Một
Y sĩ Hải Quân đi tù Cải Tạo tại
miền Bắc Xă hội Chủ nghĩa. Nguyễn vĩnh B́nh |
Tôi
thật rất có phước được là một
y sĩ Hải Quân, và tôi là y sĩ Hải quân duy
nhất “được” đi tù Cải tạo
tại miền Bắc. Nhiều
người thương hại cho số phận
hẩm hiu của tôi, nhưng tôi coi đó là một hân
hạnh. Hân hạnh v́ đất nước tôi trong
cuộc tranh đấu cho Độc Lập, Tự Do, Dân
Chủ đă trải qua một cuộc chiến anh dũng.
Nay v́ vận nước nghiêng ngả, đồng bào lâm
cảnh lầm than đau khổ, chúng tôi bị đi
đầy tận miền bắc th́ kể như chúng
tôi tiếp tục tham dự cuộc chiến trong
phần đen tối nhất và đóng góp phần
đời và xương máu để cùng chia xẻ
với cái nhục mất nước chung của toàn dân. Sau
đây tôi xin ghi lại khoảng đời đó
của chúng tôi I-Y Bạ
trích ngang. Tôi
tốt nghiệp Y Khoa Đại Học năm 1965, và
được trưng tập về phục vụ Quân
Chủng Hải Quân năm 1966. Được
bổ nhậm làm việc tại Vùng II Duyên Hải,
ở Cát Lở, Vũng Tàu và Bệnh viện Hải Quân
ở Saigon và Khối Quân Y thuộc Bộ Tư
Lệnh Hải Quân. Năm
1972, nhà tôi được Bộ Y Tế bổ nhậm
làm việc tại Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Long Xuyên. Tôi
xin thuyên chuyển về làm tại Bệnh Xá Căn
cứ Hải Quân Long Xuyên. Năm
1973, tôi được biệt phái về làm việc
ở Long Xuyên. II-Cuộc
đổi đời. Thế
rồi ngày 30-4-1975 đến. Một
tiểu đội Việt Cộng từ bắc Vàm
Cống rụt rè tiến về thành phố. Không
một tiếng súng. Không
có cảnh đau ḷng của bọn cách mạng 30
nhiễu nhương đường phố. Nhưng
bỗng nhiên mọi việc đều thay đổi.
Một bầu không khí ngột ngạt bổ xuống.
Phố xá vắng người. Tiếng ra rả tối
ngày của các loa tuyên truyền là vang động duy
nhất của một thành phố đang hấp
hối trở thành thị xă của tỉnh Long Châu Hà
của Việt Cộng, gồm Long Xuyên- Châu Đốc-
Hà Tiên cũ. Công
an xử bắn một hai người. Bệnh
nhân Quân Y Viện Long Xuyên bị đuổi ra
đường. Các bạn ở Quân Y Viện bị
đưa về đâu không biết\Anh em chúng tôi
ở Bệnh Viện Long Xuyên rồi th́ cũng bị
gom vào trung tâm cải huấn cũ. Nơi đây
tập trung đầy đủ quân-dân-cán-chính
của chế độ cũ. Nhanh chóng chúng tôi
trở thành tù, mặc dù chánh sách “khoan hồng”
bảo là “Cải tạo viên”. Chúng tôi sớm
biết thế nào là ngoan ngoăn tuân hành nội quy cách
mạng. Ban
điều hành trại cho một anh lao công cũ
của trại lên nhận thư của một số
anh em chúng tôi nhờ chuyển tin tức về gia đ́nh,
để rồi nạp cho trại. Chúng tôi bị
tập họp lại và bị “lên lớp”. Những
anh em gởi thơ lén liền bị điều động
đi biệt tích, c̣n lại chúng tôi bị làm
nhục, hăm he đủ điều. Sau
nhiều cuộc “biên chế” (sắp xếp), dân
số tập trung bị chuyển đi dần, mà không
biết chuyển đi đâu. Lối
tháng 8/ 75, chúng tôi gồm 5 y sĩ thiếu tá biệt
phái của Châu Đốc, Long Xuyên bị đưa qua
trại giam tù binh cộng sản ở Cần Thơ. Lúc
này, toàn thể quân nhân thuộc Quân đoàn IV đều
bị tập trung, và cấp tướng và đại
tá đă bị chuyển khỏi vùng, c̣n lại
cấp trung tá, thiếu tá và một binh nhất. Anh này
không biết do ai cố vấn, tự động tŕnh
diện cải tạo với cấp bậc thiếu tá,
hy vọng sẽ được tốt nghiệp như
thiếu tá cải tạo để le lói với đời.
Bị phát giác, nhưng anh vẫn được
giữ lại, có lẽ để được
xử dụng theo dơi chúng tôi. Một
hôm chúng tôi đang lao động nhổ cỏ, một
anh bạn th́ thầm nhận xét: Việt Nam Xă hội
chủ nghĩa sang thiệt! dùng toàn thành phần bác sĩ
để làm việc nhổ cỏ. Mà sang thật,
họ bắt chúng tôi vào tù, chúng tôi phải tự ḿnh
biến chế tự làm ra từ chiếc ghế
nhỏ để ngồi đến sạo thiếc
để ngủ, từ hội trường đến
nhà bếp, từ xây giếng đến đào nhà xí.
Bếp núc cũng do chúng tôi xây, dĩ nhiên nấu nướng
cũng do chúng tôi. Đồ ăn thức uống th́ nói
cho có, chỉ toàn rau úng, cá ôi, gạo ẩm đầy
sỏi cát. Khẩu phần th́ ngày càng hạn chế.
Trại cho như vậy là rất tốt để
chuẩn bị chúng tôi vào học tập và đón
nhận chân lư cách mạng và nếp song văn minh
của Xă hội chủ nghĩa- Bài
học gồm 10 bài. Nội dung và cách giảng dạy
rất sơ đẳng. Mục đích không phải là
thuyết tŕnh lư luận Chủ nghĩa vô sản, mà
chính là để ghép chúng tôi vào tội phản
quốc, chống cách mạnh, là bắt chúng tôi
phải nhận đă gây nhiều tội ác “trời
không dung, đất không tha”, và phải thành khẩn
khai tội lỗi càng nhiều càng tốt, càng khai
nhiều tội th́ càng sớm được cứu xét
về lại với gia đ́nh. Chúng tôi c̣n được
khuyến khích, bắt buộc phải khai báo, phóng
đại những “tội ác” có thật hoặc tưởng
tượng của toàn thể các cấp của
chế độ cũ. Dĩ nhiên là trại đă
thất bại, chúng tôi đă “nín thở qua sông”,
khai báo lấy có. Sau
cùng gần như toàn thể chúng tôi bị đưa
ra miền Bắc. III-Một
chuyến ra đi, trên đất thù- Vào
tháng 6/1976, giờ “đền tội” đă đến.
Giống như Tết Mậu Thân, ở Huế, v́
sợ tốn đạn, hơn 3,000 đồng bào
bị chôn sống trong những nấm mồ tập
thể, giờ này, để khỏi mang tiếng
diệt chủng như Pol Pot ở Cao Miên, chúng tôi
bị đày ra miền Bắc để chết
lần ṃn, suy kiệt ở các trại lao tù hẻo lánh
của Thượng du Bắc việt. Chúng
tôi xuống những chiếc tàu sắt dài
khoảng 20 thước tại B́nh Thủy, Cần Thơ.
Qua một khung vuông, chúng tôi leo xuống một hầm
bít bùng chật hẹp vừa đủ chỗ để
ngồi sát nhau. Suốt 4 ngày đêm, với nắp
hầm được khép kín, tầu lênh đêng không
biết về đâu. Có anh trào phúng cho rằng: “chúng
ḿnh được đưa về phóng thích tại
Saigon trước sự chứng kiến của
truyền thông quốc tế để chứng minh chính
sách khoan hồng của chế độ”, ai nấy
đều ngao ngán, khoan hồng như thế này à?
