Ngày Xuân ở Biển Hồ, Pleiku (kỳ cuối)kỳ
[1] ; kỳ [2]
Vương Mộng Long |
Tôi ra
lệnh cho Binh 1 Nguyễn Thiên gắn cái ăng ten 7
đoạn vào máy truyền tin để liên lạc
với Núi Chư Xang. Vừa nghe tiếng tôi, anh Đàm
đă không giấu nổi nỗi vui mừng, –
Cám ơn Trời Đất đă che chở cho chú!
Tối qua anh mới nhận được lệnh
“Stop” chú lại, đừng đi về hướng
Tây nữa. Bên trái trục dọc ZA… là vùng hành quân
của Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ ở
trại Plei Djereng. Anh gọi khan cả cổ mà không
nghe được tiếng chú trả lời! Tôi cười, –
Không sao! Không sao! Ít phút sau tôi được lệnh gom quân
sẵn sàng để trực thăng Hoa-Kỳ tới
đón. Trưa Mùng Mười tháng Giêng năm Kỷ
Dậu 1969 Đại Đội 1/11 về tới băi trực
thăng bên hông Chợ Biển Hồ. Cư dân Biển Hồ c̣n đang ăn Tết
muộn. Trong sân nhà thờ, lũ con nít chen vai nhau xem cái
đầu lân múa may. Trên sân chợ, nhiều người, lính và
vợ lính, xúm quanh những cái chiếu xóc dĩa và
bầu cua, cá cọp. Không có ai đón chúng tôi về. Sau khi cho anh em lau chùi vũ khí, chia phiên canh gác và
xuất trại, năm sĩ quan của đại đội
tôi gồm có Trung úy Vương Mộng Long, Thiếu úy
Trần Dân Chủ, Thiếu úy Nguyễn Hữu Vy,
Thiếu úy Đinh Quang Biện và Chuẩn úy Đàm Quang
Hạ Long theo chân nhau leo lên chiếc Jeep của
đơn vị rồi rồ máy, nhắm hướng
Pleiku. Nơi chúng tôi ghé đầu tiên sẽ là Quán
Kim Liên trên đường Hoàng Diệu. Tôi quen nhà Kim Liên này từ cuối năm 1966,
khi mới chân ướt, chân ráo từ Đà Nẵng thuyên
chuyển vào đây. Ông cụ, bà cụ thân sinh ra chị chủ quán
có tám người con, hai trai, sáu gái. Chị Liên, chủ quán Kim Liên là người con
thứ ba. Chồng chị làm nghề Thông dịch viên
cho Mỹ. Vừa thấy mặt tôi, chị Liên đă
vội quay mặt vào trong nhà lớn tiếng gọi, –
Bà ngoại ơi! Cậu Long về rồi! Một cụ bà Bắc Kỳ, đầu
quấn khăn vành dây chạy ra nắm tay tôi, -Thằng
này đi đâu mà mất tăm mất tích mấy ngày
Tết? Mẹ để dành cho mày hai cái bánh chưng và
một cái gị lụa mà măi không thấy mày về,
mẹ lo quá! Tiếp đó là bé Lân, con gái út của bà
cụ bưng ra một mâm bánh chưng, chả lụa,
dưa hành. Lân lí nhí, – Phần của anh
đây! Đang lúc đói ḷng, không khách sáo, năm anh em chúng
tôi cầm đũa mà chẳng chút ngại ngùng. Khách của quán kem Kim Liên đa phần là lính và
công chức. Nhiều người thường xuyên ghé
đây nên quen nhau. Một anh bạn giáo viên sà
xuống bàn tôi gợi chuyện, –
Nghe nói mấy ngày nay Tiểu Đoàn 11 chạm nặng
trong Plei Blang 3. Yên chưa mà các anh đă về ngồi
đây rồi? Tôi lừ mắt để bốn ông sĩ quan dưới
quyền tịnh khẩu, rồi cười, –
Không có chi! Đánh nhau chưa tới một ngày là
tụi Việt-Cộng đă bỏ chạy mất tiêu
rồi!
