Ngày
Xuân ở Biển Hồ, Pleiku
Kỳ 2 Vương Mộng Long |
Trung Úy Vương
Mộng Long và Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 11
Biệt Động Quân – 1968 Dàn quân xong, chờ cho anh Trung úy Pháo Binh Mỹ đă
đeo đôi mắt kính sẵn sàng, tôi mới nhờ
anh ta gửi đơn xin không yểm. Vào lúc hai chiếc máy bay Phantom F4
C bắt đầu oanh kích mục tiêu, tôi dẫn
một trung đội, ḍ dẫm tiến lên. Chưa tới b́a rừng, chúng tôi
lại bị đủ loại súng cộng đồng
chận lại. Tuyến pḥng thủ của
Cộng quân có lẽ c̣n kéo dài xa về hướng Tây,
dọc theo triền đồi. Lúc này đă là bốn giờ
chiều, tôi quyết định ngừng quân, không
tiến thêm. Đại úy tiểu đoàn trưởng
cho tôi hay, ông đă điều động thêm Đại
Đội 3/11 tăng cường cho tôi. Xưa nay đi hành quân nếu
tiểu đoàn chia hai cánh th́ tôi đương
nhiên là người chỉ huy Cánh A gồm hai Đại
Đội 1 và 3. Tôi chạm trận th́ Đại Đội
3/11 sẽ là đơn vị ưu tiên tiếp cứu. Sau chiến dịch Chư Pa, Đại
Đội 3/11 đă thiệt mất ông Trung úy đại
đội trưởng và ông Thiếu úy đại
đội phó tử trận. Đại đội này vừa có
ông tân đại đội trưởng là một
đại úy mới thuyên chuyển từ nơi khác
về. Ông đại úy này là người
Bắc, tôi không nhớ họ ông ta, c̣n tên ông ta th́
chỉ nghe qua một lần ai cũng không thể quên:
“Ái T́nh Nhớ”. Đại úy Ái mà hát “T́nh
Nhớ”của Trịnh Công Sơn th́ hay hết
chỗ chê! Có lẽ các ca sĩ chuyên nghiệp tŕnh bày
nhạc phẩm này đều thua xa “Ái T́nh Nhớ”
của Biệt Động Quân chúng tôi. Ngày Mùng Ba Tết tôi đă nghe ông
Ái hát ở Câu Lạc Bộ Tiểu Đoàn 11 Biệt Động
Quân trong bữa tiệc đầu năm của
đơn vị. Bữa tiệc này có mặt gần
hai chục cô em gái hậu phương, nữ sinh Trung
Học Pleime.
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 11 Biệt
Động Quân năm 1968 Từ trái: Thiếu
úy Lũy, Trung Úy Lạn,Trung Sĩ Attaya, Trung
Úy Long, Đại Úy Hester, Đại Úy
Đàm, Trung Úy Đa, Thiếu Úy Quý Trong tiếng nhạc xập x́nh,
dưới ánh đèn mờ ảo, với cái nón nâu
giắt vai, vị thế chân sau chân trước,
nửa tiến, nửa lùi, cánh tay trái buông xuôi, cánh
tay phải giơ về phía trước như cố níu
kéo một bóng hồng vừa bay đi mất, tiếng
hát của Ái cất lên, nghẹn ngào: “T́nh
ngỡ đă quên đi. Như ḷng cố lạnh lùng
…” (Nhạc TCS) Hiện thời ông Ái là đại
đội trưởng Đại Đội 3, ông ta đeo
lon đại úy th́ chắc chắn từ nay Liên Đội
Trưởng Liên Đội A phải là ông Ái. Một giờ sau, Đại Đội
3/11 theo con đường xe be từ ngoài Tỉnh
lộ 509 từ từ tiến vào. Người chỉ huy Đại Đội
3/11 là Thiếu úy Thung, tôi không nhớ họ của ông
Thung. Thiếu úy Thung là sĩ quan độc nhất
của Đại Đội 3/11 sống sót sau trận Chư
Pa. Tôi hỏi Thung, – “T́nh Nhớ” đâu Thung? – Tŕnh Thái Sơn, Hoàng Mai
giữ ông ấy lại bộ chỉ huy tiểu đoàn
làm Ban 3 thay Trung úy Bé đi phép. (Hoàng Mai = Đại úy Hồ
Khắc Đàm Tiểu Đoàn Trưởng) Nghe Thiếu úy Thung nói, tôi
biết ngay thâm ư của ông tiểu đoàn trưởng
là tôi sẽ giữ vai tṛ chỉ huy Cánh A trong trận
này. Khi Đại Đội 3/11 bắt tay