Cảnh người nô lệ thời trung cổ không
thể tệ hơn. Anh
T.Đ.V, trung tá (dường như là bạn cột chèo
với tướng Ng.C.K) huỵch tẹt cho rằng: chúng
nó đưa bọn ḿnh ra Bắc chớ không có
đưa đi đâu hết. Nghe ra ai nấy đều
ngỡ ngàng. Miền Bắc xa vời lắm, đưa
ra ngoải để làm ǵ? Sau
cùng th́ đoàn tàu cũng cập bến. Vừa thoát
ra khỏi hầm, ánh b́nh minh làm chóa mắt sau
những ngày trong bóng tối. “Xem ḱa, rặng núi nơi
xa kia là rặng núi Bửu Long Biên Ḥa, chúng ḿnh sắp
được về Saigon rồi!”. Đó là lần
chót chúng tôi nghe nói đến 2 địa danh của
miền Nam, v́ hiện tại, chúng tôi đang đặt
chân lên miền Bắc Xă hội chủ nghĩa, thành
phố Vinh. Xế
chiều chúng tôi bị dồn vào những toa xe lửa
để xuôi ra Bắc. Đường rầy xe
lửa Xuyên Việt thời Pháp để lại,
chiều ngang rất hẹp nên mỗi lần quẹo
cua, th́ xe chao đảo tưởng chừng như
sắp ngă lúc nào không hay. Từ nay vĩnh viễn xa quê
hương, sống chết có nghĩa ǵ! Xe
lửa chậm chạp đưa chúng tôi qua làng xă
miền Bắc. Chúng tôi qua Thủ Đô Hà Nội nghèo
nàn, vượt sông Hồng cạn nước, và đến
một vùng đồi núi, cây cọ vùng Phú Thọ,
đất của Tổ Hùng Vương. Trên toa xe có
một linh mục già nh́n ngọn cây cọ xa xa,
mắt chan chứa đổ lệ, v́ đây là quê
của ngài. Là người đă ĺa bỏ quê làng
để vào Nam 20 năm trước, nay nh́n lại
cố quận qua khe vách của của xe tù, bảo sao
mà cầm được nước mắt! Cha ơi,
con xin chia xẻ và cảm thông với mối xót xa
của Cha. Tối
đến, chúng tôi đến một nơi không
biết là đâu, đèn đuốc lu câm. Chúng tôi
bị lùa xuống, và hối hả bị đốc
xuống một chiếc phà gỗ nhỏ. Chiếc phà
được kéo bằng giây luộc xuống một
khúc sông khá rộng. Đó là phà Yên Bái vượt qua
song Hồng. Chúng tôi bị tách rời thành nhiều toán,
và rải rác phân phối khắp miền Tháp Bà, Lào
Kay, Tuyên Quang, Cao Bằng, Sơn La … Nhóm chúng tôi
được chất lên những xe Molotova và vất
vả đoàn xe rồng rắn vượt qua núi đồi.
Thế là hết, chúng tôi sẽ được đem
đi dấu ở những đỉnh núi miền Thượng
du, để rồi như bầy cua bị nhốt cùng
chung một rọ, lần hồi găy gọng găy càng
chết lần chết ṃn. Đang
mệt mỏi ngủ gà ngủ gật thi có tiếng quát:
“tới rồi, tất cả xuống hết, khẩn
trương tập họp …”. Th́ ra trời vừa sáng,
một khoảng đất trống đầy sương
hiện ra trước mắt, chung quanh núi đồi,
không thấy nhà cửa, trại lều … thật là
hoang vắng, sơn dă. Quá xa lạ, ngỡ ngàng, chúng tôi
như con người máy, lũ lượt làm theo
lệnh. Tối đến chúng tôi ngă người
xuống đất đầy cỏ gai và sâu, ngủ
một giấc không hồn. Sáng
hôm sau thức dậy, chúng tôi thấy c̣n sống v́ c̣n
nhận ra được mặt mày thân thương
của bạn tù. Từng cuộn khói bốc lên sau các
ngọn đồi chung quanh. À, bạn hữu ḿnh cũng
được phân phối quanh đây. Chúng
tôi thuộc Trại 6, Liên trại 4 của Đoàn 776.
Tất cả có 9 trại rải rác ở quận Phú Yên,
tỉnh Sơn La, nghe nói cách Điện Biên Phủ 60km
về phía tây. Sau
3 tháng ổn định nơi ăn chốn ở, có
nghĩa là làm từ con số không, với 2 bàn tay
trắng chúng tôi đă xây dựng được
trại, láng, và hang rào tre chia cách các khu. Chúng tôi
sống như những người tiền sử, không
đèn đuốc, không dụng cụ, không 1 cây đinh,
khúc sắt. Tuy
nhiên việc tẩy năo không hề thiếu vắng. Nào
họp tổ, b́nh bầu, đấu tố (vâng đấu
tố) nghĩa là kiểm thảo, tố cáo, vạch
mặt, chửi bới, không thiếu mục nào. Những
thức ăn chúng tôi dấu được sau
nhiều đợt khám xét cạn dần. Cái đói, và
bịnh đă xuất hiện. Trời
đă cuối thu, se sẽ lạnh. Từng cơn gió ào
ào thổi qua ngọn cây. Chúng tôi bắt đầu
nếm mùi giá lạnh thượng du Bắc Việt. Ngay
sau khi đến đây được một tuần,
một sáng đang tập họp nhận lệnh công tác
lao động trong ngày, một láng báo cáo vắng
mặt 4 anh. Anh em xầm x́ “trốn trại!”. Ai
nấy đều cảm phục nhưng đầy lo
âu cho 4 anh, thầm mong các anh thoát khỏi. Bảy
ngày sau, bốn anh ḿnh mẩy sưng vù, máu me, cùm trói
như con vật, bị vệ binh kéo xệt về
trại, và bị giam nhốt riêng ra. Về sau bị
chuyển nào biết nơi nào. Cả năm sau, anh B,
một trong 4 anh, v́ bịnh phong, được
chuyển về Bịnh viện Yên Bái kể lại.
Ngay ngày đầu, các bạn bàn với nhau và
quyết định trốn trại. Các anh tích trữ
khẩu phần ăn, muối, phơi khô. Tạm đủ,
các anh rời trại vào buổi tối lối 11
giờ, tương đối dễ, v́ vệ binh canh gác
sơ sài. Nhóm gồm có một anh Thiếu tá Biệt
Động Quân, trước có tham dự trận Điện
Biên Phủ. Anh hướng dẫn đêm đi, ngày
nghỉ, hướng về phía tây, cố vượt
biên giới Việt-Lào, để t́m đường
đi Thái Lan … Đến ngày thứ năm bị
lộ v́ quá đói, đào trộm sắn (khoai ḿ)
của người Mường. Họ phát giác sắn
bị đào, nên săn đưổi các anh ráo
riết và bao vây các anh ở một ngọn đồi.
Với giáo mác gậy gộc, họ lăn xả vào các
anh, đánh đập, đâm chém, vừa la hét:
“giết, giết bọn hút máu ăn thịt này, chính
bọn này đă hăm hiếp, giết người, đốt
làng xă của họ” Toàn là những luận điệu
tuyên truyền của nhà nước với người
thiểu số. Sau
một hồi, tưởng là các anh đă chết,
họ mới giao nộp cho công an xă và bọn này
giải giao các anh cho bộ đội trại. Đó là
trận đào thoát thất bại đầu tiên mà chúng
tôi chứng kiến. Một
buổi sáng, chúng tôi gồm khoảng 14 anh em gồm y,
nha, dược sĩ được chọn từ 9
trại về 1 nhà tráng xi măng duy nhất của liên
trại để thành lập bệnh xá. Nhà này nghe nói
trước là nhà tù Sơn La của thực dân Pháp,
giam cầm các lănh đạo cộng sản đầu
thập niên 40. Cùng với 5 anh em được
chuyển về từ các trại khác, chúng tôi bắt
đầu vào việc chuyển nhà giam thành bệnh xá.
