nhà máy điện, và các trung tâm giao
thông, gây ra sự tổn hại “kinh khiêp’ và sự
tổn thất các thuờng dân, và rằng pháo binh Trung
Quốc đă bắn “các đầu đạn hóa
học” tại các mục tiêu biên giới.
Hậu thuẫn cho đồng minh của ḿnh, Liên Bang Sô
Viết (LBSV) tố cáo các binh sĩ Trung Quốc đă
thiêu hủy các làng xă và bắn các phụ nữ và
trẻ em một cách bừa băi. Báo Pravda, trong
một tin điện từ Lạng Sơn, tố giác
rằng một đơn vị Trung Quốc đă
chặn một xe buưt thường dân trên một
đường làng và đă hạ sát tất cả các
hành khách. Hà Nội cũng tuyên bố
rằng nó có bằng chứng vững chắc về
việc hoạch đinh từ lâu của Bắc Kinh cho
cuộc xâm lăng. Các kư giả đặt cơ
sở tại thủ đô, được đi trong
một chuyến đi có hướng dẫn đến
tiền tuyến, được nh́n thấy các
quyển sách ghi các câu nói bằng tiếng Việt t́m
thấy trên thi thể của binh sĩ Trung Quốc
bị chết. Trong số các đồ vật khác,
một tập sách nhỏ tám trang chứa đựng các
chỉ dẫn sẽ được đưa ra cho các
tù binh Việt Nam (“Bạn sẽ được
dẫn đến nơi an toàn và được phép
nghỉ ngơi. …Đừng lo sợ. Vết thương
của bạn sẽ được chữa trị
tức thời.”) Một xe chuyên chở binh sĩ Trung
Quốc, gần Quế Lâm, tham gia vào sự tăng cường
trtước khi có cuộc xâm lăng. Giống như các
con mèo kêu gào trong đêm, nhưng các đội quân
đă không sấn vào nhau
Ng̣i nổ bên dưới
sự bùng nổ Trung-Việt được bơm hơi
trong gần một năm. Mùa xuân trước, ư
định về việc củng cố cuộc-cách-mạng-xă-hội-chủ-nghĩa-của-ta-tinh-khiết-hơn-là-của-chúng-bay,
các nhà cầm quyền Việt Nam đă quyết định
nhổ bật rễ “tư sản mại bản” và
“các phần tử nguy hiểm”, tức các người
gốc Hoa đă sinh sống nhiều năm tại các
khu vực hầm mỏ miền bắc, tại Đà
Nẵng và trong khu Chợ Lớn tấp nập của Sàig̣n
(giờ đây là Thành Phố HCM). Một số
ước lượng 160,000 người tỵ nạn
gốc Hoa đă chạy trốn ra khỏi nước,
trên các thuyền đánh cá hay đi bộ xuyên qua
Hữu Nghị Quan, để tái định cư
tại các xă thôn thuộc các tỉnh Quảng Đông
và Quảng Tây. Trong khi đó, một loạt
bất định kỳ các vụ đột kích và
chạm súng nhỏ gia tăng trong các tháng kế đó
, đă bộc phát qua lại ngang biên giới. Giận dữ v́ sự ngược
đăi người gốc Hoa, Bắc Kinh –- kẻ
đă cung cấp cho Hà Nội một số ước
lượng 14 tỷ [đô la] viện trợ trong hai
thập niên vừa qua –- đă đột ngột
cắt đứt 21 dự án trợ giúp đương
thời. Trong Tháng Sáu, khi các nhân viên kỹ
thuật viện trợ Trung Quốc sau cùng hồi hương,
Hà Nội đă nhượng bộ trước các
lời tán tỉnh từ lâu của Sô Viết và đă
chính thức nhẩy vào quỹ đạo kinh tế
của Mạc Tư Khoa với tư cách một hội
viên của liên minh mậu dịch Cộng Sản,
khối COMECON. Trong Tháng Mười Một,
Moscow và Hà Nội đă chính thức hóa liên minh
của họ trong một hiệp ước hữu
nghị Sô Viết – Việt Nam trong 25 năm, được
kư kết với nhiều nghi lễ tại Moscow bởi
Leonid Brezhnev, Thủ Tướng Aleksei Kosygin và kẻ
đứng đầu Đảng Cộng Sản
Việt Nam, Lê Duẩn, cũng như Thủ Tướng
Phạm Văn Đồng. Bên trong bó hoa thông thường
của các thỏa thuận về mậu dịch và văn
hóa, không thể nào lầm lẫn về vỏ hạt
nhân quân sự sáng chói: một mức độ mơ
hồ của sự pḥng thủ hỗ tương,
đến tầm mức “tham khảo và các
biện pháp hữu hiệu thích đáng để
bảo vệ ḥa b́nh và an ninh xứ sở của
họ”. Đối với Bắc Kinh, bản
hiệp ước đă là một sự quở trách
chính trị đau nhói. Sau đó xảy ra cuộc
chinh phục chớp nhoáng của Việt Nam trên Căm
Bốt. Trong ṿng một tháng của cuộc xâm lăng
toàn lực của nó hôm Lễ Giáng Sinh, các kẻ
nổi dậy thân Hà Nội được hậu
thuẫn bởi quân chính quy Việt Nam đă đánh
đuổi chế độ Khmer Đỏ man rợ
của Pol Pot do Trung Quốc ủng hộ Ít
giọt nước mắt được nhỏ
xuống khi Pol Pot và các tàn dư tản mát của quân
đội ông ta bị đẩy vào các khoảnh
rừng miền tây. Từ các nơi đồn trú
nhỏ này, Khmer Đỏ đă thực hiện sự
kháng cự dữ dội chống lại chế độ
mới, một chính phủ thân Việt Nam đứng
đầu bởi một kẻ đào ngũ khỏi
Khmer Đỏ trước đây, Heng Samrin, và
được chống đỡ bởi quân số
ước lượng 130,000 lính Việt Nam. Đối
với Trung Quốc, sự sụp đổ của Căm
Bốt có nghĩa một sự mất mát khổng
lồ về thể diện. Kể từ đó, như
họ Đặng đă thú nhận tại Hoa Thịnh
Đốn, Trung Quốc đă chuyển các vũ khí và
đồ tiếp tế cho cuộc nổi loạn
của Pol Pot trong một nỗ lực đảo ngược
số phận của nó và để phục thù cho các
sự nhục nhă của chính nó. Căng thẳng dâng cao trong
khi dọc biên giới với Việt Nam, Trung Quốc
đă cáo buộc rằng các binh sĩ của Hà
Nội xâm nhập vào lănh thổ của Trung Quốc
trong 1,100 lần khác nhau. Việt Nam đă tố cáo