được hậu quân của tôi, tôi yêu cầu anh
Thung tiến thật chậm vào vùng bên phải
trảng trống để thăm ḍ địch. Tôi
sẽ giữ an ninh bên trái cho đơn vị bạn. Chỉ vài phút sau đó, súng
cộng đồng lại nổ. Trong máy truyền tin, xen lẫn
tiếng đạn bay “Chiu chíu! Đoàng! Đoàng! …” là
tiếng kêu thất thanh của Thiếu úy Thung: “Chết hết rồi! Thái Sơn
ơi!…” Thấy pḥng tuyến địch
đầy vũ khí cộng đồng, tôi không dám
mạo hiểm xua quân lên cứu bạn. Tôi ra lệnh
cho Đại Đội 3/11 rút lui cấp kỳ, sau khi để
lại trận địa bốn năm người
chết. Sau đó, lợi dụng lúc
trời nhá nhem, Thiếu úy Thung dẫn quân núp
theo b́a rừng hướng Bắc của con đường
rút về pḥng thủ chung tuyến với tôi. Kịp khi người lính
cuối cùng của Đại Đội 3/11 nhập vào pḥng
tuyến của Đại Đội 1/11 th́ súng địch
“Đùng! Đùng!” từ b́a rừng bắt đầu
bắn như mưa. Tiếp đó là tiếng “Xung
phong!” Th́ ra địch tưởng Đại
Đội 3/11 c̣n nằm trên mặt đường, chúng
tác xạ ào ào rồi ôm súng tràn qua trảng trống,
xung phong chiếm con đường! Tới khi thấy mặt
đường không có ai, địch bèn quay đầu
chạy ngược trở lại. Tôi cho hai khẩu đại liên
bắn chéo nhau, cản đường quân địch
đang hối hả rút. Đâu ngờ súng của ta vừa
bắn chưa được nửa dây đạn, th́
nghe “Đùng! Đùng! Toác! Toác!” Địch đáp trả đ̣n
rất nhanh. Lần này là pḥng không 12.7 ly. Đạn địch như mưa băo,
tới tấp trút trên khu rừng quân bạn đang
bố pḥng. Xưa nay đi hành quân tùng
thiết, chúng tôi chỉ nghe quen tiếng 12.7 ly và Đại
liên 30 trên xe tank của ta tưới đạn trên
đầu địch. Nghe tiếng súng 12.7 ly của quân
ḿnh bắn đi mà không thấy cảm giác ǵ lạ,
cứ như nghe M 16 thôi! Nay bị hai khẩu pḥng không
của Việt-Cộng bắn với khoảng cách
rất gần, quét tới tấp trên đầu ḿnh, tôi
mới thấy ớn da gà. Những tiếng “Toác! Toác!’
nổ chát chúa chói tai. Cây, cành đua nhau đổ găy,
liên tiếp đè lên đầu, lên lưng. Chỉ
cần ngửng đầu cao cách mặt đất
cỡ hai gang tay là vỡ óc ngay! Biết ḿnh không phải là địch
thủ của lực lượng địch trước
mặt, tôi đành phải t́m đường lui. Trời đă tối, nếu
đem quân ra Tỉnh lộ 509 th́ thế nào cũng
chạm ḿn bẫy hay các toán phục kích của Dân
Vệ Xă Plei Blang 3, mà nằm tại chỗ càng nguy
hiểm hơn. Nhân lúc địch ngưng
bắn, tôi cho tất cả anh em mau mau theo nhau trườn
về hướng Bắc con đường. Tới triền dốc, chúng tôi
chui vào rừng, lập một ṿng tṛn, đào hầm
hố pḥng thủ. Tôi gọi Pháo binh Hoa-Kỳ liên
tục bắn phủ trùm một diện tích rộng
gần hai cây số vuông trên khu rừng thưa lá
thấp kéo dài về Tây Bắc. Đúng 9 giờ tối, tuyến pḥng
thủ ngoài cùng, sát mặt lộ của Trung đội
3 phát giác địch từng toán nhỏ đi tuần
tra mặt đường. Rồi, bất ngờ, vài tên địch
đâm sầm vào tuyến pḥng thủ của ta, súng
nổ. Ta có hố chiến đấu
để ẩn nấp, địch th́ đi ngời
ngời, địch trở thành những cái bia. H́nh như toán tuần tra của
địch đă bị quân ta tiêu diệt hết,
tiếng súng im… Tiếng súng đă im, nhưng