Từ tay không, và không phải tay nghề,chúng tôi đă
dựng nên được một nơi mà chúng tôi hy
vọng các anh em đồng cảnh tù bị bịnh
sẽ t́m được sự chăm sóc, hoặc ít
nhứt là sự an ủi cảm thông, v́ chúng tôi
thừa biết phương tiện y tế và thuốc
men kể như là số không. Quả
vậy, sự hiện diện của chúng tôi, những
người áo trắng, giữa cảnh tù tội,
đă đem lại cho anh em tù một nguồn an
ủi. V́ trong mấy tháng vừa qua, một số chúng
tôi đă giúp nhiều đồng đội trong cơn
bệnh hoạn, ngay cả đă giải phẫu
một, hai trường hợp cứu cấp khá thành
công, cán bộ, bộ đội cũng lén lút đến
nhờ chúng tôi cứu chữa, hoặc xin thuốc
“con nhộng” (Aureomycine, Terramycine …). Phần nào chúng
tôi cũng có được sự nể nang âm
thầm, nhưng vẫn phải chịu chung sự đối
xử nhục nhă, thô bạo của kiếp tù.
Nhứt là trong những buổi học tập chính
trị không thể thiếu. IV-Lên
đồi: xin nhận nơi đây là quê hương. Anh
em bịnh hoạn từ các trại được
chuyển về. Có ǵ đâu để chữa trị,
nhưng ít nhất cũng không phải lao động. Và
cái chết đầu tiên xảy ra: đó là một
anh Trung Tá bị ung thư phổi giai đoạn
cuối. Thật đau ḷng. Tuyệt vọng không
phải v́ không thuốc chữa, nhưng mộng ước
được chết giữa người thân yêu xa
vời, mặc dù đă nhiều lần xin cứu xét. Anh
ra đi! Một kiếp người. Ai nấy đều
tủi cho số phận của anh và cũng của chính
ḿnh. Anh
thứ hai là một trung tá của Quân đoàn II.
Anh được chuyển đến để làm lao
động cho bệnh xá. Anh rất yếu, bị “xơ
gan cổ chướng” (Cirrhosis), anh cùng tôi nằm
gần bên nhau. Anh rất hiền lành. Tôi không nghe anh
than thở, xin hỏi thuốc men. Một tối, anh
mửa ra máu và ra đi. Tôi tiễn người bạn
tôi lên đồi. Nhưng
có một anh khi ra đi đă gây trong ḷng tôi một
nỗi buồn sâu đậm. Anh đến bịnh xá
v́ có vẻ khác thường: thầm lặng và
biếng ăn. Một đêm anh lên cơn làm náo động
cả bịnh xá. Vệ binh ôm súng lên c̣ la hoảng:
“tù binh thoát trại”. Chúng tôi giữ yên được
anh. Sáng ra, ban quản giáo ra quyết định cách ly
(nhốt riêng) anh. Anh hoàn toàn mất trí. Tôi t́nh
nguyện săn sóc anh. Tôi sống với anh 24/24 ở
một cḥi cách ly. Giữa mùa đông giá lạnh,
sống và chăm sóc một người lú lẫn
nặng không phải dễ. Ban ngày đút cho anh ăn
chiếm cả th́ giờ. Tối lại, anh thường
lên cơn, v́ bóng tối khiến cho anh hoảng sợ,
tôi phải canh anh suốt canh dài. Cả một sự
kiên nhẫn, ân cần giữ anh sống được
qua ngày. Rồi anh yếu dần và ra đi sau một cơn
động kinh. Tôi chăm sóc anh như một người
thân. Anh đi rồi, tôi buồn lắm. Một
buổi tối, cận Tết, chúng tôi nhận lệnh
đón một bệnh nặng từ trại 9 chuyển
đến. Đến 4 giờ sáng anh mới được
vơng đến (anh nằm trên vơng do hai anh gánh đến).
Anh bị bịnh viêm màng bụng (peritonitis) đă 2 ngày,
t́nh trạng rất nguy kịch. Cán bộ ra lệnh
“phấn đấu giải phẫu!” Trại mộc
gần bên “khẩn trương” đóng bàn giải
phẫu. Anh V.T.A (cựu Thứ trưởng Bộ Chiêu
Hồi) được lệnh đi bệnh viện Phú
Yên (cách 7-8 km) xin tiếp liệu y cụ và dược
phẩm cần thiết cho cuộc giải phẫu.
Phải đến 2 giờ chiều anh mới về
trại. Anh kể, anh phải chờ, Bác sĩ bệnh
viện đang bận giải phẫu. Và bác sĩ
quả thật đang mổ heo, v́ ngày hôm nay là ngày
bệnh viện được cấp 1 con heo. Bác sĩ
mổ thịt chia bán cho nhân viên. Anh A. mang về
được một chai nước cất, 2 ống
ether, 2-3 cuộn bang. Thế thôi. Chưa
có ca giải phẫu nào mà có nhiều bác sĩ, dược
sĩ tham dự như vậy, và cũng không có
cuộc giải phẫu nào mà y dụng thô sơ đến
như thế. Đánh ngủ bằng đổ ether qua
một lớp bông g̣n, bịt ngay lỗ mũi. Cuộc
giải phẫu rất đơn giản. Thành bụng
lép xẹp, không mỡ, bị rạch mà không chảy máu
(có máu đâu mà chảy). Ổ bụng có mủ,
một cọng rễ (có lẽ là rễ một
loại rau dại) đâm thủng thành ruột non
mỏng dánh. Phải nương tay lắm mới khâu
được lỗ thủng. Và cũng vừa lúc
bệnh nhân cựa quậy ra khỏi cơn mê v́ đă
hết ether từ lâu. Thành bụng không khâu, sợ
bịnh nhân chết v́ quá yếu, chịu đau không
nổi. Hai
ngày sau, khi chúng tôi lao động trên núi, có tiếng
kẻng từ Bịnh xá gọi về. Qua khỏi
cổng, chúng tôi nghe: “Gi. đă địt được
rồi!” Ai nấy đều mừng, đường
ruột của anh Gi… đă hoạt động. Và chúng
tôi có được những ngày Tết ấm cúng bên
cạnh đống củi khô cháy rực giữa pḥng,
với sự b́nh phục của anh Gi., một Gi.. ,
cựu Tiểu đoàn trưởng Biệt Động
Quân vui tính và rất tiếu. Sau
Tết riêng ḿnh tôi bị “biên chế”. Tôi người
trẻ nhứt, bị tách rời để đổi
đi Yên Bái. Anh em ái ngại nh́n tôi trèo lên xe Molotova
chở đầy bộ đội xa rời liên
trại. V-Bệnh
viện Yên Bái, Đoàn 776. Vào
khoảng trưa, tôi qua phà Yên Bái, và được
đến một ngọn đồi, mênh mang giữa
bao ngọn đồi- Nơi đây tôi gặp lại
Ng. Tr. B., Trung tá công binh trước cùng nằm bên nhau
ở trại tù Cần Thơ. Anh và một nhóm anh em
được điều động đến xây
dựng một lều tạm để bắt đầu
xây dựng bịnh viện xử dụng chung cho trung
đoàn 776 và tù cải tạo. Lần
hồi tụ tập thêm một nhóm anh em hạ sĩ
quan Cảnh sát Quốc gia, trước bị giam ở
Phú Quốc ,và 3 bác sĩ tuyển mộ từ các
trại Tháp Bà, Tuyên Quang, Nghĩa Lộ. Chúng
tôi lại xây dựng từ con số không, với 2 bàn
tay trắng. Đến khi vào sinh hoạt, chúng tôi có 1
khu cho chỉ huy trại, khu cho cán bộ quản giáo,
khu giải phẫu và điều trị cho đoàn 776,
khu dành cho bệnh nhân cải tạo, một nhà chờ
xuất viện, một khu nhà bếp, một gian nhà cho
tù cải tạo phục vụ bệnh viện, và
một khu cách ly. Chúng
tôi xây được một cái giếng ciment, và
những cầu xí 2 ngăn. Không
bao lâu, bệnh viện lác đác nhận bịnh,
bộ đội, cán bộ riêng, tù cải tạo riêng.