Trung Quốc về các vụ xâm nhập gần như hàng
ngày. Các cáo buộc và phản cao buộc làm sôi
sục mọi hàng rào pháo kích và sự trao đổi
các vụ nổ súng nhỏ, không kể các vụ
bắt cóc, bắt trộm gia súc, và đặt các
bẫy tre tẩm thuốc độc. Trong sự
củng cố chính trị om ṣm của nó cho cuộc xâm
lăng, Trung Quốc đă nhấn mạnh đến các
sự trầm trọng ở biên giới với bất
kỳ ai lắng nghe – tại Liên Hiệp Quốc, trong
các sự trao đổi ngoại giao, và trong một
trận mưa rào các bản tin báo chí. Bắc Kinh
cũng tuyên bố rằng Việt Nam đang động
viên cho chiến tranh bằng việc trưng binh với
một nhịp độ vượt quá cao điểm
của cuộc chiến tranh chống lại Sàig̣n và
Hoa Kỳ, và bởi việc gọi tái ngũ 200,000
cựu chiến binh trở lại quân đội. Một ngày trước Ngày
D ( ngày khai chiến), Phạm Văn Đồng, Tổng
Tham Mưu Trưởng Quân Đội, Tướng Văn
Tiến Dũng, và các thành viên Nội Các khác đă
bay sang Phnom Penh để kư kết một hiệp ước
với tân chế độ của Heng Samrin. Sự
vắng mặt của giới quan chức thượng
tầng của Việt Nam tại Hà Nội có thể
đă trợ lực vào việc ấn định
thời biểu của cuộc công kích của Bắc
Kinh. Binh sĩ Pháp tại tiền đồn
Lào Cai canh gác con đường biên giới Trung
Quốc trong Chiến Tranh Đông Dương (1950). Thay v́ ngồi ăn tại bàn ăn
của Trung Quốc, Hồ Chí Minh ưa thích việc
giao chiến bằng sức của ḿnh.
Đối với nhiều nhà nghiên cứu Trung Hoa
học, cuộc xâm lăng của Bắc Kinh đă là
một minh chứng khác của “tinh thần Vạn Lư
Trường Thành” của Trung Quốc: nỗi lo
sợ ám ảnh của nó về các vụ xâm phạm,
có thực hay tưởng tượng, vào các biên
giới của nó. Tinh thần bị vây hăm này
đă đẩy Trung Quốc tiến vào Cuộc
Chiến Tranh Triều Tiên. Nó cũng góp phần vào
các sự nổ súng từng chập giữa các binh sĩ
Trung Quốc và Sô Viết dọc các con sông Ussuri và
Amur. Nó cũng có thể đứng đàng sau
cuộc tấn công của Trung Quốc vào Ấn Độ
năm 1962. Sự tấn kích đó, trong đó quân
Trung Quốc đă xâm nhập tới 100 dậm bên trong
lănh thổ Ấn Độ trên một mặt trận
trải rộng nhưng đă rút quân một cách ôn ḥa
một tháng sau đó, được nh́n bởi
một số người như một hoạch đồ
tiền lệ khả dĩ cho hành động trừng
phạt hiện thời. Bằng việc xâm lăng
Việt Nam, Bắc Kinh đă chủ định rơ ràng
nhằm giành lại một số uy tín đă mất và
để chứng tỏ nó không phải là con hổ
bằng giấy. Cuộc xâm lăng cũng
được giả định có một mục
đích chiến thuật nhằm kéo các binh sĩ
Việt Nam ra khỏi căm Bốt hầu làm giảm áp
lực trên các lực lượng c̣n sót lại
của Pol Pot. Nhưng các bất trắc liên can
đến cuộc xâm lăng Việt Nam th́ lớn hơn
nhiều các rủi ro liên can đến cuộc
chiến tranh biên giới với Ấn Độ.
Ngoài một sự trả đủa khả hữu
của Sô Viết có thể xảy ra bất kỳ lúc
nào, Trung Quốc sẵn phải gánh chịu một
sự thoái bộ về chính trị trong mắt nh́n
của thế giới. Nhật Bản, kẻ đă
gia nhập với họ trong việc tố giác “chính
sách bá quyền” khi họ kư kết một hiệp
ước với Bắc Kinh năm qua, đă bực
tức rằng Trung Quốc đang thực hành chính sách
bá quyền trắng trợn như thế của chính nó.
Một số nhà lập chính sach Mỹ có một
sự măn nguyện nhẫn tâm với cảnh tượng
mỉa mai của năm nước Cộng Sản – Liên
Bang Sô Viết, Trung Quốc, Việt Nam, Căm Bốt và
Lào –- bị vướng mắc trong một mối
cừu hận đẫm máu. Nhưng không có
nhiều điều để lấy làm thỏa măn
về h́nh ảnh sáng chói của Trung Quốc như
một người bạn mới có ư định phát
huy hơn nữa ḥa b́nh và ổn định tại Á
Châu, đột nhiên lại bị hoen ố một
cách thê thảm. Việt Nam cũng không
xuất hiện khá hơn ǵ. Sự bành trướng
của Hà Nội tại Lào và cuộc xâm lăng
của nó vào Căm Bốt đă tạo ra nhiều
điều để phá hủy h́nh ảnh phổ
biến của Việt Nam trong Thế Giới Thứ Ba
như một nước bị áp bức can đảm
chống thực dân và đă phơi bày nó nhiều hơn
như một thành Sparta [thành phố-quốc gia tại
Hy Lạp thời cổ đại, thiện chiến,
đă xâm lăng và khuất phục nhiều thành
phố và sắc dân lân cận và trở thành một
thực thể chính trị-quân sự quan trọng trước
khi bị suy đồi, trong gần 10 thế kỷ, chú
của người dịch] Đông Phương thế
kỷ thứ 20 có ư định trở nên sen đầm
và kẻ cai trị tất cả những ǵ nó thu tóm
được. Một điều bí ẩn:
Việt Nam duy tŕ xung lực quân sự sau hơn 30 năm
chiến tranh thường trực ra sao? Một phần
câu trả lời phát sinh từ kẻ ở thế thượng
phong trong sự lănh đạo tập thể kế
nhiệm Hồ Chí Minh. Bộ Chính Trị mười
một người bị phân chia giữa các kẻ
thực tiễn muốn tập trung vào sự tái xây
dựng nội bộ và cánh giáo điều cứng
rắn nghiêng về sự phiêu lưu quân sự,
bất kể các sự khó khăn ghê gớm liên can.
