Từ
lệnh bỏ Huế ngày 25/3/1975: Vĩnh Biệt
Chốn Kinh Kỳ!
|
Những
ngày này 44 năm trước, VNCH bị đồng minh
Hoa Kỳ đẩy tới đường cùng. Số
phận của Huế và cả nền Cộng Ḥa
tại miền Nam hầu như được quyết
định trong hai phiên họp khẩn cấp tại
Dinh Độc Lập ngày 25 và 26/3/1975. Để tưởng
nhớ ngày phải rời bỏ Huế năm xưa,
mời đọc lại bài viết của Giáo sư
Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng
Kế Hoạch trong chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa,
tác giả sách “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” và
“Tâm Tư Tổng Thống Thiệu.” Vua
nước Chiêm Thành là Chế Mân, người
anh hùng chiến thắng cả được quân Nguyên
Mông, thế mà lại phải đầu hàng trước
nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành của Huyền
Trân Công Chúa. Ông liền dâng cả miền
đất của Châu Ô, Châu Rí cho Việt Nam
để làm quà sính lễ xin cưới Huyền Trân
về làm vợ. Nàng hy sinh, giúp mở được
con đường Nam Tiến. Vua Trần đổi
tên hai châu thành Thuận Châu và Hóa Châu, gọi
tắt là Thuận Hóa. Chữ ‘Hóa’
dần dần đọc trại đi thành “Huế.” Câu
chuyện lăng mạn ấy đi đôi với cái phong
cảnh nhẹ nhàng, quyến rũ của miền đất
này. Lăng tẩm, Thành nội, Thành ngoại, đầm
sen tỏa hương thơm ngát. Rồi những
buổi chiều tím, những đêm trăng mờ,
những con đ̣ nho nhỏ. Nếu ta dừng lại
ở vài bậc chót khi lên Chùa Thiên Mụ mà ngắm
cảnh hoàng hôn rực rỡ trên ḍng Sông Hương
th́ sẽ thấy ḷng ḿnh lắng xuống, rồi như
bị cuốn vào với tiếng chuông chùa, ngân vang vào
không trung: ai đi xa Huế làm sao quên được Sông
Hương? Cái cảnh
nửa đi nửa ở không phải chỉ ám
ảnh người lữ khách khi phải ĺa xa nơi
Cố đô, nhưng nó c̣n làm cho các nhà quân sự trăn
trở không ít khi phải vĩnh biệt chốn Kinh
Kỳ vào cuối tháng Ba năm ấy. Lúc
th́ cố thủ, lúc th́ rút quân, rút xong lại
muốn quay về giữ Huế, cứ dùng dằng măi. Trong một
báo cáo tối mật của Tướng Fred Weyand gửi
Tổng Thống Gerald Ford sau chuyến viếng thăm
chiến trường Miền Nam vào cuối tháng 3,
1975, ông nói tới hậu quả bi đát của
việc cúp hết viện trợ làm tê liệt khả
năng chiến đấu của VNCH. Về cuộc
họp tại Dinh Độc Lập trước khi
bỏ Huế (13/3), ông b́nh luận: “Trong
mười hai ngày tiếp theo sau bưổi họp này
(từ 13 tới 25), có sự băn khoăn lớn lao
(critical desolation) từ phía Quân Đoàn I và Sàig̣n
về việc nên giữ lại những phần nào
ở QĐ I, nhất là về việc có nên hay không
nên giữ Huế.” Tiến
thoái lưỡng nan
–“Anh Trưởng hả? Liệu có giữ được
Huế không?” TT
Thiệu hỏi Tướng Ngô Quang Trưởng qua
điện thoại. Hôm đó là ngày 25 tháng 3,
1975. Một cuộc họp tại Dinh Độc Lập
dưới quyền chủ tọa của TT Thiệu lúc
9 giờ 30 sáng. Hiện diện: ngoài Phó TT Trần Văn
Hương và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm: Về phía
quân sự: Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng
Đặng Văn Quang, Trung tướng Đồng Văn
Khuyên. Về phía
dân sự: Ngoại trưởng Vương Văn
Bắc, Tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn
Tiến Hưng. Khi mọi
người đă đến đông đủ, một
bầu không khí im lặng ghê rợn bao phủ pḥng
họp. Những điểm mầu đỏ đánh
dấu vị trí đồn trú của quân đội
Bắc Việt trên tấm bản đồ lớn trên
tường đă mọc lên như nấm. Cuộc
duyệt xét t́nh h́nh quân sự bắt đầu. Sau khi tướng
Khuyên tŕnh bày về t́nh h́nh QK I và II, TT Thiệu
nhấc máy điện thoại gọi tướng Trưởng
hỏi xem có giữ được Huế hay không.