Ba anh bạn bác sĩ được phân phối
phục vụ Bịnh viện, cùng với một
số anh em già yếu. Tôi được sắp cùng
với số c̣n lại để lao động
nặng. Ngoài ra, có một số được chia ra
để làm mộc, đóng bàn ghế, rương ḥm
cho cán bộ, và một số khác phụ trách trồng
trọt tăng gia nuôi cả trại. Tôi
ở đây từ đầu năm 1977 đến
cuối năm 1978. Nơi đây tôi chứng kiến
vực thẳm của tù đầy và sự vinh quang
của sự đổi mới. VI-Hai
bạn trong số bạn hữu lại ra đi. Đúng
vậy, thời buổi này là tệ hại nhất.
Thiếu ăn, rét lạnh, và dịch bệnh tàn phá chúng
tôi không thương tiếc. Không
thăm nuôi, không tin tức gia đ́nh, lao động
nặng, khí hậu khắc nghiệt đă quật ngă
chúng tôi. Chúng tôi là những xác không hồn, những
sinh vật ḅ bốn chân, lê lết ba chân. Anh em chúng tôi
thi nhau ra đi. Riêng tại bệnh viện, những anh
em may mắn được chuyển đến, để
rồi cũng tiếp tục ra đi. Làm ǵ được?
thức ăn không có, lấy ǵ có thuốc mà cầm
cự. Chúng tôi hết đào huyệt rồi lại
đào mồ. Chúng tôi liên tục vác các anh em chúng tôi
nằm trong 6 tấm ván mục sơ sài xuống đồi.
Có lắm lần đường đồi trơn trượt,
chúng tôi chúi nhủi, ḥm các anh rớt xuống, lăn
đè lên chúng tôi. Đâu đó có tiếng cầu
nguyện: “Quư anh ơi, xin ra đi thanh thản,
chớ bận bịu mà ôm chúng tôi làm ǵ, tội chúng
tôi lắm …” Tôi
nhớ rơ hai trường hợp. *Anh
Ph Q T, Trung tá giải ngũ. Anh
bị sơ gan cổ chướng. Bụng to như
trống chầu, da bụng mỏng tanh. Trong gói quà mà tôi
nhận được lần duy nhất từ khi ra
Bắc, có một gói bột Bích Chi. Tôi đem tặng
anh, anh không nhận, tôi phải thuyết phục anh:
“anh dùng đi,cái này rất tốt, v́ theo phương
pháp dưỡng sinh Nhật Bản, bột gạo
lức có rất nhiều chất bổ dưỡng
trị được sơ gan”, Anh nhận, nhưng
anh biết rơ t́nh trạng sức khỏe của anh.
Mộtđêm, anh ộc ra từng bụm máu. Tôi
ngồi bên anh, giữ anh ngồi để máu không tràn
vào phổi, anh th́ thào: Bác sĩ cho tôi nằm. Anh
nằm xuống, gương mặt xanh xao, nhưng
tỉnh táo: Bác sĩ, tôi yên tâm có bác sĩ bên
cạnh, tôi chết không tiếc nuối. Bác sĩ có
được thả về, nhớ ghé nhà tôi báo tin dùm. -Anh
T, tôi xin hứa. Anh có muốn tôi rửa tội cho anh
không ? -Xin
Bác sĩ giúp tôi. -Tôi
rửa tội cho anh Phêrô T, Nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần. Anh
T lạnh dần và ra đi. *Anh
Trung Tá L V Ng, người hùng Tống Lê Chân. Anh
đến bịnh viện từ lúc bắt đầu.
Anh bị bướu ác tính ṿm họng, di căn qua các
hạch ở cổ và ṿm họng, bóp nghẹt khí
quản và thực quản. Anh thở và ăn uống
rất khó nhọc. Dáng anh rất thư sinh, một thư
sinh rất ốm đang vật lộn với căn
bịnh ngặt nghèo. Sáng nào cũng vậy, anh để
cả tiếng đồng hồ để cố
khạc nhổ đờm dăi ứ đọng trong
cổ, để rồi dùng cả buổi để
cố gắng nuốt thử hạt bo bo. Nếu có h́nh
ảnh kiên trường chiến đấu cùng tử
thần, th́ đó là h́nh ảnh của anh. H́nh ảnh
thảm thương của cuộc chiến đấu
vô vọng trong thầm lặng anh dũng (gémir, crier, ce
n’est que lâche!), anh kéo dài được hơn một
năm. Ngày cuối của anh là một đêm rất
lạnh. Tôi ngồi cạnh anh, anh rất yếu, khó
khan lắm mới rót được một hơi
mỏng manh. Anh bảo: “chắc … tôi …
chết”, tôi ái ngại xoa bóp lưng anh, tôi không
biết nói chi. Chôn
cất anh xong, nhớ lại câu trối của anh:
“chắc tôi chết!”, tôi mới hiểu sự
quyết tâm của anh chống lại cái chết để
anh về với gia đ́nh, cho đến hơi thở
cuối cùng anh mới : “chắc tôi chết”. Anh Ng
ơi, người chiến sĩ già không bao giờ
chết, họ chỉ thoáng qua thôi. VII-Những
Tướng VNCH đă qua Bịnh viện Yên Bái. *Chuẩn
tướng Ph H Th, Cục trưởng cục Quân Y
đến bịnh viện không phải để
được điều trị, mà chỉ để
tạm trú qua đêm, để hôm sau xuôi về Nam, có
lẽ để được phóng thích. Chúng tôi
rất vui mừng, “hồ hởi” v́ ông là người
đầu tiên thoát khỏi thiên đường
Cộng sản. *Thiếu
tướng Đ V Qu, cựu Tư lệnh Lực Lượng
Đặc Biệt đến bịnh viện v́ bị
đau dạ dày. Là Tướng lănh của Quân lực
VNCH, ông không bao giờ hạ ḿnh tuân lịnh nội
quy bịnh viện: nghiêm chỉnh đứng chào cán
bộ mỗi khi họ vào pḥng. Bọn nhóc t́ vô cùng
tức giận, hoạnh họe chửi rủa cộc
cằn. Chúng liền trả ông về trại cũ. Có
sao, ở đây cũng chẳng có thuốc men, khác chi
ở trại. Tôi được biết ông mất
một thời gian sau đó, và cũng chẳng có
thuốc thang ǵ. *Thiếu
Tướng Ng X Tr, Bộ Tổng Tham Mưu, được
đưa đến bịnh viện trong cơn đau
đớn tột cùng của Acute Glaucoma Crisis (cơn
đột phát tăng nhăn áp cấp tính). Ông đến
không đúng lúc v́ lúc đó bịnh viện đang có
một phái đoàn y tế cao cấp đến công tác,
phổ biến và nâng cao tŕnh độ y-học cho cán
bộ bịnh viện. Họ đem trường
hợp của ông đễ giảng dạy và phô trương.
Họ đem ông vào pḥng mổ, và biểu diễn tài
giải phẫu, bằng mổ và móc mắt ông. Đây
là cách điều trị siêu hạng Xă hội chủ
nghĩa. Từ nay một Tướng VNCH nhờ
được ta cứu, nh́n vinh quang Cách mạng
với một con mắt đầy cảm phục ! *Y
sĩ Thiếu Tướng V Ng H, cựu Cục trưởng
Cục Quân Y đến v́ bị sa bẹn (hernia).