Cánh giáo điều, được cầm đầu
bởi Lănh Tụ Đảng Lê Duẩn và Bộ Trưởng
Quốc Pḥng Vơ Nguyên Giáp thân Sô Viết, đang
nắm quyền kiểm soát. Một nhà ngoại
giao thông thạo t́nh h́nh lâu năm về Hà Nội có
nói: “Các nhà lănh đạo
Việt Nam tự nh́n ḿnh như các đại diện
cứu thế của phong trào cách mạng tinh khiết
nhất trên thế giới. Họ mắc bệnh,
nếu bạn muốn nói thế, bởi sự cao
ngạo của quyền lực”. Cộng với
sự cao ngạo là sự thúc đẩy của Moscow,
kẻ đă di chuyển vào khoảng trống quyền
lực để lại đàng sau bởi sự rút lui
của Hoa Kỳ. Có một số sự minh
chứng nhỏ cho lập luận rằng Hoa Kỳ có
thể đă đẩy Việt Nam vào ṿng tay ôm
của Sô Viết trong mùa hè qua khi Hoa Kỳ bác bỏ các
nỗ lực khiêm tốn của Hà Nội để ḥa
giải. Tuy nhiên, các nguyên do phức
tạp của cuộc Chiến Tranh Trung-Việt cũng
đă có gốc rễ trong sự thù hận lịch
sử giữa hai chủng tộc anh em, trở lùi 21
thế kỷ khi có sự thuộc địa hóa
của Trung Hoa trên vương quôc Nam Việt tại Châu
Thổ Sông Hồng. Trong năm 39 Sau Công Nguyên, hai
chị em nữ vương có tên Trưng Trắc và Trưng
Nhị đă cầm đầu một cuộc nổi
dậy trong bốn năm chống lại Vương
Quốc Trung Tâm; một cuộc phản công phẫn
nộ đă đập tan binh sĩ Việt Nam tại Sông
Đáy. Thay v́ chịu đầu hàng quân Tàu,
chị em nữ hoàng đă nhảy xuống sông và
chết đuối – một cái chết v́ nước
vẫn c̣n được vinh danh bởi các thiếu
nữ Việt Nam mỗi Tháng Ba trong ngày lễ Hai Bà Trưng. Các cuộc nổi dậy
quan trọng khác, trong các thế kỷ thứ ba,
thứ sáu, và thứ mười, đă giúp dân
Việt xây dựng được một tinh thần quân
sự, vốn cần thiết để ngăn ngừa
các cuộc tấn công của người Tai (Thái)
ở phía tây và người Chàm ở phía nam. Hơn
một tá cuộc chiến tranh khác và một cuộc
chiếm đóng tàn ác của Trung Hoa hồi đầu
thế kỷ thứ 15 đă tăng cường tinh
thần độc olập của người Việt và
nung nấu sự thù hận đối với người
Tàu trong đầu óc họ một cách vĩnh viễn.
Trước Thế Chiến II, phe Trung Hoa Quốc Dân
Đảng đă cung cấp nơi trú náu cho người
tỵ nạn chính trị Việt Nam chống lại
thực dân, nhưng ngay sự ân cần này cũng
đă không xóa bỏ được sự đối
nghịch. Trong cuộc chiến tranh sau này của ông
ta chống lại người Pháp, Hồ Chí Minh
được đề nghị sự ủng hộ
của đoàn quân Cộng Sản đang thẳng
tiến của Mao Trạch Đông, điều có
thể có nghĩa tạo sự chiến thắng chung,
mau chóng, ông ta đă từ chối. Sau này, với
một sự lư luận súc tích, ông đă giải thích
lư do tại sao ông đă ưa thích để chiến
đấu một cuộc chiến tranh du kích kéo dài
bằng sức của chính ḿnh: “Thà ngửi phân Pháp
trong một lúc c̣n hơn phải ăn cứt của Tàu
suốt đời chúng tôi”. Cảnh tượng tuần
qua của hai quyền lực Cộng Sản to lớn,
Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết, gân cổ căi nhau
kịch liệt bên bờ của một cuộc
chiến tranh khả dĩ lửa đạn – với
Hoa Kỳ, một thời là kẻ thù chung của hai nước,
đứng thụ động bên lề -- tiếp giáp
với một Chiến Trường Phi Lư toàn cầu.
Sau một số sự hoang mang ban đầu, phong trào
cộng sản quốc tế ngày càng phân hóa đă
quay ngoắt lại chống Trung Quốc. Tại
Đông Âu, Nam Tư độc lập giữ nguyên
sự trung lập thông thường của nó.