vị trí bố quân của ta lại bị lộ! Không lâu sau, quân ta phải
ngồi thu ḿnh dưới hố để tránh đạn
12.7 ly. Đại liên địch dứt vài
phút th́ Việt-Cộng lại xông lên, “Xung phong! Xung phong!” Ta và địch lại bắn
nhau, hai bên đánh nhau được chừng mười
phút th́ Hạ sĩ Trần Đợi bị thương
vào tay, Thiếu úy Đinh Quang Biện trung đội trưởng
Trung đội 3 xin tôi cho người thay. Tôi chưa biết sẽ chỉ
định ai đảm đương vai tṛ xạ
thủ đại liên, th́ Ngô Sanh nắm áo tôi, – Thái Sơn cho em thay thằng Đợi! Tôi đồng ư, – Ừ! Nhớ cẩn thận! Tôi chưa dứt lời th́ Ngô Sanh đă phóng đi
rồi. Ngay lập tức, khẩu M60 nổ gịn hơn, nhanh hơn. Tôi vừa nhận ra, Ngô Sanh quả là một xạ
thủ đại liên vô cùng xuất sắc! Vậy mà
bao lâu nay tôi không biết! Khẩu M60 của Ngô Sanh thật là lợi hại. Địch
hết c̣n hô “Xung phong!” được nữa! Mặt trận tạm yên, chúng tôi ngồi trong
hố cá nhân, phập phồng chờ đợi… Chừng nửa đêm, tôi nghe liên tiếp hai
tiếng “Oành! Oành!” của B 40 pha lẫn nhiều tràng
AK 47. Sau đó, trên máy truyền tin, Thiếu úy Biện
hốt hoảng gọi, – Thái Sơn ơi! Nguy rồi! Thằng Ngô Sanh
bị thương rồi! Tôi vội kéo tay Binh 1 Nguyễn Thiên, hiệu thính viên
PRC 25 cùng chạy ra tuyến ngoài, miệng tôi la, – Thằng Bổng đem Thu B́nh 2 sang tăng cường
cho Thiếu úy Biện! Mau lên! Khẩu M 60 của Ngô Sanh đă găy làm đôi. Ngô
Sanh nằm sơng soài trên miệng hố, bên cạnh
đó, người tải đạn cho Ngô Sanh là Binh
nh́ Trần Vở cũng đang ôm cánh tay, miệng rên
hừ hừ v́ đau. Đợi cho khẩu M 60 (Thu B́nh 2) của Hạ sĩ
Bổng vào vị trí, tôi và chú Thiên hè nhau đỡ
Ngô Sanh lên rồi chạy về ban chỉ huy dưới
bờ suối. Ngô Sanh yếu lắm rồi. Ngô Sanh bị cả
chục viên AK xuyên vào ngực. Dưới ánh đèn pin, tôi thấy môi Ngô Sanh
mấp máy. Ghé sát tai vào miệng Ngô Sanh, tôi nghe tiếng Ngô Sanh
th́ thào, – Trung úy ơi! Em đi! Vừa nghe xong lời vĩnh
biệt của thằng em, tôi lại vội vàng nhào
xuống hố v́ đạn 12.7 ly bắt đầu gịn
giă đốn găy cây cành. Đạn địch ào ào như mưa
đá văi trên lá. Đầu đạn khi ghim vào thân cây
th́ phát nổ lần thứ hai, những thân gỗ
rừng to như bắp đùi người ta mà trúng
một viên 12.7 ly th́ lập tức bị đốn
gục xuống liền. Trước cảnh này, muốn
ngăn địch, tôi phải gọi pháo binh đánh
tiếp cận v́ ta và địch cách nhau chừng hơn
hai trăm mét thôi. Sau hai hỏa tập tưới
gần một trăm trái đạn nổ trên mục
tiêu th́ anh Trung úy Mỹ cho tôi hay, Pháo binh Hoa Kỳ
đ̣i tôi phải thám sát trận địa, báo cáo
kết quả đánh phá cho họ, sau đó họ
mới thỏa măn những nhu cầu kế đó. Tôi nhờ anh cố vấn Mỹ
giải thích với đơn vị yểm trợ
rằng địch quá mạnh, tôi không thể tiến
lên được. Tôi yêu cầu họ phải yểm
trợ thêm nữa, rồi tôi sẽ cho quân tiến lên. Thế là pháo yểm lại
tiếp tục. Sau khi bắn vài tràng nữa th́ pháo
binh Mỹ ngừng luôn. Tôi cố nài nỉ, nhưng
họ không chịu cho thêm. Tôi nghĩ lại th́ thấy, ḿnh
tiêu thụ hàng trăm viên đại bác mà không thông
báo cho họ biết kết quả th́ họ ngưng