Sợ trường hợp của Thiếu tướng
Tr tái diễn, anh bạn Bác sĩ Ph T L nài nỉ xin
được làm phụ mổ. May phước, Tướng
H được tai qua nạn khỏi. Ông được
xuất viện trả về trại cũ sau khi
được mổ khá b́nh thường. *Một
ông Tướng của Thống Tướng Tưởng
Giới Thạch, t́nh nguyện phục vụ cho Quân
Lực VNCH được đưa đến bịnh
viện v́ bị đái ra máu do nhiếp hộ
tuyến bị sung. Ông rất hề hà, nói không rành
tiếng Việt. Không thuốc men ǵ, trả về
trại thôi. VIII-Một
tù cải tạo hào hùng- Một bạn vàng. *Ở
bên trại 4 Hoàng Liên Sơn có một cải tạo viên
rất nổi tiếng. Từ Nam ra Bắc, anh có
cuộc sống rất hào hung, dọc ngang trời đất,
trên đầu nào có ai. Anh sống rất hiên ngang, coi
bọn cán bộ không ra ǵ. Anh có cái hay là lúc nào anh cũng
thoát khỏi đ̣n thù của bọn họ. Đó là
Tiểu Đoàn Trưởng Nhẩy Dù Ng L. Tôi
được kể lại khi ở trại Sơn La,
một sáng ra ngoài lao động, đội đang
đi th́ có một thiếu phụ người Dao (đồng
bào Dao rất nổi tiếng v́ cái đầu tóc
rất bù xù, một năm mới tắm gội
một lần) đi ngược chiều. Anh L bỏ hàng
ngũ và bước tỉnh bơ theo gót người
đẹp và chung sống được một
tuần. Nhớ bạn bè, anh lại trở về
trại, không nghe nói anh bị h́nh phạt ra sao, chỉ
biết một thời gian sau, anh được
chuyển đến bịnh xá của các bạn đồng
nghiệp cũ của tôi, v́ chảy máu hậu môn (trĩ).
Các bạn đồng nghiệp t́m cách chuyển anh
về bịnh viện Yên Bái. Anh có đến gặp tôi
và chuyển lời chào của các bạn cũ. Một
thời gian sau, anh xuất viện, nằm ở Khu
chờ đợi trại cũ đến lănh về.
Một bữa lúc 4:30 giớ sang anh âm thầm ra
trại, đem theo quần áo bạn bè ra chợ Yên Bái
đổi lấy thức ăn, bánh trái và ăn
uống suốt ngày thoải mái. Đến 11 giờ
đêm anh lục tục đi về. Trong nháy mắt,
anh quăng phắt tất cả bánh trái cho anh em,
vừa đúng vệ binh chạy đến bắt và c̣ng
anh đi. Sáng sớm tôi ra giếng rửa mặt,
gặp anh bị c̣ng trói phơi người trong đêm
lạnh. Tôi nh́n anh đầy thán phục, anh nh́n tôi
mỉm cười coi như tṛ chơi. Anh thật là
một hảo hán trong cơi lao tù. *Đồng
thời ở bịnh viện Yên Bái có một anh
rất được mến mộ, anh Đại Úy
Thiết giáp T.T.V. anh có dáng như môt ông Địa,
tay chân, bụng, mặt no tṛn, sưng phù. Cái miệng
như lúc nào cũng cười toe toét. Anh bị viêm
thận vô niệu, mỗi ngày chỉ đái được
vài giọt nước đỏ ḷm. Và cũng không có
thuốc men ǵ cả. Trong gói quà tôi nhận được
có ít viên B1 nội hóa, tôi đem cho anh uống. Do
sự trùng hợp ngẫu nhiên, trong đêm anh đi
đái được và đái rất nhiều. Sau 2 ngày,
anh như ông già Michelin bị x́ hơi thành một anh
hề Hardy ốm ḷi xương. Chúng tôi trở thành
đôi bạn đầy cảm thông. Chúng tôi không nói
ǵ với nhau nhiều, nhưng mỗi lần gặp
nhau chúng tôi thấy vui trong ḷng. IX-Một
sự hồi sinh. Thời
gian ở bịnh viện Yên Bái là thời gian khổ tâm
vô cùng. Tôi t́m lại nguồn an ủi bằng cach ôn
lại trong đầu, những bài giảng đạo
khi tôi c̣n học trường Lasan Taberd. Một ông Trung
tá cho tôi mượn đọc một cuốn sách Kinh
mà ông dấu được. Hằng đêm tôi đọc
kinh thầm và suy gẫm lời Thánh kinh. Lần hồi
trong tôi xâm nhập ḷng thương xót và hoài niệm
về T́nh Thương. Cái đói lạnh, cái khổ
thể xác và tinh thần vẫn c̣n đó, nhưng tôi
cảm thấy dễ chịu hơn. Chung quanh tôi có
rất nhiều gương của long tốt, t́nh người.
Bọn tôi không ai có thể thoát chết mà về
được với gia đ́nh nếu không có sự
giúp đỡ, chia xẻ, săn sóc và an ủi của
anh em đồng cảnh tù. Về sau tôi được
chứng kiến nhiều cảnh cảm động
của những cụ già, những thiếu phụ xanh
xao ốm yếu, những trẻ thơ gầy guộc
ngơ ngác, lặn lội từ xa, gồng gánh
những gói quà ra nuôi và cứu chữa anh em chúng tôi.
Chính t́nh yêu của gia đ́nh đă vực chúng tôi
khỏi vực thẳm của tử thần. Tôi
cũng đă chứng kiến, trong cảnh lao tù
thiếu thốn, một số trong anh em chúng tôi đối
xử đầy t́nh người với chính những
kẻ đă đối xử chúng tôi như kẻ thù,
và chúng tôi cũng giúp đỡ được đồng
bào trong những trường hợp hy hữu. Ngược
lại, không ít trường hợp chúng tôi cũng
nhận được ḷng tốt của cán bộ,
vệ binh và đồng bào, tuy là lén lút. X-Một
thời buổi đáng ghi nhớ: sưởi ấm
ở Quảng Ninh. Thuở
đó, vào cuối năm 1978, có tin đồn có
vấn đề biên giới Việt-Trung. Đoàn 776 có
dấu hiệu “biên chế”. Khu dành cho Đoàn
bị giải tán. Bên cải tạo th́ có nhiều trường
hợp chuyển trại. C̣n lại một phần
nhỏ để thanh toán trại và 40 anh em bịnh nhân
quá yếu không thể chuyển trại được.
Tôi được trại “bố trí” để lo
cho 40 anh em này để chuyển tới một địa
điểm mới. Lần
đầu tiên trại mướn 2 chiếc xe dân
sự, loại Volswagen 14 chỗ ngồi, chở chúng tôi
về Quảng Ninh, một trại tù dân sự do Công
an quản lư. Chúng tôi bị nhốt trong một pḥng
gạch có 2 hàng băng xi măng, có từng trên
bằng gỗ làm giường ngủ. Nơi đây có
2 cụ già rất yếu, c̣n xót lại sau đợt
chuyển trại của các viên chức cao cấp
chế độ Cộng ḥa, trong đó có Đại tá
V. V. C cựu Đô trưởng Saigon. Một cụ là
chủ đ̣ Thủ Thiêm, một cụ là Khóm trưởng.
Hai cụ v́ bị thù oán cá nhân với bọn cách
mạng 30 địa phương mà bị đày ra
đây. Hằng
ngày một trung úy công an với một tù h́nh sự
đến mở cửa sắt, điểm danh, cho tù h́nh
sự đem nhiều bó tre đến để cho chúng
tôi đan rổ rá. Chiều đến, ông đến
kiểm điểm thành quả lao động trong ngày
và nhốt chúng tôi lại vào “chuồng” và
đương nhiên là không có thuốc men cho mỗi ai.