Rumania hoàng đàng kêu gọi cả hai bên hăy
“ngừng các hoạt động quân sự tức
thời`”. Phần c̣n lại của các nước
thuộc Thỏa Ước Warsaw Pact , một cách dễ
tiên đoán, ủng hộ Moscow trong việc kết án
điều Bulgaria gọi là “các hành động xâm
lấn và phiêu lưu” của Trung Quốc. Ngay
Albania cũng phá bỏ sự cô lập lâu dài của nó
để kết án đồng ḿnh Trung Quốc mới
trở nên lạ lùng gần đây”. Các tài xế xe tăng tập luyện tại Tây Bá
Lợi Á (Siberia), tạo thành một bóng bao trùm lên các
biến cố
Bản đồ các nơi tập trung
quân số của Sô Viết tại biên giới Sô
Viết – Trung Quốc
Tại Pháp, Ư Đại Lợi, và Tây Ban Nha, các đảng
cộng sản Âu Châu lớn đều đứng vào
hàng ngũ chống Trung Quốc, với một sự khác
biệt châm biếm: như một kẻ nhắc
nhở về sự độc lập được
khoa trương của ông ta với Moscow, Lănh Tụ
Đảng Cộng Sản Tây Ban Nha, Santiago Carrillo, đă
so sánh sự gây hấn của Trung Quốc chống
Việt Nam với sự xâm lăng của Sô Viết vào
Tiệp Khắc. Khắp Mỹ Châu La Tinh, các nhóm
thiên tả cất cao một bản hợp xướng
chống Trung Quốc. Hàng ngh́n sinh viên diễn hành
tại công trường Paseo de la Reforma của Thành
Phố Mexico City với các biểu ngữ viết HOAN HÔ
VIỆT NAM – KẺ TIỀN PHONG CỦA CÁCH MẠNG
THẾ GIỚI. Cuộc xung đột
giữa các láng giềng Cộng Sản đă có
một tác động làm mất ảo tưởng trên
một số trí thức Âu Châu thiên tả. Trong
một bài viết cho tờ Corriere della Sera tại
Milan, kư giả Giuliano Zincone nhắc lại việc ông
đă đi biểu t́nh chống lại sự hiện
diện của Mỹ tại Việt Nam và đă đóng
góp tiền bạc cho Việt Cộng ra sao. Trung
Quốc đă “ở về phía Việt Nam, giống như
Che [Guevara?], đă đoàn kết trong cuộc đấu
tranh”. Nhưng sau đó diễn ra sự rối
loạn của Bắc Kinh: các đám đông tấn công
bọn Tứ Nhân Bang, sự tái trổi dậy của
“kẻ đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa” cũ, Đặng [Tiểu B́nh].
Bằng việc xâm lăng Căm Bốt, Việt Nam
đă phản bội các nguyên tắc của nó.
“Giờ đây ṿng tṛn được khép kin”,
Zincone đă viết. “Trung Quốc dịu dàng, nước
vững chắc, nước có trách nhiệm, đang
gửi các xe tăng của nó đến trừng
phạt” người anh em cũ của nó, với
rủi ro của việc châm ng̣i cho cuộc xung đột
đại họa. Chúng ta đang khởi đầu
từ con số không. Ôi những đứa trẻ
mồ côi.” Với một lợi thế
tuyên truyền quá hiển nhiên như thế, Liên Bang Sô
Viết vào cuối tuần đă chủ yếu
giới hạn cuộc phản công của nó chống
lại Trung Quốc vào một tràng các ngôn từ.
Tờ Prada đă nêu lên “sự uất hận và
căm phẫn” của Sô Viết đối với
cuộc xâm lược của Trung Quốc. Không
đưa ra một sự đe dọa cụ thể,
Bộ Trưởng Quốc Pḥng Sô Viết Ustinov tái
khẳng định rằng LBSV “sẽ tôn trọng các
nghĩa vụ của nó chiếu theo hiệp ước
hữu nghị và hợp tác với Việt Nam”. Báo
chí và đài phát thanh chính thức cũng cáo buộc
Hoa Kỳ v́ sự thông đồng trong cuộc tấn
công của Trung Quốc. Nhấn mạnh rằng
cuộc xâm lăng của Trung Quốc đă được
phóng ra “gần như vào ngày kế tiếp” sau khi có
sự trở về của Đặng Tiểu B́nh
từ Hoa Thịnh Đốn, tờ Pravda đă
phản đối rằng “không sự tuyên truyền
quanh co nào sẽ giúp che đậy trách nhiệm của
các giới đó tại Hoa Kỳ, đă tạo sự
đễ dàng, một cách trực tiếp hay gián
tiếp, cho các hành động của Bắc Kinh”.
Sự đả kích nhắm vào Hoa Kỳ th́ phi lư, nhưng
cơn tức giận của Sô Viết th́ dễ
hiểu và dễ tiên đoán. Không điều ǵ
về mối quan hệ mới giữa Hoa Kỳ - Trung
Quốc làm họ vui ḷng. Chừng nào mà các lực lượng
Việt Nam c̣n có thể cầm cự bằng sức
của chính nó, Sô Viết c̣n có thể sẽ ưa thích
việc thu hái các lợi lộc tuyên truyền của
sự kiềm chế. Điều nguy hiểm là
nếu phía Trung Quốc sẽ đẩy chiến tranh
đi quá xa, di chuyển về phía Hà Nội hay Hải
Pḥng, hay cho thấy ư định ở lại trên lănh
thổ Việt Nam, bản thân Sô Viết sẽ không
muốn bị xuất hiện yếu ớt và sẽ
cảm thấy bị buộc phải hành động.
Nếu thế, họ sẽ làm ǵ? Các chuyên viên
của chính quyền nói rằng các sự lựa
chọn của Sô Viết th́ nhiều. Họ có
thể phóng ra một sự tái tiếp tế lớn
lao cho các lực lượng Việt Nam, phái một
số lớn các cố vấn quân sự, hay ngay cả
việc thực hiện hành động quân sự
trực tiếp tại Việt Nam. Đáng ngại hơn,
họ cũng có thể đe dọa cảm giác an ninh
của Bắc Kinh bằng việc di chuyển dọc biên
giới Sô Viết – Trung Quốc dài 4,500 dậm,
vốn đang gây run sợ với 44 sư đoàn
của Hồng Quân. Các binh sĩ Sô Viết có
thể tấn kích vào vùng đất đóng băng, không
người cư trú ở Tân Cương, nhưng
một mục tiêu nhiều xác xuất hơn là Măn Châu,
trung tâm công nghiệp của Trung Quốc. Các nhà phân
tích hy vọng loại trừ một cuộc không kích
trên cơ sở hạch tâm của Trung Quốc tại
Lop Nor như một sự lựa chọn “ngày tận
thế”, một giải pháp có lẽ được tán
thành bởi các sĩ quan quân đội cao cấp
của Moscow nhưng không phải bởi Bộ Chính
Trị. Một người Việt Nam bị thương
được cơng từ Lào Cai và hai tù binh Trung
Cộng bị đem ra tŕnh diện tại Phố Lu
Hoa Kỳ đă được
chuyển sang vai tṛ quan sát viên bên lề, không có
mấy ảnh hưởng trên mỗi bên tham chiến.