Rồi ông nhắc lại câu trả lời từ đầu
giây bên kia: — Trung
tướng Trưởng: “Nếu có lệnh, th́
giữ.” — TT
Thiệu: “Liệu giữ được bao lâu?” — Trung
tướng Trưởng“Ngày một ngày hai.” — TT
Thiệu: “Vậy nếu không giữ được,
phải quyết định ngay, và nếu quyết định
(bỏ Huế) th́
phải làm cho lẹ.” V́ những
biến cố về Huế c̣n đặt ra nhiều
nghi vấn nên chúng tôi đă ghi lại thật rơ trong
cuốn sách Tâm Tư Tổng Thống Thiệu về
những diễn tiến ở Dinh Độc Lập có
liên hệ tới Quân đoàn I vào tháng 3/1975, cùng
với suy tư của Tổng thống Thiệu và Trung
tướng Trưởng. Thêm vào đó là tường
thuật của Đại tướng Viên và những
tài liệu của Hoa Kỳ (xem Tâm Tư Tổng
Thống Thiệu, Chương 3). Cuộc
họp tại Dinh Độc Lập ngày 19 tháng 3 Trong bối
cảnh ấy th́ sáng ngày 19/3, Tướng Trưởng
bay vào Sàig̣n để tŕnh bày kế hoạch rút lui lên
tổng thống, lần này có sự hiện diện
của cả Phó Tổng thống Trần Văn Hương.
Sự hiện diện của cụ Hương là
việc bất thường, v́ xưa nay khi bàn
chuyện quân sự ông Thiệu thường chỉ
mời có các ông Khiêm, Viên và Quang mà thôi. Chắc lúc
đó, ông phải nhờ đến sự ủng
hộ của Phó Tổng thống để thuyết
phục Tướng Trưởng nên bỏ Huế. Theo Đại
Tướng Viên thuật lại trong cuốn Những
Ngày Cuối Cùng Của VNCH (trang 162-163):
–“Anh Trưởng hả? Liệu có giữ được
Huế không?” Tướng
Trưởng tŕnh bày kế hoạch với hai giải
pháp:
V́ lúc
ấy “không thể rút quân theo kế hoạch thứ
nhất được v́ đoạn đường
Huế-Đà Nẵng, Chu lai-Đà Nẵng đă bị
chốt, làn sóng tỵ nạn lại đang từ
mọi ngả dùng con lộ duy nhất này để
chạy về Đà Nẵng, nên Tướng Trưởng
kết luận: “ ‘chúng ta chỉ có một chọn
lựa, và chúng ta phải thi hành ngay trước khi quá
trễ.’ Chọn lựa của tướng Trưởng
là rút quân về Huế, Đà Nẵng, Chu Lai và
lợi dụng những công sự pḥng thủ đă có
trong thành phố, hay địa h́nh chung quanh, như
những cao điểm của những ngọn đồi
ngoại thành để chống cự.” Trong
cuộc họp ngày 19 tháng 3, TT Thiệu kể lại là
ông đă miễn cưỡng chấp thuận kế
hoạch thứ hai của ông Trưởng v́ ông Trưởng
nói không c̣n đường nào tháo lui khỏi Huế
được nữa v́ QL 1 đă bị chặn: “Tôi
nói với tướng Trưởng là mặc dầu
lịch sử có thể phán xét tôi như một
thằng ngu (imbécile) nhưng v́ ḷng tôi đối
với đất nước, tôi đồng ư.”