Ông chỉ định tôi chịu trách nhiệm anh em. Những
ngày đầu chúng tôi rất khốn khổ, chia ra
từng nhóm riêng rẽ, và có xảy ra hục hặc
tranh chấp. Một bầu không khí nặng nề khó
chịu bao trùm chúng tôi, ai nấy nặng chĩu ưu
tư, lo sợ. Cảnh thế này, th́ khó tránh
được điều tệ hại nhứt. Chúng
tôi cùng quyết tâm với nhau: -Không
có thuốc, th́ phải cố gắng tránh cho bịnh
không trở nên trầm trọng. -Không
ăn uống đầy đủ, th́ phải tiết
kiệm năng lượng. Làm
sao ? -Lao
động tối thiểu. -Ngủ
nhiều để dưỡng sức, v́ mất
ngủ sẽ hao ṃn sức khỏe rất nhanh. -Tránh
buồn phiền ưu tư và gây gổ. -Nâng
cao tinh thần bằng vui ca, và tự hào về đời
sống “ngụy” của chúng ḿnh. Từ
đó chúng tôi làm việc cầm chừng. Nhiều anh
sinh hoạt làm thơ, học đờn, sáng tác
nhạc. Tối lại chúng tôi đờn, ca hát
nhạc vàng, kể nhau thành tích quá khứ, truyện chưởng
và truyện tiếu lâm. Và chúng tôi đi vào giấc
ngủ lúc nào không hay. Chúng tôi có cuộc sống
bất chấp kỷ luật và nội qui trại (cùi
rồi đâu sợ lở). Cũng may, ông trung úy và
cả trại dường như bỏ bê chúng tôi. Chúng
tôi đâu có hay rằng chúng tôi được đoàn
776 chuyển đến đây để tạm trú,
trong những ngày tháng giá lạnh của mùa đông. Chúng
tôi đă qua được những ngày lạnh giá mùa
Giáng Sinh và mùa Tết 78-79 đáng ghi nhớ nhất, v́
chúng tôi đă sống như con người của chúng
tôi trước năm 75. Không một ai trong chúng tôi
bị trở bịnh và mệnh hệ. XI-Trại
Mễ Nam Định, rửa tội và về Nam. Ra
xuân, vào tháng 4/79 chúng tôi được trả về
trại Nam Hà do công-an quản trị. Chúng tôi
được đưa đến trại Mễ,
trại bịnh của hệ thống trại tù Nam Hà.
Trại này ở ngoại ô Phủ Lư, Nam Định,
cạnh một nhánh của sông Mă. Trại có rất
nhiều anh em cải tạo bệnh nặng từ các
trại từ Nam Hà chuyển đến. Hằng đêm
tiếng c̣i hú của đoàn tàu xuôi nam làm không ít anh
em thức giấc đêm dài. Tại
đây chúng tôi bắt đầu được gia
đ́nh ra thăm nuôi, và trại cũng bắt đầu
kinh doanh làm tiền bằng cuối tuần nấu
phở bán cho cải tạo viên, hoặc trao đổi
lén lút hàng hóa. Và cũng tại đây bắt đầu
có những đợt phóng thích. Mỗi lần thấy
một số trong 40 anh em chúng tôi được về
xum họp cùng gia đ́nh, trong tôi có một cảm giác
mừng vui khó tả. Đặc
biệt nơi đây, cha H (tô gọi thân mật như
vậy) linh mục ḍng Đồng Công đă rửa
tội cho tôi dưới sự chứng kiến của
một vài anh em Công Giáo. Ban
trật tự sắp xếp tôi làm công tác y tế cho
trại. Đó là mỗi sang sớm khám những anh em
khai bịnh để khỏi lao động. Đă nói
nơi đây là trại bịnh, nhưng ban điều
hành lại vẫn bắt anh em lao động, dù là
chẳng có ǵ, nhưng mục đích vẫn là đày
ải. V́ vậy anh em nào không muốn lao động th́
tôi cứ ghi thuận “miễn lao động”, cùng
lắm th́ tôi sẵn sàng bị đuổi, trỏ
về cùng với anh em lao động. Rồi
một ngày tôi được kêu lên trại “làm
việc”. Tôi bị bắt kư vào một tờ
giấy khai tôi không bị hành hạ ở trong các
trại cải tạo. Hôm
sau, một ḿnh tôi bị chuyển trại. Tôi buồn
và hoang mang, nhưng sau hàng rào, sao lại có một vài
anh em vẫy tay chào tôi vui vẻ ? Tôi
được đưa vào trại A, Nam Hà vào ngày
lễ 2/9. Gặp lại một vài bạn các trại tù
cũ, tôi được biết nơi bịnh xá
trại này đă đă quy tụ các anh em đồng
nghiệp đă ở cùng chung trại ở Sơn La. Sáng
hôm sau, chúng tôi độ 14 người được
tập họp ở một khoảng sân trống. Nh́n
lại toàn là anh em chúng tôi, đều là những Y Nha
Dược sĩ của các trại tù miền Bắc.
Một cán bộ tuyên bố: “các anh được
tự do, chúng tôi sẽ đưa các anh ra ga Hàng
Cỏ, Hà Nội. Chúng tôi sẽ trao các anh vé tàu
lửa và tiền lộ phí. Kể từ đây chúng tôi
hết trách nhiệm về các anh”. Chỉ
có vậy, vào tù cũng không có lệnh, ra tù chỉ là
lời nói ! Tôi
giữ lại một kỷ niệm với Thủ đô
Xă hội Chủ nghĩa bằng ăn một tô
phở ở chợ Đồng Xuân. Tưởng là bát
phở nổi danh của Hà Nội 36 phố phường,
nhè đâu là tô phở nhạt nhè xă hội chủ nghĩa
mà ngay cả tôi, một tù cải tạo đói khát cũng
không thưởng thức nổi ! XII-Từ
tù nhỏ ra tù lớn. Sau
4 ngày 5 đêm th́ chúng tôi cũng về được
đến Sài G̣n (à quên Hồ chí Minh) thân yêu. Ga B́nh
Triệu hơi vắng. Chúng tôi xuống sau cùng một
vài bạn được gia đ́nh đón rước.