Quan điểm của chính quyền là sự xâm
nhập của Trung Quốc đă là một hậu
quả trực tiếp của cuộc xâm lăng
của Việt Nam được Sô Viết cổ vũ
vào Căm Bốt, điều, kế đó, bị nh́n
như sự đáp ứng của Moscow trước
sự b́nh thường hóa các quan hệ Trung Quốc
– Hoa Kỳ. Chính sách Hoa Kỳ được
đặt trên khái niệm rằng đất nước
này không nên bị dính líu vào một cuộc xung đột
giữa các quốc gia Cộng Sản xa xôi. Chính v́
thế Hoa Thịnh Đốn đă thúc giục một
cách đồng đều Bắc Kinh và Hà Nội hăy rút
quân của họ ra khỏi cả Việt Nam lẫn Căm
Bốt. Theo đuổi vai tṛ trung gian lương
thiện của ḿnh, Hoa Kỳ cũng đ̣i hỏi
một phiên họp khẩn cấp của Hội Đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc, hy vọng tập họp
đủ số phiếu cho một nghị quyết kêu
gọi sự triệt thoái hỗ ứng. Trong cuộc tranh luận
mở màn hôm Thứ Sáu, Đại Sứ Hoa Kỳ
Andrew Young đă gọi t́nh h́nh Đông Nam Á “nguy
hiểm” và thúc giục các bên tham chiến “hăy di
chuyển các sự tranh chấp đến bàn thương
thảo”. Các nước không liên kết dường
như sẽ xếp hàng đàng sau nghị quyết
đề nghị của Hoa Kỳ, trong khi Trung Quốc
và Liên Bang Sô Viết đưa ra các nghị quyết
hoàn toàn đối nghịch nhau, một kết án
sự xâm lược bởi Việt Nam, cái kia kết
án sự xâm lược của Trung Quốc. Vào ngày
Thứ Bẩy, trong sự phản đối chống
lại quyết định của hội đồng nhường
lời cho đại diện của chế độ
đă bị đánh bại tại Căm Bốt
của Pot Pot, Đại Biểu Sô Viết, Mikhail
Kharlamov đă hiên ngang bước ra ngoài. Ông ta
được theo sau ngay sau đó bởi Đại
Biểu Tiệp Khắc. Kharlamov đă cẩn
thận để một phụ tá ở lại trên bàn
họp, nhưng đó chính là sự bước ra ngoài
đầu tiên của Sô Viết khỏi Hội Đồng
Bảo An kể từ khi có Chiến Tranh Triều Tiên. Một số nhà ngoại
giao ngoại quốc có nói đến sự sử
dụng khả hữu Hoa Thịnh Đốn
của Bắc Kinh như một công cụ trong chiến
lược xâm lăng của nó. Các viên chức chính
quyền đă phủ nhận một cách diễu
cợt bất kỳ điều ǵ giống như
sự thông đồng bị cáo giác bởi Moscow, và
đă nhấn mạnh một cách thuyết phục
rằng [Tổng Thống] Carter trong thực tế đă
cố gắng ngăn cản họ Đặng khỏi
bất kỳ hành động “thiếu khôn ngoan” nào.
Câu hỏi rằng liệu Hoa Thịnh Đốn, hăng
hái để b́nh thường hóa các quan hệ với
Bắc Kinh, có thể đă không bị kết nạp
một cách vô t́nh, trong các chuẩn bị ngoại giao
của Trung Quốc, cho cuộc tấn công hay không.
“Giờ đây, chúng ta biết được lư do
tại sao Trung Quốc lại bày tỏ sự vội vă
như thế để b́nh thường hóa các quan
hệ với Hoa Kỳ”, Thượng Nghị Sĩ
Charles Percy đă nói sau cuộc xâm lăng. Vào cuối tuần, đă có
các dấu hiệu rằng phía Trung Quốc đang
gặp phải địa h́nh khó khăn hơn và
sự kháng cự cứng rắn hơn điều
họ có lẽ đă ước định.
Một cách giả định, họ đă có sức
mạnh và quân số để xâm nhập xa đến
mức họ lựa chọn. Nhưng có thể nào
họ tự giải thoát ḿnh ra khỏi vũng lầy
lịch sử với một sự dễ dàng tương
tự hay không? Các bia đá trên mộ ở Điện
Biên Phủ. Các xác máy bay trực thăng của
Thủy Quân Lục Chiến gần Đà Nẵng.
Các địa danh khác, các di tích khác chứng thực
cho các số phận bi thảm của các kẻ
ngoại lai đến thăm viếng Việt Nam trong quá
khứ và về sau đă ước rằng họ
đă chưa bao giờ đến đó. Để
giáng dạy “bài học” của ḿnh, người
Trung Quốc – giống như nguời Pháp và người
Mỹ trước họ -- có thể t́m thấy
Việt Nam sẽ là một lớp học bất kham./- ***** Sự Cân Bằng Quân Sự Hai khuôn mặt tham chiến vào địa h́nh không người
cư trú, lởm chởm của miền bắc Việt
Nam đă là đối tượng của kiểm tra
gắt gao bởi các nhà phân tích quân sự tuần qua.