Sau đó ông Thiệu tiễn ông Trưởng ra
khỏi Dinh Độc Lập và nói:“Tôi đợi
đến khi anh về tới Đà Nẵng rồi
sẽ tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát
thanh.” TT Thiệu
thêm: khi về tới Đà Nẵng th́ “Ông Trưởng
gọi điện thoại để yêu cầu tôi hăy
hoăn lại việc tuyên bố tử thủ Huế trên
đài phát thanh, v́ có thể ta không giữ nổi
Huế.” Tôi hỏi tại sao Tướng
Trưởng lại thay đổi? TT Thiệu trả
lời:”Lư do là khi máy bay vừa đáp xuống Đà
Nẵng, Tướng Trưởng nghe Tướng (Lâm
Quang) Thi, Tư lệnh phó QĐ I báo cáo là QĐBV đă
bắt đầu pháo vào bộ chỉ huy rồi. Việc Tướng
Thi báo cáo bộ tư lệnh của ông đă bị
pháo th́ Đại tướng Viên cũng xác nhận
trong cuốn hồi kư của ông (sđd., trang 164-165). Nhưng
việc Tướng Trưởng xin hoăn tuyên bố
cố thủ Huế trên đài phát thanh th́ chưa
thấy ai nói tới. Cũng theo lời TT Thiệu, v́
ông đă miễn cưỡng đồng ư với Tướng
Trưởng về việc giữ Huế mà bây giờ
lại thấy ông Trưởng dè dặt, lung lạc nên
nhân cơ hội này, ông Thiệu lại nói thêm về
việc nên bỏ Huế. Ông cho ông Trưởng
biết là cả Phó Tổng thống, cả Thủ tướng
đều chống lại việc giữ cả hai nơi
– Huế và Đà Nẵng- cùng một lúc. Nhưng
mặc dù TT Thiệu tỏ ư dè dặt, Tướng Trưởng
vẫn tiến hành kế hoạch giữ ba cứ địa
Huế, Chu Lai và Đà Nẵng, v́ Quốc Lộ 1 đă
bị chận rồi, không thể rút được
nữa, vả lại ông cho rằng Tổng thống tuy
dè dặt nhưng chưa rút lại lệnh đó. Vào thời
điểm này th́ đài BBC luôn loan báo đầy
đủ chi tiết về cuộc triệt thoái Pleiku và
tiên đoán là quân đội Bắc Việt sẽ
tới vùng phụ cận Sàig̣n trong ṿng vài ba tuần
lễ v́ Quốc lộ 14 từ Ban Mê Thuột đă
mở rộng. Đài VOA th́ tường thuật
về vụ nhóm Dân chủ ở Hạ viện đă
bỏ phiếu chống viện trợ bổ túc cho
Miền Nam (ngày 12 tháng 3) với số phiếu 189-49;
rồi nhóm ở Thượng viện theo sau với
số phiếu 34-6. Binh sĩ nghe liên tục như
vậy nên tinh thần sa sút rất nhanh. Từ Miền
Trung, đơn xin tiếp liệu về thực
phẩm, dược phẩm, nhà tạm trú cho gia đ́nh
binh sĩ và nhân dân di tản tới tấp bay về Sàig̣n,
nhưng chính phủ trung ương đă hầu như
cạn kiệt. Năm ngày
trăn trở về Huế
“Kế
hoạch di tản lực lượng khỏi Huế
bắt đầu bằng cách cho sư đoàn 1BB và các
đơn vị cơ hữu của sư đoàn rút
ra Cửa Tư Hiền…” (sđd., 171). Lệnh
bỏ Huế ngày 25/3/1975 Như
viện dẫn ở đầu bài, trong buổi họp
ngày 25/3, sau khi TT Thiệu hỏi Tướng Trưởng
“nếu ông quyết định giữ Huế th́
được bao lâu,” ông Trưởng trả lời
là chỉ giữ được “ngày một ngày
hai,” ông Thiệu lập lại cho mọi người
nghe, rồi ra lệnh: “Vậy nếu không giữ
được, phải quyết định ngay, và
nếu quyết định (bỏ Huế) th́ phải làm
cho lẹ.” Tới
đây ông Thiệu không nhắc lại thêm các câu
trả lời sau đó của ông Trưởng nữa.