yểm trợ là phải rồi. Tôi đành gọi về bộ
chỉ huy tiểu đoàn, xin Pháo Binh Việt-Nam. Lập tức, tôi có ngay hai mươi
tràng 155 ly trên tọa độ yêu cầu. Nhưng sau
đó Tiểu Đoàn 37 Pháo Binh cũng ngưng bắn. Lư do họ ngưng bắn là v́
chúng tôi không ở trong t́nh trạng đang giao tranh, chúng
tôi cũng không kiểm soát được mục tiêu,
nếu họ bắn tiếp, hóa ra chỉ bắn vu vơ
phí đạn! Không c̣n pháo yểm, tôi quay qua xin
Hỏa Long. Máy bay lên vùng nhưng thấy
khoảng cách giữa tôi và địch quá gần,
địch lại nằm giữa tôi và hàng rào của
xă Plei Bang 3 nên phi cơ AC 47 không dám tác xạ, lư do là
không an toàn cho đơn vị bạn và cho dân
chúng cư ngụ trong làng Plei Bang 3. Chiếc Hỏa Long chỉ bay ṿng
ṿng trên trời, thả vài trái hỏa châu, rồi bay
đi yểm trợ cho mặt trận khác đang nóng
bỏng hơn. Sáng nay xuất quân, chúng tôi
nhận lệnh đi, về trong ngày, do đó tôi
chỉ cho anh em đem theo một ngày cơm vắt
với hai cấp số đạn. Chúng tôi không đem
theo đồ ngủ. Sau một ngày giao chiến, đạn
dược đă hao hụt, nếu phải đánh nhau
tiếp, chúng tôi sẽ bị thiếu đạn. Mới chạm địch,
bắn nhau vài ba lần mà tôi đă bị thiệt
mất hai người chết và sáu bị thương.
Đại Đội 3/11 cũng đă có năm người
chết và gần chục người bị thương. Biết chắc chắn rằng
nếu chấp nhận ra mặt đánh nhau tiếp th́
thế nào ḿnh cũng thua, nên tôi quyết định
tránh đụng độ và t́m đường lánh xa
vùng nguy hiểm. Tôi phải để lại cái xác
của Ngô Sanh nằm trên mặt cỏ, dự trù hôm
sau t́nh h́nh thay đổi, sẽ lo tiếp. Tôi sang vị trí đóng quân
của Thiếu úy Thung, cho lệnh anh em cấp tốc rời
vị trí. Chúng tôi theo đuôi nhau đi
thẳng về hướng Bắc. Qua cái triền dốc, hai đại
đội tụt xuống một con suối khá ớn. Đến bờ suối, tôi cho Đại
Đội 3/11 vượt sang bờ bên kia, làm đầu
cầu, quân tôi theo sau. Qua hết cái thung lũng hẹp và
dốc của suối Ia Thong chúng tôi leo lên một
ngọn đồi trọc. Từ đây tôi có thể nh́n
thấy ánh đèn rực lên từ Phi Trường Cù-Hanh
và từ phố xá Pleiku. Tôi cho quân dừng lại, quây thành
một ṿng tṛn. Tôi báo cáo tổng kết t́nh h́nh
cho đại úy tiểu đoàn trưởng. Ông
tiểu đoàn trưởng cho tôi toàn quyền
quyết định đánh hay lui tùy theo t́nh h́nh. Khoảng 2 giờ sáng tôi đang
ngồi dựa lưng một gốc cây thiu thiu ngủ
th́ giật ḿnh bởi một loạt tiếng nổ xé
màng tai, “Chang! Chang! Chang!…” Th́ ra đó là tiếng hỏa
tiễn 122 ly vừa khởi động. Vị trí địch đặt
giàn phóng nằm ngay bên kia suối, hướng chính
Bắc của ngọn đồi mà tôi đang đóng
quân. Không lâu sau đó là sáu
tiếng nổ vọng lại. Tôi không rơ hỏa
tiễn rơi trên phi trường Cù Hanh hay trên Bộ
Tư Lệnh Quân Đoàn. Trên máy truyền tin của anh
tiền sát viên có tiếng nói léo nhéo. Tiếp đó,
anh Trung úy Mỹ mở ba lô lấy cái đèn phát tín
hiệu chớp chớp lóa lóa lên trời đánh
dấu vị trí quân bạn. Rồi có tiếng trực thăng
vơ trang “Bạch! Bạch! Bạch!” tiến lại
gần. Mấy phút sau th́, “Oành! Oành! Oành!