Tại Hoa Thịnh Đốn, một ủy ban đặc
nhiệm phát sinh từ cộng đồng t́nh báo Hoa
Kỳ đă khởi sự nhóm họp trong ṿng vài
tiếng đồng hồ sau cuộc xâm lăng của
Trung Quốc, lượng giá những dữ liệu nào
có thể nhận được từ các bản thông
báo quân sự và bởi sự quan sát bằng vệ
tinh quang cảnh chiến trường. Tại Moscow,
các chiến lược gia cũng chăm chú không kém
đến các tác động rộng lớn hơn
của cuộc chiến. Quân Đội Nhân Dân
Giải Phóng Trung Quốc hoạt động hay dở
ra sao trong cuộc trắc nghiệm chiến đấu
cụ thể đầu tiên của nó từ khi có
Chiến Tranh Triều Tiên 30 năm về trước có
thể cung cấp các manh mối về năng lực
của nó chống lại các quân đoàn Sô Viết
tại biên giới phía bắc Trung Quốc. Dàn binh
chống lại QĐNDGPTQ là một khí cụ quân
sự đáng nể sợ được trui rèn
bởi Bộ Trưởng Quốc Pḥng Vơ Nguyên Giáp,
kẻ chinh phục Điện Biên Phủ, với các
lực lượng đă đánh bại các đoàn quân
của Pháp và Hoa Kỳ trong hơn ba thập niên giao chiên.
Các điểm mạnh và nhược điểm
của cả hai lực lượng, như được
lượng giá bởi các phân tích viên trong tuần qua,
có vẻ sẽ là một sự cân bằng tế
nhị. Vơ Nguyên Giáp, Việt Nam
Tướng Dương Đắc Chí,
trong cuộc thao diễn tập luyện (1958)
Với 3.5 triều người,
đội quân tại ngũ lớn nhất của
thế giới, Bắc Kinh đă có một lợi
thế quân số áp đảo trên 615,000 binh sĩ
của Hà Nội. Trong một cuộc tấn công
trừng phạt hạn chế, phía Trung Quốc có
thễ sẽ không bố trí nhiều hơn 200,000 quân,
mặc dù quân số trừ bị của QĐNDGPTQ
tại miền nam Trung Quốc th́ vô kể nếu
cuộc xung đột phải mở rộng. Trung
Quốc hiện có khoảng 1.6 triệu lính dọc biên
giới Sô Viết –- mo6t. lực lượng mà
Bắc Kinh có thể quyết định tăng bổ
nếu Moscow nâng t́nh trạng ứng chiến của 1
triệu binh sĩ của chính nó tại biên giới
để đáp ứng với cuộc khủng
hoảng. Một lợi thế chiến thuật cho
Trung Quốc là nhiều lực lượng của Hà
Nội bị cầm chân tại Căm Bốt hay Lào và
không có thể sẵn sàng để chuyển sang
cuộc chiến tranh tại miền bắc. Mặc dù phía Trung Quốc
đă không “đổ mau’ bởi kinh nghiệm
chiến trận, các chuyên viên Ngũ Giác Đài tin tưởng
rằng họ là các chiến sĩ tốt. Các binh
sĩ QĐNDGPTQ chưa được thử thách,
giống như cấo chỉ huy của ḿnh, có thể
hăng hái để chiến đấu – và cho
một cơ hội hiếm có để thăng
cấp. Kinh nghiệm mà vị chỉ huy hành quân
của họ, Tướng Dương Đắc Chí, 68
tuổi, có được trong Chiến Tranh Triều Tiên,
có thể được dùng để nâng cao sự
tin tưởng của các binh sĩ. Ở vào
thế tấn công cũng mang lại một lợi
thế tinh thần vô h́nh. Tuy nhiên, QĐNDGPTQ
gặp trở ngại bởi nhiều năm dính líu thái
quá vào chính trị nội bộ của Trung Quốc.
Trong một thời gian dài, nhiệm vụ gay go nhất
của nó là kiềm chế sự thái quá của
Cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Đối với phía
Việt Nam, họ thụ hưởng từ sự
kiện rằng họ đang pḥng thủ xứ sở
của chính họ chống lại một kẻ thù
bị oán ghét trong lịch sử. Họ là các
chiến sĩ đă được chứng thực
với một sức mạnh bền bỉ không thể
phủ nhận được. “C̣n quá sớm
để nói ai là kẻ khá hơn”, một chuyên viên
Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ đă nói. “Một
đối một, trọng lượng về kinh
nghjiệm sẽ nghiêng về phía Việt Nam”. Hà Nội có một sự
ưu việt rơ ràng trên Bắc Kinh về vũ khí tinh
vi. Mặc dù cả hai lực lượng đang
giao tranh với các vũ khí được chế
tạo tại LBSV hay với các bản sao các kiểu
mẫu của Sô Viết, nhiều vũ khí của QĐNDGPTQ
đă được thụ đắc trước khi
có sự ran nứt Nga-Hoa vào cuối thập niên 1950.
Phía Việt Nam cũng có một số trang bị
của Mỹ tịch thu được, rơ rệt
nhất là đại bác 177 ly, vốn vượt xa
bất kỳ súng pháo binh nào trong số tồn kho
của Trung Quốc. Một trong những vũ khí
hữu hiệu nhất và được ưa
chuộng của Hà Nội, như người Mỹ lĩnh
hội được tại Khe sanh, là đại bác
130 ly. Một nhà phân tích quân sự tại Hồng
Kông có nói, “Phía Việt Nam yêu thích súng 130 ly và
thực sự biết cách sử dụng nó. Họ
phải yêu thích là đă có súng băn tầm xa hơn
súng của Trung Quốc”. Trung Quốc có khoảng
10,0090 xe tăng, so với 900 chiếc của Việt Nam.