Rồi tất cả cũng rời đi, c̣n lại tôi
và một anh bạn nha sĩ trẻ, không tiền, không
thân nhân. Một bác phu xích lô máy đồng ư chở
chúng tôi về nhà, trả tiền sau. Mà
nhà nào? Nhà tôi quanh chợ Bà Chiểu, gần rạp hát
Cao Đồng Hưng nay c̣n đâu ? Thôi th́ về nhà
ông bà già vợ ở đâu đó ở Hóc Môn. Trong
thơ duy nhất mà tôi nhận được, ba má nhà
tôi bị đuổi ra khỏi nhà ở trong nha Mục
Súc, và có về Hóc Môn, ở ấp Cây Sộp làm
trại nuôi heo. Bác xích lô máy chở chúng tôi qua
Hạnh Thông Tây, đến chợ Cầu. Nơi đây
có vài trại nuôi heo, và hỏi thăm trại của
bác sĩ Tư. Và đây rồi, chúng tôi cũng
tới được: “Ba má ơi, con về đây
!” Tiến
chó sủa rân, một ánh đèn dầu bật sang. Em
vợ tôi bật cửa chạy ra. Vào nhà, ba má già nua
thấy rơ, nh́n hai chúng tôi ngỡ ngàng và thương
hại. Hai
tin đang chờ tôi. -Má
tôi và cả gia đ́nh bên tôi đă vượt biên và
hiện đoàn tụ cùng một người chị và
một người anh đă ra đi từ 4/75. Ngoại
tôi 84 tuổi cũng đi theo vượt biên, bà
thở hơi cuối cùng khi vừa đặt chân trên
đảo Bidong. Bà đă hy sinh cho con cháu được
sống. Ngoại ơi, ngoại … ơi. -Tin
thứ nh́ là nhà tôi và thằng con trai 10 tuổi đang
ở miền Bắc, t́m cách thăm nuôi tôi. XIII-Một
thiếu phụ, 2 con giữa giữa bầy thú dữ. Nhà
tôi là một trong 2 bác sĩ chế độ cũ c̣n
lại phục vụ cho Bịnh viện Long Xuyên. Nhà tôi
phụ trách ngoại khoa và giải phẫu, làm việc
rất bận rộn và vất vả. Cùng với toàn
thể nhân viên chế độ cũ, nhà tôi
được ban giám đốc và lănh đạo
đối xử như những công dân hạng hai
(second class citizen). Vào thời bao cấp, ngăn sông
cấm chợ, nhà tôi và 2 con sống rất chật
vật và thiếu thốn như mọi người. Không
được tin tức của tôi là nỗi đau ḷng
luôn luôn canh cánh bên ḷng. Nhà tôi cằn cỗi và
tiều tụy trông thấy. Đă
vậy có lắm lần bọn cách mạng t́m cách
lại ve văn nhà tôi. Có một anh chàng đến nói
thẳng:”thằng chồng của cô sẽ không bao
giờ được thả về, có thế mới
bắt cô ở lại phục vụ bịnh viện
chớ. Cô nên sớm lo liệu cho cô đi !” Rồi
có lần hắn đến dằn một cái cộp cây
súng lục trên mặt bàn và nói: nhiều khi lời nói
không đem đến kết quả, th́ vật này
sẽ làm được việc. Cũng may, hắn ta,
có lẽ có quá nhiều thành tích, nên bị chuyển công
tác khỏi tỉnh. Khi
chuẩn bị vượt biên, má tôi cũng kêu nhà tôi
cùng đi, bảo rằng: “biết bao giờ thằng
B́nh mới được thả về !” Nhà tôi vâng
lời. Trùng vào ngày nhà tôi và 2 con đi theo chị tôi
xuống rước để xuống ghe trốn đi,
th́ nhận được lá thơ duy nhất của tôi
gởi về từ Yên Bái. Nhà tôi nẩy ra ư: nếu
nhà đi vượt biên th́ bao giờ tôi mới
được ra tù ? V́ vậy vào giờ chót nhà tôi
ở lại. Cũng may tối hôm đó, thằng con
trai lên cơn sốt, nó bị sung màng óc. Số nó c̣n
hên, nên được cứu chữa kịp thời. Có
một bạn tôi, bác sĩ Đ.H.Đ làm ở Châu
Đốc. Anh bị sắp cho đi tù v́ bị
kết tội là cố t́nh mổ chết một cán
bộ. Nhà tôi cho anh hay và nói anh khai bịnh để
chuyển từ Châu Đốc xuống Long Xuyên để
nhà tôi gấp rút chuyển anh về Bịnh Viện B́nh
Dân v́ quá khả năng điều trị. Trước
khi đi anh kịp thời bảo nhà tôi “chị ráng
lo cho thằng B́nh, chớ không th́ nó sẽ chết ngoài
Bắc” Anh
cho nhà tôi địa chỉ của bạn cùng lớp,
BS N.V.Tr, anh này là em
Thứ trưởng Bộ Y Tế, Sáu Cương. Nhà
tôi liền lên gặp anh Tr và Sáu Cương. Ông này nói
thẳng “ai tôi cũng muốn xin về để
phục vụ nghành y tế rất thiếu bác sĩ,
nhưng vừa lănh xong, vừa về, th́ hôm sau lại
đi vượt biên tuốt luốt. Coi ḱa, Bác sĩ
T.Ph.L cũng là bạn của Tr và chồng cô, tôi lănh
về xong th́ cũng vượt biên mất rồi.
Vậy cô có bảo đảm với tôi rằng
nếu được lănh ra về, anh B́nh và cô có
hứa sẽ ở lại phục vụ hay không?” Nhà
tôi trả lời ngay tức th́ “danh dự không cho phép
tôi hứa những ǵ trong tương lai thời
thế không cho tôi giữ được.” Quả
là câu trả lời quá bộc trực của dân
miền Nam. Ông Sáu Cương cảm thông và đích thân
viết một đơn xin lănh chồng và đưa
cho nhà tôi kư. Vừa
về lại Long Xuyên th́ có một cô em đến cho
nhà tôi hay; ‘em mới vừa thăm ba em ở tù ngoài
Bắc vừa về. Ba em cho biết Bác sĩ B́nh đang
ở cùng trại với ba em, và bác sĩ B́nh bịnh
rất nặng, bà bác sĩ đi thăm mau đi,
kẻo không kịp.” Tin
này loan ra mau, rất nhiều người thân đến
giúp nhà tôi chuẩn bị đồ đạc để
gấp rút ra thăm tôi. Cùng lúc trong bịnh viện có
một bịnh nhân già bị thổ huyết nặng v́
loét bao tử. Nhà tôi mổ khẩn cấp. Hôm sau trước
khi về Saigon để ra Bắc, nhà tôi vào bịnh
viện hậu phẫu thăm ông. Con ông cám ơn nhà tôi:
“nghe nói bác sĩ sắp ra thăm ông ở ngoài
Bắc, tôi có thể giúp bác sĩ mua vé máy bay.”
Thời buổi này mà đ̣i đi thăm chồng
bằng máy bay th́ chuyện không tưởng, nhà tôi không
chú ư lắm. Cho đến khi đến ga xe lửa
Saigon mua giấy, th́ được bảo rằng
phải đăng kư một tuần lễ mới có vé,
nhà tôi mới đến nhờ mua vé máy bay, và mua
được 2 giấy cho cả hai mẹ con ra
Bắc. Hôm
sau nhà tôi và thằng con trai được cô B, một
bệnh nhân cũ đến đưa ra phi trường.
Tại đây công an đ̣i phải xuất tŕnh
thẻ công nhân v́ trên vé máy bay ghi tên nhà tôi là công nhân
công ty xăng dầu đi công tác ở Hà Nội. Cô B
liền bảo nhà tôi đứng chờ, cô chạy lên
lầu và trở xuống với một cán bộ. Ông
này là cháu của cô và cũng là trưởng công an
phi trường. Ông can thiệp cho nhà tôi được
lên phi cơ. Phi cơ rất dơ và chở toán người
ngoại quốc, có lẽ là người Liên Xô. Đến
phi trường Nội Bài cũng hơn 9 giờ
tối. Phi trường rất tối và đe dọa.