Ồ! Ồ! Ồ!…” Hai chiếc trực thăng vơ
trang Cobras lượn ṿng ṿng, chiếu đèn pha sáng
rực, rồi chúc xuống, ngóc lên, ào ào tưới
đạn đại liên và rocket lên ngọn đồi
bên kia. Tôi nghĩ máy bay Mỹ bắn phá
chỉ phí đạn thôi! Lâu nay địch thường
dùng những giàn phóng tự động, đúng
giờ th́ hỏa tiễn bay đi, c̣n những tên
Việt-Cộng gài hỏa tiễn đă chạy
mất dạng từ lâu rồi. Chừng 4 giờ sáng, súng địch
lại nổ ran. Lần này Việt-Cộng sử
dụng tất cả mọi loại vũ khí bắn
thẳng, có cả tiếng không giựt 75 ly! Khu
rừng mà tôi mới rời bỏ đêm qua là mục
tiêu. Cũng có nhiều tràng 12.7 ly
bắn cao, đạn bay sát ngọn cây bông g̣n
đơn độc mọc giữa đỉnh đồi
mà chúng tôi đang pḥng thủ. Tôi nghĩ, có lẽ
Việt-Cộng sắp khai triển một cuộc
tấn công rạng đông trên vị trí đóng quân cũ
của tôi? Nhưng không phải vậy!
Cỡ nửa giờ sau th́ địch không bắn
nữa.Tôi chờ măi vẫn không nghe thấy tiếng hô
“Xung phong!” của địch. Từ lúc đó tôi ngồi hút
thuốc chờ đêm qua. Trời mờ mờ hừng đông,
tôi xin Pháo Binh Hoa-Kỳ và Pháo Binh Việt-Nam đánh
T.O.T trên mục tiêu để mở đường.
(TOT = Time on Target = Bắn từ nhiều vị trí súng
cho đạn nổ cùng lúc trên một mục tiêu
định trước) Cùng lúc, tôi cũng xin pḥng hờ
bốn chiếc Cobras sẵn sàng cất cánh từ Căn
cứ Oasis và từ Phi Trường Holloway. Sương mù tan, quân của tôi
vượt suối, dàn hàng ngang, thận trọng
tiến lên. Đại đội 3/11 nằm
lại bên bờ Nam của Ia Thong để làm thành
phần trừ bị, sẵn sàng tiếp cứu chúng tôi
khi cần. Vào tới b́a rừng, tôi sợ
toát mồ hôi. Địch đă rút đi rồi nhưng
dấu vết c̣n để lại. Cả một vùng rộng lớn
nằm dưới rừng cây um tùm là một vị trí
đóng quân của một đại đơn vị,
cỡ hai tiểu đoàn. Có ít nhất bốn vị trí pḥng
không 12.7 ly và hai vị trí DKZ 75 ly! Mặt đất phủ đầy
vỏ đạn đại liên 12.7 ly và 75 ly. Th́ ra trước lúc rút, địch
đă giải tỏa gánh nặng đạn súng
cộng đồng bằng cách bắn tự do gần
nửa giờ đồng hồ! Vậy mà tôi cứ tưởng,
địch bắn để dọn đường cho
một cuộc tấn công! Rơ ràng là địch rất đông,
nhưng chúng không cố ư giao tranh. Chúng chỉ phản ứng khi chúng
tôi bén mảng vào khu rừng mà chúng trú ẩn. Nếu trưa hôm qua địch
cố t́nh chạm mặt, th́ đại đội tôi
khó tránh một tổn thất nặng nề. Bao quanh ṿng đai pḥng thủ là
một hệ thống dẫn nước, chứng
tỏ rằng đơn vị Cộng-Sản này đă
đóng quân ở đây ít nhứt là một tuần
lễ. Giữa khu rừng có một mái
tranh nhà bếp với bốn cái ḷ và bốn cái
chảo gang thật lớn. Địch rút lui gấp gáp quá
nên đă bỏ lại tất cả dụng cụ nhà
bếp. Sát nách nhà bếp là bốn năm
ụ đất mới cao nghệu, đó là mồ chôn
tập thể các cán binh Cộng-Sản vừa tử
trận. Trên mặt đất loang lổ
vết đạn đại bác và hố bom, đầy
máu và bông băng cứu thương. Có nhiều
mảnh da thịt, cùng nhiều đoạn xương
tay, chân người chết văng văi trên nền đất
và trên bờ, bụi. (còn tiếp)
Mời
xem tiếp:
|