Nhưng địa h́nh núi non của sự giao tranh
tuần qua loại bỏ sự sử dụng xe tăng
ngoại trừ tại các hành lang rất nhỏ
hẹp, và các xe tăng T-34 cổ xưa của Trung
Quốc dễ bị xâm phạm bởi các hỏa
tiễn chống xe tăng Sagger cực kỳ chính xác
được cung cấp cho Việt Nam bởi Liên Bang
Sô Viết trong ba năm qua. Phía Trung Quốc không có
ǵ tương đương với hỏa tiễn
Sagger. “Đây là một trong các sự khiếm
khuyết chiến đâu quan trọng của họ,
điều mà họ đang cố gắng để
sửa chữa bằng cách mua các hỏa tiễn
(chống xe tăng) HOT từ Pháp”, một chuyên viên
Hoa Kỳ ghi nhận. Không lực Việt Nam th́ vô
cùng yếu thế so với Trung Quốc về số lượng,
nhưng phẩm chất th́ ưu việt vô cùng. Hà
Nội có tổng cộng 300 phi cơ chiến đấu,
khoảng 700 máy bay của Trung Quốc nằm trong
phạm vi tấn công của Việt Nam. Tuy nhiên,
phần lớn các máy bay sẵn sàng để chiến
đấu là các máy bay lỗi thời MiG17 và Mig-19,
trong khi Việt Nam không chỉ có máy bay MiG-21 hơi tân
tiến hơn mà c̣n có cả “chiến đấu cơ
tự do” F-5 đa năng tịch thu được
từ người Mỹ. Phía Việt Nam cũng có
một lợi thế về tiếp liệu và
chuyển vận. Bởi có sự thiếu hụt các
xe vận tải và xe chở hàng, phía Trung Quốc
được tường thuật đă phải mang
một số đồ tiếp liệu đến khu
vực chiến đấu bằng xe do ngựa kéo.
Trong khi đội quân Trung Quốc di chuyển chính
yếu bằng chân, các lực lượng Việt Nam có
đầy các sự vận tải hiện đại,
phần lớn trong đó được tịch thu
từ Quân Đội Hoa Kỳ. Hơn nữa, phía
Trung Quốc có các sự truyền tin chiến trường
thô sơ; đôi khi họ vẫn c̣n dùng đến các
người chạy bộ và đi bằng xe đạp.
Phía Việt Nam được trang bị với máy thu
phát thanh (radio) hiện đại và các điện
thoại dă chiến, nhiều số trong chúng do Mỹ
chế tạo. Bất kể sự ưu
việt của Hà Nội trong kinh nghiệm, vũ khí và
tiếp vận, tinh thần xuống thấp trong các
lực lượng Việt Nam có thể làm cùn nhụt
các lợi thế của họ. Các sự tổn
thất nặng nề tại Căm Bốt đă làm phương
hại nghiêm trọng đến tinh thần chiến
đấu của một số binh sĩ Việt Nam.
Các lính tuyển mộ đă hối lộ các sĩ
quan của họ để cho họ quay về nhà.
Tỷ lệ AWOL [chữ viết tắt của thành
ngữ A(bsent] W(ith)o(ut) L(eave): có nghĩa
vắng mặt tại nhiệm sở hay nhiêm vụ mà
không có phép chính thức, nhưng không có ư định
đào ngũ, chú của người dịch] cao
dến nỗi bộ chỉ huy quân đôi đă loan báo
kế hoạch tái tổ chức trong hai năm nhằm
hội nhập tốt hơn các binh sĩ miền nam
mất tinh thần vào một lực lượng
chiến đấu hăng say hơn. Mao Trạch
Đông có thể đúng khi nói rằng: “Các vũ khí
là một yếu tố quan trọng nhưng không
phải là yếu tố quyết đinh; chính con người
chứ không phải các đồ vật mới là
yếu tố quyết định”./- ***** THỜI BUỔI KHÓ KHĂN CHO HÀ NỘI Các nhà lănh đạo Hà Nội thường
hay kiêu hănh nới với các du khách ngoại quốc có
cảm t́nh rằng người dân Việt Nam th́
sẵn ḷng “chịu khổ với sự dâng
hiến”. Tuần qua, các chiếc xe vận tải
chất đầy các người bị chết và
bị thương v́ chiến tranh trở về từ
biên giới Trung Quốc và từ Căm Bốt
chứng thực rằng sự đau khổ c̣n lâu
mới hết. Một câu hỏi không được
trả lời và có lẽ không thể trả lời
được rằng việc dâng hiến mà 51
triệu công dân của Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa
c̣n ra sao với một giới lănh đạo đă không
thể tạo lập được một xứ
sở ổn định và thịnh vượng ngay dù
sau bốn năm tương đối ḥa b́nh. T́nh trạng thiếu dinh dưỡng
và ngay cả nạn đói hoành hành khắp Việt
Nam. Sản lượng nông nghiệp sút giảm 15%
trong năm 1878, trong khi viễn ảnh cho năm nay c̣n kém
đến nỗi Hà Nội đă sẵn hạ
thấp các số ước lượng thu hoạch
của nó xuống từ các chỉ tiêu đă tuyên
bố. Sau trận lụt rộng lớn tại vùng
đất trồng lúa gạo Tháng Chín năm trước,
khẩu phần hàng tháng về thực phẩm cho
mỗi người đă bị cắt từ 33 cân Anh
(lbs) xuống c̣n 29 cân Anh. Trong số đó, các nông
dân và các công nhân b́nh thường chỉ được
trợ cấp nhiều hơn 2 cân Anh gạo một chút,
thứ lương thực chính của chế độ
ăn uống hàng ngày của người Việt Nam.
Đường, thịt, và bột ḿ th́ khan hiếm và
đắt khủng khiếp. Các công nhân nhà máy
đă trở nên vô hiệu năng bởi t́nh trạng
thiếu dinh dưỡng, theo các nhà quản lư Tây Phương
tại các nhà máy được dựng lên bởi nước
ngoài. Các trận băo, các vụ
hạn hán và các tai họa thiên nhiên khác đă góp
phần vào các khó khăn nông nghiệp của Việt
Nam, nhưng sự thiếu khả năng của chính
quyền đă là nguyên do chính. Các sự
rối loạn giấy tờ đă ngăn trở
việc trồng hạt giống mới của lúa
gạo có sức kháng cự hạn hán nhiều hơn,
và sự phân phối các thuốc trừ sâu tại các
khu vực bị phá hoại bởi côn trùng thực
vật đă bị tŕ hoăn. Sản lượng lúa
gạo đang sút giảm tại vùng Châu Thổ sông
Mekong một thời thịnh vượng. Hà
Nội đă loan báo rằng nó sẵn sàng trao đổi
các tiêu thụ phẩm chẳng hạn như các
quạt máy chạy điện lấy gạo, hy
vọng khuyến dụ các nông dân bán số thu
hoạch của họ cho chính phủ thay v́ trên chợ
đen. Khi chính phủ không chuyển giao các tiêu
thụ phẩm đă hứa hẹn, các nông dân bị
thất vọng đă bắt đầu sản xuất
ít đi. Tờ báo của đảng [cộng
sản] Viêt Nam, Nhân Dân, có phàn nàn rằng
nhiều nông dân đă để các cánh đồng lúa
không canh tác hay dùng gạo để nấu rượu
hay nuôi heo. Đời sống đặc
biệt khó khăn tại miền bắc. Các gia
đ́nh tại Hà Nội chỉ được cho phép
có 75 bộ Anh vuông (square feet) không gian sinh sống cho
mỗi người – vào khoảng số diện tích
đề nghị cho các tù nhân ở các nhà tù khổ
sai liên bang Hoa Kỳ. Các thợ nhà máy phải làm
việc sáu ngày một tuần, và phải dùng ngày
thứ bẩy cho các phiên họp chính trị hay tại
các dự án xây dựng “t́nh nguyện”. Các xe hơi
do tư nhân sở hữu hoàn toàn không có, và các đồ
phụ tùng cho xe đạp th́ thiếu hụt số
cung. “Có một mức độ to lớn của
sự khốn khổ”, một nhà ngoại giao tại
Hà Nội có nói như thế. “Dân chúng đang
bắt đầu phàn nàn một cách riêng tư.