Trên xe ca về Hà Nội có 2 thanh niên trẻ măng
mặc quần áo bộ đội, 2 em giúp nhà tôi
cất đố đạc lên xe, v́ quá nặng nề
cho mẹ con nhà tôi. Nhân tiện nhà tôi nhờ hai em xem
2 địa chỉ nhà tôi được giới
thiệu để tá túc trong thời gian thăm tôi, và
coi nơi nào thích hợp nhứt. Xem
xong, hai em nói “địa chỉ thứ nhất th́
ở giữa Thủ đô, nhưng ở tận
từng 5, không tiện, v́ khi chị lên đến
đó và trở xuống th́ đồ đạc
bị chúng khuân đi mất rồi. Địa chỉ
thứ hai th́ ở ven đô thành, tiện hơn và
phải đi xe hơi” Hai
em phụ chất đồ lên xe lôi, một loại
cyclo như trong Nam, nhưng không có gối có đệm. Nhà
tôi gởi hai em một chút tiền để dùng café,
hai em tuyệt nhiên từ chối: “2 em giúp chị v́
thấy đồ đạc quá nặng nề, thế
thôi”. Nhà
tôi đến nơi, th́ đây là một ngăn nhà
rấ nhỏ, phía trước chưng bán tạp hóa,
phía sau là một cái phản để làm giường
ngủ. Anh chủ nhà bảo: “cô là bạn của cô
Minh nhờ chúng tôi giúp đỡ. Như cô thấy
chỗ chúng tôi quá chật. Thật t́nh nếu cô không
ngại, chúng tôi sẽ đưa cô đến một
người bà con ở ngoại ô, cô có thể tá túc
được ? Ông
mới cho một em bé gái đạp xe hướng
dẫn bác xe lôi chở mẹ con nhà tôi đến Ngă
Tư Sở (về sau chúng tôi cố t́m đến
để tạ ơn th́ không thể t́m ra, Hà Nội
biến đổi quá nhanh). Nơi đây là một nhà
xưa, có 2 chái. Chủ nhà vui vẻ cho trú ngụ. Nhà
giữa th́ có 2 phản cho 2 vợ chồng và 2 con. Bà
cụ của chủ nhà ở 1 chái, bên chái kia th́
vợ chồng em chủ nhà ở. Hai
đứa con bị đuổi đi sang qua ở bên chái
của vợ chồng người em, để chỗ
cho mẹ con nhà tôi. Khoảng 1 giờ đêm, nhà tôi
nghe lục đục ở trước và tiếng x́
xầm. Ông chủ nhà làm ca đêm vừa về. Sáng
ra anh chủ nhà cũng tên Tường trùng tên với
nhà tôi bảo: “cô ra thăm chú ấy ở Phủ Lư,
đồ đạc nhiều quá, chuyên chở bất
tiện, nếu cô không gấp th́ chờ tôi vào sở
xin phép nghỉ, ngày mai tôi chở giúp cô vào thăm”. Hôm
sau ông cùng người em rể và một người
bạn chở vợ con tôi vào trại Mễ. Tới nơi,
sau khi chờ đợi khá lâu, th́ được cho
biết không có giấy phép thăm nuôi th́ họ không
cho thăm. Anh Tường phải năn nỉ măi th́
mới được cho biết tôi không c̣n ở
trại Mễ nữa và đă được chuyển
vào trại A Nam Hà. Anh
Tường bảo: trại A ở đường
đi Chi Nê, nhiều đồi dốc khó khăn, cô và
cháu chịu khó gh́ chặt, ḿnh ráng vào cho kịp
giờ. Khổ nhọc lắm chúng tôi cũng đến
được trại A, để được cho
biết đă hết giờ thăm nuôi. Anh Tường
lại năn nỉ: “cô em tôi ra thăm chú ấy, tôi
phải nghỉ phép để đưa cô, xin đồng
chí thông cảm cho cô thăm chú”. Nhưng
vô ích. Nhà
tôi quá mệt mỏi và thất vọng, ngồi
bẹp xuống đất, nón lá che đầu. Một
công an trẻ đến khều trên nón lá, và ngoắc
nhà tôi đến một góc pḥng. Tưởng là
họ muốn làm tiền, nhà tôi đến và
được hỏi nhỏ: “phải nhà chị có tên
Nguyễn Vĩnh B́nh không ? Anh ấy được
thả rồi”. Nhà
tôi mừng quá cho anh Tường hay, đồng
thời nói với anh công an trẻ: cho tôi tặng
lại anh các gói hàng này, tôi không rinh về được”.
Anh công an trẻ vội nói: “ấy chết, tôi mà
nhận, bọn họ biết tôi cho chị tin, th́ tôi
chết với họ”. Chúng
tôi lại trở về Hà Nội. Anh Tường
đưa nhà tôi lên Bộ Cải Tạo để xác
nhận tin tôi được thả về. Nơi đây
bảo tuần sau trở lại sẽ có kết
quả. Suốt thời gian chờ đợi, chị Tường
đưa nhà tôi đi quanh Hà Nội. Một hôm
chị bảo: “hôm nay cô Tường và cháu đi thăm
viếng lăng Bác nhé”, nhà tôi chối từ,
“Ậy, ḿnh đi để được mua mỗi
người một mẩu bánh ḿ giá rẻ, cơ”. À
th́ ra thế, người ta bỏ ra một ổ bánh ḿ
rẻ tiền để dựng được
huyền thoại long sung kính của quần chúng
với lănh tụ vĩ đại, và để tha
hồ tuyên truyền với toàn dân thế giới. Tuần
lễ đă qua, anh Tường và nhà tôi trở
lại Bộ Cải tạo và được xác
nhận tin tôi đă được thả. Trên
đường đi “đăng kư” vé máy bay, anh Tường
nói: “tôi khuyên, có chú ấy được về, cô
chú sớm t́m đường ra nước ngoài. Tôi
thấy cháu kháu khỉnh tôi thương quá, cháu
sẽ không được đi học, không có một
tương lai trong xă hội này”. Anh Tường khuyên
thành thật. Về sau chúng tôi được tin
buồn, anh Tường và con trai bị bắt khi t́m
đường vượt biên ở Hải Pḥng. Trong
xă hội độc tài, nhà tù mà chúng tôi sống qua
được là cũng nhờ vào long tốt, và t́nh
người cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Trong gian
nan khốn khó, ḷng nhân đạo được
cảm nhận sâu xa và đầy đủ nhứt. Chúng
tôi là những nhân chứng sống. XIV-Một
chuyến ra đi. Về
lại Saigon, chúng tôi quyết định, tôi sẽ
ở lại cùng với ba má nhà tôi, và nhà tôi tiếp
tục làm việc ở Long Xuyên, để tiện
việc lo vượt biên. Tháng
4/1980, chúng tôi được cố Giám Mục (N.K.Ng)
Long xuyên sắp xếp cho đi vượt biên cùng
với tổ chức của ông S. Ông này đă tổ
chức thành công nhiều chuyến. Chuyến này là
chuyến chót. Ông đem hết gia đ́nh trên 2
chiếc ghe chở khoảng 210 người. Chúng tôi ra
đi vào cuối tháng Tư. Ngày trước có going băo
cấp 4. Sáng ngày đi, trời c̣n âm u và mưa
lất phất. Chúng tôi chuyển xuống ghe lớn an
toàn, và sau 2 ngày 2 đêm chúng tôi tới Khlong Giai,
tỉnh Thái ở sát biên giới Cao Miên. Chúng tôi vào
trại tỵ nạn Liêm Sỉnh. Chúng
tôi bị trở ngại khi đi phỏng vấn
với phái đoàn INS. Chị hai của nhà tôi h́nh dáng
nhỏ thó rất khác với nhà tôi, quá nhút nhát không
chịu trả lời phỏng vấn viên, nên hồ sơ
tỵ nạn bị xếp lại. Cũng may, nhờ có
một nhân viên ṭa Đại sứ Mỹ ở BangKok
chuyển gia đ́nh chúng tôi về trại Lumfuini ở
Bankok. Tại đây, một cô t́nh nguyện viên làm thân
với nhà tôi, và dẫn ông chồng đến gặp
chúng tôi. Ông này là người phụ trách toàn chương
tŕnh định cư của Mỹ ở Thái Lan. Ông
đă giúp chúng tôi nhanh chóng hoàn tất thủ tục
để định cư ở Mỹ. Lại một
lần nữa, gia đ́nh chúng tôi đón nhận ḷng
tốt và nhiều sự giúp đỡ trên đường
đi tỵ nạn từ nhiều người, thân,
lạ, đều có đủ. Đầu
tháng giêng 1981, 11 giờ đêm, phi cơ phản lực
American Airway cất cánh, đem chúng tôi lên cao dần, nh́n
qua khung cửa, ánh đèn thành phố mờ dần,
một quăng đời tôi cũng lùi vào quá khứ,
một nỗi buồn man mác tràn dâng trong ḷng tôi. Phi
cơ càng lên cao, ánh trăng bang bạc soi sáng không
trung, ḷng tôi thầm cảm tạ ơn Chúa, và tri ân
long tốt và t́nh người mà nhiều thân, bạn
hữu và ân nhân đă tặng cho chúng tôi. Một
vài đám mây nhẹ nhàng trôi, tôi tự nhủ cố
gắng sống cho phải đạo để đáp
ứng phần nào nghĩa t́nh mà tôi chắc chắn
rồi đây trong khoảng thời gian c̣n lại, nơi
chân trời xa lạ chúng tôi sẽ tiếp tục
đón nhận. Con
tàu tiếp tục phi đạo vào không gian vô tận,
không gian của Tự Do và T́nh Người. Raleigh
vào mùa Đông, Nguyễn
Vĩnh B́nh |