Mùng Một Tết Mậu Thân năm ngoái, chính tôi
là người đă chỉ huy đơn vị
Biệt Động Quân xuất phát từ mái hiên của
Quán Kim Liên này để tái chiếm cái doanh trại Địa
Phương Quân bị Việt-Cộng chiếm trên
đầu con dốc cách Kim Liên chưa đầy hai trăm
thước. Và sau đó, máu từ vết thương trên
ngực tôi đă đọng thành vũng trên đường
Hoàng Diệu này. Mới trải qua một cái Tết Mậu Thân
thôi, người dân Pleiku đă sợ lắm rồi! Tôi
không muốn đồng bào tôi sợ hăi thêm. V́ thế, tôi không muốn nói cho người dân
Pleiku biết Pleiku vừa thoát một đại họa
giống như Tết Mậu Thân vừa rồi. V́ thế, tôi không muốn kể cho người
dân Pleiku biết chuyện một trung đoàn Cộng
Sản đă nằm sát nách Pleiku và sẵn sàng ào vào
thành phố. Nếu ngày Mùng Năm Tết năm Kỷ
Dậu (1969) mà tôi không t́nh cờ chạm trán với
chúng, khiến cho chúng bị bại lộ tung tích,
phải vội vàng tháo chạy, th́ có lẽ giờ này
Pleiku đă lâm vào cảnh đổ nát điêu tàn, nhà
cháy, đạn bay. Pleiku sẽ lại tái diễn cảnh xác người
phơi đầy đầu đường, cuối
phố. Ít bữa sau, nhân dịp đi họp để
nhận lệnh tăng phái cho Không Kỵ Hoa-Kỳ, tôi
được gặp mặt ông Trưởng Pḥng 2 Quân
Đoàn II và được biết rằng, sở dĩ
quân đoàn ra lệnh cho đại đội tôi đeo
theo dấu vết Trung Đoàn E 24 Cộng-Sản là v́ thượng
cấp tin tưởng khả năng của đại
đội tôi, dù phải đương cự với
một trung đoàn Việt-Cộng th́ chúng tôi vẫn
có thể cầm chân địch ít nhất vài giờ. Tuy đơn vị tôi đi đơn độc,
nhưng lúc nào cũng có một toán tiền sát pháo
binh, hai tiểu đoàn bộ chiến và một phi
đoàn trực thăng của Sư Đoàn 4 Mỹ
sẵn sàng nhảy xuống nếu tôi chạm địch. Tới lúc này tôi mới biết, bộ chỉ
huy hành quân đă dùng đại đội tôi như
một con mồi nhử cho Trung Đoàn E 24 của Mặt
Trận B3 Cộng-Sản lộ diện để quân
Mỹ nhảy xuống bao vây và tiêu diệt. Có điều ngoài dự trù của bộ tham mưu
là chúng tôi không đem theo nồi niêu, không khói
lửa, không lều vơng, mọi người lại
bấm bụng nhịn thuốc lá suốt thời gian
di hành, nên chúng tôi cứ đeo sát sau lưng mà địch
không hay. Địch đă không lộ diện, quân Đồng
Minh không cần nhảy xuống đánh nhau, nhưng
nhờ có những tin tức chính xác do tôi báo cáo mà Sư
Đoàn 4 Hoa-Kỳ đă có những Box bom B52 đánh
chận đầu địch thật là hiệu
quả. Sau này tôi được biết trong chiến
dịch Xuân Kỷ Dậu 1969, Trung Đoàn E 24 của
Mặt Trận B3 Cộng-Sản đă bị pháo đài
bay B52 Hoa-Kỳ đánh bom trúng đội h́nh, bị xóa
tên và giải thể. Hai tuần lễ sau ngày Đại Đội 1/11
chạm địch tại Plei Blang 3 tôi ghé Bộ
Chỉ Huy Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân thăm
Thiếu úy Duyên. Tại Ban Tài-Chánh của liên đoàn, tôi
chứng kiến cảnh ông Thượng sĩ Đăng
phát hướng viên, vừa đếm tiền, vừa
hằn học với một chị quả phụ, – Thôi nhé! Tôi mong
rằng đây là lần sau cùng, chị Hoàng Thị Đại
Liên gặp tôi để lănh tiền tử đấy
nhé! Tôi làm nghề phát lương từ khi Vùng 2
bắt đầu có Biệt Động Quân tới
giờ. Chị lănh tử tuất lần này là lần
thứ ba. Từ nay chị đi đâu th́ đi!
Chị lấy lính ǵ th́ lấy! Đừng lấy lính
Biệt Động Quân nữa! Người đàn bà mặc đồ tang,
nức nở khóc, – Tội nghiệp
em lắm Thượng sĩ ơi! Em đâu có ngờ.
Nếu biết cớ sự này, em đâu dám lấy
chồng? Em chỉ thương lính Biệt Động Quân
thôi! Em không thương lính ǵ khác cả! Nếu không
cho em thương lính Biệt Động Quân th́ em
biết thương ai đây? VML (Seattle, Xuân 2020) |