Một trong các câu hỏi th́ thầm được
nghe thấy thường xuyên nhất là một câu
hỏi mỉa mai, “Chúng ta đang làm cái giống ǵ
vậy tại Căm Bốt?” Miền nam vẫn c̣n tương
đối thịnh vượng hơn. Các phụ
nữ ở đó vẫn mặc áo dài có màu sáng
rực, trái với các chiếc quân đen và áo
trắng chung cho cả hai phái thường được
mặc ở miền bắc. Thực phẩm
phần nào được cung ứng nhiều hơn nhưng
đắt đỏ hơn, bởi tỷ lệ lạm
phát vượt quá 100% một năm. Nói chung,
nền kinh tế của miền nam chịu khổ
sở từ sự xóa bỏ của Hà Nội trong năm
qua “giới tư sản mại bản” và việc
đưa đến một tiền tệ đồng
nhất khắp nước. Kỹ nghệ miền
nam hiện đang hoạt động với 40% năng
lực. Khoảng một phần năm trong 3
triệu cư dân của Sàig̣n bị thất
nghiệp. Nh́n nhận sự quản lư sai lạc
phổ biến trong công nghiệp và nông nghiệp,
tờ Nhân Dân đă giải thích, “Trong các
cuộc đấu tranh lâu dài chống đế
quốc chủ nghĩa, chúng ta đă trở nên rất
thành thạo trong các cuộc đấu tranh chính
trị và vũ trang và tài t́nh trong việc tổ
chức các trận đánh lớn. Song chúng ta
vẫn chưa quen thuộc với sự tổ chức
sự sản xuất và kinh doanh trên quy mô to lớn”. Các khó khăn kinh tế
của Việt Nam bị trầm trọng hơn một
cách lớn lao bởi sự trục xuất 200,000 người
gốc Hoa trong chín tháng qua. Người gốc Hoa
bị trở thành mục tiêu bởi sự can dự
rộng răi của họ trong chợ đen, nhưng
họ cấu thành tầng lớp kinh doanh quan trọng
của Việt Nam. Họ quản trị việc mua
bán gạo, các hải cảng chính, các hệ thống
phân phối và vài kỹ nghệ then chốt – nổi
bật nhất là than đá. 300,000 người tỵ
nạn đă chạy trốn khỏi Việt Nam từ
sau sự sụp đổ chính quyền ông Thiệu năm
1975 cũng đă làm giảm bớt các nguồn nhân
lực của xứ sở. Theo các viên chức
tại Thái Lan và Hồng Kông, nơi nhiều dân tỵ
nạn chạy đến, các viên chức Việt Nam
đang trục lợi một cách riêng tư từ
cuộc di cư của các công dân của họ, các
kẻ đang muốn đi t́m thức ăn và tự
do ở hải ngoại. Sau khi phỏng vấn các
người tỵ nạn, các điều tra viên tin tưởng
rằng có đến 50% số tiền mà các người
chuẩn bị tỵ nạn phải trả để
rời khỏi Việt Nam cuối cùng nằm trong túi
của các đảng viên Cộng Sản địa phương. Theo các người tỵ
nạn, một trong các sự thay đổi nổi
bật nhất xuất hiện tại Việt Nam là t́nh
trạng tham nhũng của các viên chức đảng
trung cấp. Nhiệt t́nh cách mạng đă nhường
bước cho một sự khai thác vô liêm sỉ các khó
khăn kinh tế của Việt Nam. Các viên
chức cộng sản tham nhũng đă bước chân
vào sự mua bán trên thị trường chợ đen
có thời được điều hành bởi người
gốc Hoa. Tất cả các tuyến đường
chính của châu thổ sông Hồng phía nam Hà Nội phô
bày “các chợ nổi” do Cộng Sản điều
hành, cung cấp hàng hóa ăn trộm từ các
chiếc tàu hay trực tiếp từ các bến tàu
ở Hải Pḥng. Sự tiêu pha công nhiên trong
số các viên chức Cộng Sản đă trở nên
nức tiếng đến nỗi Thủ Tướng
Phạm Văn Đồng cẩm thấy cần
phải ban hành một mệnh lệnh chung: “Vào lúc khi
người dân tại một vài khu vực đang
trải qua t́nh trạng thiếu thốn và nạn đói,
cần tuyệt đối kiềm chế việc
tổ chức các buỗi lễ và tiệc tùng phí
phạm. Mọi khu vực và mọi cấp phải
giữ ǵn một tinh thần làm gương bằng cách
tiết kiệm trong sự sản xuất và một
lối sống né tránh mọi sự hoang phí”./- Thủ Tướng Phạm văn Đồng
trong một cuộc thăm viếng tại Paris
Nguồn: Time Magazine, số ra ngày 5 Tháng Ba, 1979, các
trang 26-36. Ngô Bắc dịch và
phụ chú 10.03.2014 |