Ông đặt ống nói xuống, và nói: “Ông Trưởng
rất depressed” (chán nản). Sau khi tham khảo
với Đại tướng Viên, Tổng thống
Thiệu ra chỉ thị cho ông gửi công điện
cho Tướng Trưởng, đưa ra ba lệnh (và
tôi ghi rất rơ ràng xuống cuốn sổ tay c̣n
giữ được): “Thứ
nhất, bỏ Huế; “Thứ
hai, phải làm cho lẹ; và “Thứ
ba, tử thủ Đà Nẵng.” TT Thiệu
thở dài: “Ḿnh trông cậy vào ba ‘enclaves’
(cứ điểm), mà bây giờ chỉ c̣n một
ở Đà Nẵng.” Nghe vậy, ông Bắc và tôi
bàng hoàng nh́n nhau. Như vậy là đă có lệnh chính
thức bỏ Huế. Trong
cuốn ‘Decent Interval,’
tác giả Frank Snepp viết về ḷng thương
của Tướng Trưởng đối với binh sĩ
và hậu quả như sau: “Đang
khi Tướng Trưởng tŕnh bày với TT Thiệu
về kế hoạch của ông th́ số quân đội
mà ông cần để thi hành này lại đang tan ră
(disintegrating). Và
đó là lỗi ông ta một phần (He was partly to
blame). Mấy ngày trước đó ông đă cho phép quân
nhân của SĐ I được phép lo cho an toàn
của gia đ́nh họ. Ông đă làm như vậy là
v́ ḷng thương của một tư lệnh đối
với binh sĩ, nhưng khi Quốc Lộ I đă
bị chận rồi th́ chỉ thị này đă
dẫn tới hỗn loạn, v́ sĩ quan cũng như
quân nhân đă bỏ đồn từng loạt để
lo cho thân nhân t́m lối thoát.” Nơi đây, tôi mở ngoặc để
nhắc lại về t́nh trạng kinh tế khó khăn
của thân nhân người binh sĩ trước khi
sụp đổ. Từ mùa Hè 1974, sau khi giá xăng
dầu tăng lên gấp ba lần, ngân sách không c̣n
đủ khả năng tăng lương cho quân đội
để đáp ứng với lạm phát v́ viện
trợ đă bị cắt gần hết. Chính phủ
chỉ định cho mỗi Bộ nhận một sư
đoàn để t́m cách giúp đỡ. Sư đoàn
1 được giao cho Bộ Kế Hoạch.Trong
một chuyến đi Huế thăm sư đoàn này,
chúng tôi được Chuẩn Tướng Nguyễn Văn
Điềm đưa đi thăm hỏi gia đ́nh
binh sĩ. Ông tâm sự rằng để cho thân nhân
sống trong các lều, bạt ngay sát trại như
thế này th́ thật là nguy hiểm khi bị pháo kích
và cũng thật khó khăn khi phải chuyển quân,
nhưng phải chấp nhận v́ với số lương
quá ít ỏi, người lính phải chi tiêu chung
với gia đ́nh. Thật vậy, với 20,000 đồng
một tháng (măi lực bằng khoảng $28 đô la),
người quân nhân chỉ có thể mua gạo, nước
mắm cho gia đ́nh, c̣n lại rất it cho những
nhu cầu khác như thuốc men, may mặc, giáo dục
con cái, giải trí. * Ngày 26 tháng 3, 1975 một buổi họp
tiếp theo tại Dinh Độc Lập vào lúc 10
giờ sáng. Có mặt tại buổi họp: Tổng
thống Thiệu, Ngoại trưởng Bắc và chúng
tôi. Cuộc họp này là để bàn về việc t́m
cách để cấp tốc khai thác hai bức thư
của Chủ tịch Thượng viện Trần Văn
Lắm và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá
Cẩn viết cho hai Chủ tịch Lưỡng
viện Quốc hội Hoa Kỳ ngày hôm trước (25
tháng 3). Giữa cuộc họp th́ TT Thiệu lại
nhấc điện thoại nói chuyện với Tướng
Trưởng về Huế: — TT Thiệu: “Anh Trưởng
hả? T́nh h́nh Huế thế nào?’ — Tướng Trưởng: (theo như
lời ông Thiệu nhắc lại trong pḥng họp): “Đang
bị đánh vài trận.” Cùng ngày bỏ Huế, TT
Thiệu chỉ thị cho tôi tŕnh ông bản thảo chót
về bức thư cầu cứu Tổng thống Ford.
Mở đầu có câu: “Thưa Tổng Thống,
lúc lá thư này tới tay Ngài, thành phố Huế có
lẽ đă bị bỏ ngỏ, và rất có thể
chính Sàig̣n cũng bị đe dọa.” Ông
Thiệu gạch ngay câu mở đầu đi v́
Huế đă bị bỏ ngỏ rồi. Trên đầu
thư chúng tôi đề “Saigon, March…, 1975” để
trống con số về ngày gửi, v́ chưa biết
ông định gửi thư ngày nào. Lúc ấy ông
lấy bút ch́ xanh viết xuống số “25” thật
to, tức là “Saigon, March 25, 1975.” Tôi c̣n nhớ rơ khuôn
mặt buồn thảm của ông lúc ấy. Ông bảo
tôi đưa bản văn cho Chánh Văn Pḥng tổng
thống là Đại tá Cầm để cho đánh máy
và chuyển cho Đại sứ Graham Martin ngay. Gửi thư đi rồi, TT
Thiệu chờ đợi từng giây phút về
phản ứng của Tổng thống Ford. Nhưng nhận được thư
SOS, TT Ford lờ đi, không hồi âm, măc dù khi lên
nhậm chức Tổng thống thay TT Nixon vào mùa
hè 1974 ông đă viết cho TT Thiệu ngay ngày làm
việc đầu tiên tại Ṭa Bạch Ốc: “Những
cam kết mà nước Mỹ đă hứa hẹn
với VNCH trong quá khứ vẫn c̣n hiệu lực và
sẽ được hoàn toàn tôn trọng trong nhiệm
kỳ của tôi” (thư ngày 10 tháng 8, 1974, xem
Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 194-196). TT Ford chỉ
làm một nghĩa cử để biểu diễn.
Trong cuốn hồi kư A Time to Heal (1979) ông viết
lại: “Chiều ngày 25 tháng 3
(ngày 26 giờ Sàig̣n), tôi họp với các ông Kissinger,
Scowcroft, Martin và tướng Weyand, Tham Mưu Trưởng
Lục Quân. Mọi người đều biết là t́nh
h́nh Miền Nam rất trầm trọng, nhưng
chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào. Tôi
yêu cầu ông Weyand bay sang Sàig̣n sớm nhất có
thể, ở đó một tuần rồi mang về
một báo cáo đầy đủ.” Nói rằng “Chẳng
ai biết nó nguy kịch như thế nào” th́ đúng
là nói dối. Ông đă nhận được thư
SOS của TT Thiệu và của lưỡng viện VNCH,
lại đươc nghe Đại Sứ Graham Martin
từ Sài g̣n về báo cáo. Sau này ĐS Martin c̣n nói
lại với chúng tôi là sau khi ông họp nhiều
lần với TT Thiệu, cũng như đă có đầy
đủ tin tức chiến trường do ông Polgar (Giám
đốc CIA ở Sàig̣n) cung cấp, ông đă báo cáo
rất chi tiết cho cả hai ông Kissinger và Ford. Như
vậy là trong hồi kư, trước sự đă
rồi, TT Ford chỉ biện luận cho hành vi phản
bội của ḿnh. Hồn khí linh thiêng nơi cố
đô Vừa rút khỏi Huế buổi sáng
th́ buổi chiều lại một tin sét đánh, hy
vọng cuối cùng của VNCH để có chút
tiền sống cầm hơi đă bị tan biến. Vào
cuối năm 1974, một tia sáng loé lên. Có
ông vua dầu lửa người xứ Arabia chiếu
cố đến Miền Nam. Vua Saud al Faisal
cho biết ông có rất nhiều thiện cảm
với nhân dân Miền Nam và đă bí mật đồng
ư cho Miền Nam vay một số tiền để mua
tiếp liệu (xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy,
trang 474). Thật là một cơ hội quư báu.
Đang lúc nguy kịch lại có nhà hảo tâm đến
cứu. Vua Faisal bằng ḷng cho vay dài
hạn $300 triệu (để bù đắp cho số
tiền vừa bị QH Mỹ vét nạo hết).
Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Họp lên họp
xuống, nhất thiết là phải thực hiện
ngay kế hoạch này để tới 1975/76 c̣n
giữ được một phần lượng
nhập cảng những hàng thiết yếu. Đặc
biệt là dầu, xăng, thực phẩm, thuốc men,
và phân bón. Nếu quá khan hiếm những sản
phẩm này th́ chắc chắn sẽ có khủng
hoảng lớn. Nhưng đúng là “hoạ
vô đơn chí.” Những cái rủi ro nó hay theo
nhau mà đến. Đang lúc chúng tôi sửa soạn
để cùng với Ngoại Trưởng Vương
Văn Bắc lên đường đi Riyadh đàm
phán, mong sớm có giải ngân, th́ đùng một cái, vua
Faisal bị chính cháu ruột ḿnh sát hại một cách
thảm thương ngay trong hoàng cung. Chính phủ Miền Nam bàng hoàng.
Tổng Thống Thiệu gửi điện văn chia
buồn cùng Hoàng gia, nói tới nghĩa cử cao đẹp
của ngài Faisal, cầu xin cho Allah sớm đưa Ngài
về nơi cực lạc. V́ t́nh
cảm cao đẹp ấy, Việt Nam Cộng Ḥa yêu
cầu Hoàng gia tiếp tục thực hiện công
cuộc yểm trợ Miền Nam như Ngài đă
vạch ra. Thế nhưng, trong lúc tang gia bối
rối, t́nh h́nh quốc nội xáo trộn, Hoàng gia
Saudi đâu c̣n thời giờ hay tinh thần mà để
ư đến chuyện của nước khác. Đứng về khía cạnh tâm linh, tôi
tự hỏi làm sao lại có sự trùng hợp
giữa cố đô Hoàng Triều Huế và ông vua
xứ Saudi cùng một ngày như vậy? Phải chăng
đă đến lúc vận nước suy tàn? GS.Nguyễn Tiến Hưng |